1 nhà toán học kiệt xuất Việt Nam

Sau 8 kỳ giải thưởng chính thức của Hội Toán học châu Âu - EMS, lần đầu tiên một nhà toán học trẻ gốc Việt được vinh danh trong năm 2020. Đó là GS.TS Phan Thành Nam – một chàng trai sinh trưởng ở Phú Yên. Giải thưởng sẽ được trao tặng tại Đại hội toán học Châu Âu năm 2020, nhưng do ảnh hưởng đại dịch COVID -19 nên sự kiện này dịch chuyển đến tháng 6-2021.

  • GSTS Vũ Hà Văn: Nhà toán học trẻ tài năng tại Mỹ

1.Tôi tìm đến ngôi nhà ở số 18 Lương Tấn Thịnh, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên giữa buổi sáng tháng 5. Nhìn gương mặt rạng rỡ và nụ cười thân thiện của vợ chồng ông bà Phan Thanh Bình - Phan Thị Mùi, thân sinh GS.TS Phan Thành Nam, tôi cảm nhận niềm vinh hạnh của một gia đình có hai người con thành danh.

Ông Bình chia sẻ rất chân tình: “Nam từng là học sinh giỏi Văn cấp tỉnh khi đang ở bậc trung học cơ sở, nhưng lại đam mê Toán học và Vật lý, nên thi vào Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh – Phú Yên và trở thành học sinh chuyên Toán niên khóa 2000 - 2003. Trong suốt 12 năm đi học văn hóa phổ thông, chưa bao giờ Phan Thành Nam và em trai là Phan Thành Việt bị ép đi học thêm, vợ chồng tôi để cho con tự do phát triển theo sở thích và niềm đam mê.

GS.TS Phan Thành Nam trong một lần về với quê nhà Phú Yên – xứ sở hoa vàng trên cỏ xanh.

Hai anh em lần lượt vào chuyên Toán Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh rồi Khoa Toán Trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh và được những bậc thầy nổi tiếng như Dương Minh Đức, Đặng Đức Trọng giảng dạy, truyền lửa đam mê…”.

Nhớ lại con đường đưa mình đến với duyên nghiệp Toán học, GS.TS Phan Thành Nam chia sẻ : “Trước khi vào học chuyên Toán ở Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh – Phú Yên, tôi từng đọc “Các nhà Vật lý đi tiên phong”.

Đó là một quyển sách rất hay, ở đó các nhà bác học như Faraday được mô tả như những anh hùng. Tôi rất muốn học theo hướng đó để hiểu những gì họ làm. Trong sách chỉ dẫn muốn hiểu Vật lý phải học Toán nên tôi khởi sự từ Toán học, đến khi làm tiến sĩ mới chuyển hướng Vật lý - Toán theo định hướng ban đầu”.

Năm đầu tiên ở Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh, Phan Thành Nam gây bất ngờ với bạn bè khi lập kỳ tích đầu tiên bằng tấm Huy chương Vàng môn Toán tại kỳ thi Olympic các tỉnh phía Nam.

Đến năm lớp 11 cậu học trò này không chỉ tiếp tục đoạt Huy chương Vàng môn Toán tại kỳ thi Olympic các tỉnh phía Nam, mà còn đạt giải Nhì trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia không có giải Nhất và được Bộ Giáo dục và Đào tạo chọn vào đội dự tuyển thi chọn Đội tuyển Olympic Toán quốc tế năm 2002.

Tốt nghiệp THPT năm 2003, Phan Thành Nam được tuyển thẳng vào đại học và trở thành sinh viên lớp tài năng Toán học Trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Sau khi nhận tấm bằng tốt nghiệp đại học hạng xuất sắc năm 2007, Nam được giữ lại trường để tiếp tục theo học thạc sĩ Toán ứng dụng trong chương trình liên kết với Đại học Orléans  - Cộng hòa Pháp. Chỉ sau một năm, Nam đã bảo vệ thành công luận án thạc sĩ tại Pháp với số điểm 19,6/20 và là thủ khoa năm 2008.

Phan Thành Nam [bên trái, hàng dưới] trong đội hình luyện tập quân sự khi còn là sinh viên năm thứ nhất Trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.

Con đường du học đã đưa Nam trở thành nghiên cứu sinh với học bổng toàn phần tại 4 trường đại học danh tiếng ở Pháp, Mỹ, Đan Mạch và Ý, nhưng Nam đã chọn điểm đến là Đại học Copenhagen - Đan Mạch để theo đuổi chuyên ngành Toán lượng tử và đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ năm 2011, khi mới 26 tuổi.

Không dừng lại ở đó, ngọn lửa đam mê khoa học vẫn bùng cháy trong tâm trí của TS Phan Thành Nam, năm 2011 Nam tiếp tục hành trình nghiên cứu sau Tiến sĩ [postdoc] tại Đại học Cergy - Pontois thuộc Trung tâm Khoa học Quốc gia Pháp và tại Institute of Science and Techhnology - Cộng hòa Áo.

Đáp lại những nỗ lực của chàng trai thông minh, đam mê khám phá toán lượng tử, năm 2016, TS Phan Thành Nam được phong hàm GS Toán tại Masaryk University - Cộng hòa Czech, đến giữa năm 2017 được phong hàm GS tại Đại học Ludwig Maximilian Muchen thành phố Munchen – Cộng hòa liên bang Đức vào năm 2017, một trong những trường đại học danh tiếng hàng đầu ở châu Âu.

2. Trước khi được công nhận GS, Phan Thành Nam từng là học giả IST tại Viện Khoa học và Công nghệ Áo sau đó được mời về giảng dạy tại Đại học Masaryk, Brno - Cộng hòa Czech. GS.TS Phan Thành Nam đã 2 lần được mời tham luận tại Hội nghị Quốc tế về Vật lý - Toán. Hội nghị này là diễn đàn lớn nhất thế giới về Vật lý - Toán, được tổ chức ba năm một lần bởi Hiệp hội Quốc tế về Vật lý - Toán.

GS.TS Phan Thành Nam bên người mẹ – cựu nhà giáo Phan Thị Mùi.

Tên tuổi của GS.TS Phan Thành Nam nổi bật trong cộng đồng Toán thế giới từ năm 2018, khi Nam là một trong ba nhà Toán học trẻ được Hội Vật lý thuần túy và ứng dụng Quốc tế [IUPAP] trao giải thưởng “Nhà khoa học trẻ về Vật lý – Toán” tại Đại hội Vật lý - Toán quốc tế [ICMP] tổ chức ở Montreal – Canada.

Trước khi nhận giải thưởng này, Nam đã có nhiều đóng góp nền tảng cho lý thuyết Toán học của các hệ lượng tử nhiều hạt, đặc biệt đã chứng minh giả thuyết ion hóa trong lý thuyết Thomas-Fermi-Dirac-von Weizsacker và chứng minh Bogoliubov cho một lớp các hệ Bonson có tương tác.

Khi nghe thấy tên mình nằm trong danh sách 10 nhà Toán học được giải thưởng chính thức của Hội Toán học Châu Âu – EMS lần thứ 8 -2020 đã được đăng tải trên trang tin Hội Toán học Châu Âu, chính GS.TS Phan Thành Nam cũng bất ngờ. Nam biết được tin này khi trang cá nhân của GS Ngô Bảo Châu gửi đến Nam những dòng chữ ngắn gọn, chân thành: “Chúc mừng Phan Thành Nam, chúc mừng Phú Yên. Đây là thành tích rất đáng tự hào”.

GS.TS Phan Thành Nam bên vợ.

Nam chia sẻ: “Tôi thật sự bất ngờ và vinh hạnh khi biết mình là một trong mười nhà Toán học được trao giải thưởng chính thức của Hội Toán học châu Âu – EMS. Giải thưởng này do Hội đồng xét giải cực kỳ uy tín tuyển chọn, Ban tổ chức giải tự thống kê thành tựu các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố của các nhà Toán học có quốc tịch tại châu Âu hoặc đang làm việc tại châu Âu chứ không phải các ứng viên lập hồ sơ đăng ký hoặc tổ chức, cá nhân nào đó đề cử”.

Khi điểm lại hành trình nghiên cứu khoa học, GS.TS Phan Thành Nam chia sẻ: “Trong thời gian làm nghiên cứu sinh tiến sĩ, tôi đã được các bậc giáo sư định hướng nhiều vấn đề thú vị cần tìm hiểu bằng sự nỗ lực và niềm đam mê thật sự. Trường hợp của tôi giáo sư không hướng dẫn một bài toán cụ thể mà chỉ ra không một chủ đề lớn có nhiều hướng phát triển với những bài toán khó”.

Lĩnh vực nghiên cứu của GS.TS Phan Thành Nam là Giải tích và Vật lý Toán, đặc biệt là cơ học lượng tử nhiều hạt, lý thuyết phổ, phép tính biến phân và phương trình đạo hàm riêng, giải tích số. Theo số liệu trên trang MathScinet của Hội Toán học Mỹ, GS.TS Phan Thành Nam đã công bố 39 công trình khoa học trên các tạp chí khoa học nổi tiếng thế giới.

GS.TS Phan Thành Nam đang giảng dạy tại tại Đại học Ludwig Maximilian Muchen thành phố Munchen – Cộng hòa liên bang Đức. Nam đang đảm trách hướng dẫn 2 nghiên cứu viên sau tiến sĩ [postdoc], 2 nghiên cứu sinh [Ph.D student] tiến sĩ cùng một số sinh viên thạc sĩ, đại học.

Được biết, em trai của Nam là Phan Thành Việt sau khi tốt nghiệp khoa Toán Trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh cũng được tuyển chọn sang Cộng hòa Pháp theo học chương trình thạc sĩ tại Đại học Orléans  - Cộng hòa Pháp rồi tiếp tục bảo vệ thành công luận án tiến sĩ năm 2015 và hiện là giảng viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng – TP Hồ Chí Minh.

Giải thưởng EMS của Hội Toán học Châu Âu được tổ chức từ năm 1992 với định kỳ 4 năm một lần. Mỗi kỳ có 10 nhà Toán học được trao giải, đều là những nhà Toán học trẻ không quá 35 tuổi, quốc tịch châu Âu hoặc đang làm việc tại châu Âu và có những đóng góp xuất sắc trong Toán học. Sau 8 kỳ giải thưởng EMS, năm nay lần đầu tiên một nhà Toán học trẻ gốc Việt được vinh danh. Giải thưởng EMS của Hội Toán học Châu Âu chỉ xếp sau giải thưởng Fields của Hội Toán học Thế giới. Hầu hết các nhà Toán học được trao giải thưởng EMS đều trở thành những nhà Toán học lớn của thế giới. Trong số những nhà Toán học đã được trao giải thưởng EMS của Hội Toán học châu Âu có 11 nhà Toán học đã đoạt giải thưởng Fields của Hội Toán học thế giới.

Phan Thế Hữu Toàn

Toán học Việt Nam có khởi nguồn chậm phát triển từ thời phong kiến vốn chỉ phục vụ các mục đích đo đạc tính toán và bắt đầu hình thành nền móng hiện đại do giáo sư Lê Văn Thiêm và các cộng sự xây dựng nên qua những năm chiến tranh. Đến nay Toán học Việt Nam đã dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về số lượng các ấn phẩm nghiên cứu có chất lượng cao.[1]

Mục lục

  • 1 Thời kỳ cổ và trung đại
  • 2 Thời kỳ hiện đại
  • 3 Chú thích
  • 4 Tham khảo
  • 5 Liên kết ngoài
  • 6 Xem thêm

Thời kỳ cổ và trung đạiSửa đổi

Hoa văn trống đồng Đông Sơn, Việt Nam

Ngày nay, dựa vào tài liệu khảo cổ học, vào lịch sử ngôn ngữ, vào khảo sát cấu trúc các công trình kiến trúc cổ còn lại... ta thấy rõ người Việt Nam xưa ắt hẳn phải rất giỏi tính toán và Toán học đã được ứng dụng khá nhiều vào đời sống từ rất sớm. Số học là môn phát sinh trước và sớm nhất. Nếu đứng ở góc độ số học để khảo cứu những cánh sao, tia sáng mặt trời, đàn chim, chiếc thuyền... khắc vẽ trên mặt, trên thân các trống đồng, chúng ta sẽ tập hợp được nhiều sự kiện toán học nằm trong đó, cung cấp cho ta một bức tranh đẹp về trình độ nắm vững và sử dụng số học của tổ tiên ta thời cổ đại. Nghiên cứu các hoa văn trên đồ gốm tìm được ở Phùng Nguyên, Gò Bông, Xóm Rền... chúng ta thấy các dạng hoa văn rất phong phú: hình chữ S, có loại dài, loại vuông, loại nối ngang lưng nhau; hình chữ X, chữ A; hai đường song song uốn khúc đều đặn, liên tục; hình tam giác xếp ngược chiều nhau, hình tam giác cuộn. Qua đấy, không thể nghi ngờ gì được khi nói rằng người Việt Nam 3 - 4 nghìn năm trước đây đã có những nhận thức hình học và tư duy chính xác khá cao. Từ hình dáng, kích thước các trống đồng loại cổ nhất ở Việt Nam, chúng ta hiểu, để tạo được những mặt tròn đường kính to nhỏ khác nhau, những mặt phẳng, những góc độ chính xác ấy, các nhà chế tác trống đồng thuở đó phải sử dụng các con số, các loại thước chính xác.[2]

Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Đại Việt sử ký toàn thư, các nhà nước phong kiến ở Việt Nam đã tổ chức các kỳ thi toán ở Quốc tử giám. Từ năm 1077, đời Lý Nhân Tông đã tổ chức kỳ thi Toán đầu tiên, cùng với thi Thư [viết chữ] và Hình luật để chọn người làm việc lại [lại viên]. Các kỳ thi này không tổ chức định kỳ, thường thì cứ 10 năm hoặc 15 năm sẽ có một kỳ thi chọn "lại viên".[3][2]

Trong lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam thì người làm việc lại không được coi trọng. Họ làm các công việc như coi sổ sách, giấy má, tính sưu thuế, tính diện tích các đám ruộng, việc binh lương và các việc quốc dụng khác như tính thể tích con đê, thành, hào, tính số gạch, gỗ… Nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong “Lịch triều hiến chương” rằng “Xét ra chức nha, lại cho là hèn thấp. Việc kiểm soát sổ sách không giao cho kẻ sĩ. Kẻ sĩ làm văn, cho việc lại là ti tiện nên không nhúng tay vào”.[2]

Năm 1261, đời Trần Thánh Tông, thi lại viên với 2 môn Thư và Toán, ai trúng được sung vào chức Nội lĩnh sử. Các kỳ thi chọn lại viên tiếp theo được tổ chức vào các năm 1363, đời vua Trần Dụ Tông; năm 1373, đời vua Trần Duệ Tông; năm 1404, khi Hồ Hán Thương lên ngôi, thi chọn lại viên có môn Toán. Thời này, nhà Hồ không những bắt buộc chương trình thi toán mà còn áp dụng rộng rãi toán học vào kinh tế, sản xuất: dùng Toán học đo lại tổng số ruộng đất toàn quốc, lập thành sổ sách điền địa từng lộ, phủ, châu, huyện. Năm 1437, đời vua Lê Thái Tông có thi Toán với 690 người trúng cử được bổ các chức ở các nha môn. Tiếp theo, vào các năm 1475, 1477, 1483, 1507, 1572, 1722 và 1762 là kỳ thi chọn lại viên cuối cùng có thi Toán. Đặc biệt kỳ thi năm 1507, đời vua Lê Uy Mục tổ chức thi Toán ở sân Điện Giảng Võ có hơn 3 vạn thí sinh, 1.519 người trúng tuyển.[2]

Tuy nhiên, trong những năm sau đó, hoàn toàn không có thông tin gì về việc có môn toán hay không trong các kỳ thi. Phải đến năm 1762 mới có quy định về việc đưa môn toán vào trong các kỳ thi, nhưng chủ yếu là để tuyển “lại”, chứ không phải tuyển “quan”.[3]

Những nhà toán học nổi bật trong thời kỳ này là[4]

  • Vũ Hữu [1437–1530] tác giả Lập thành toán pháp [立 成 算 法].
  • Lương Thế Vinh [1442–1496] tức Trạng Lường, ông biên soạn Toán pháp đại thành [算法大成] và Khải minh Toán học.
  • Nguyễn Hữu Thận [1757-1831] tác giả Ý Trai toán pháp nhất đắc lục [意齋算法一得錄].

Thời kỳ hiện đạiSửa đổi

Những người Việt có bằng cử nhân Toán sớm nhất có lẽ là Nguyễn Xiển [Đại học Toulouse, 1930[5]], Tạ Quang Bửu [Đại học Sorbonne, Bordeaux và Oxford, 1934], Hoàng Xuân Hãn [Đại học Sorbonne, 1935] và Nguyễn Thúc Hào [Đại học Khoa học Marseille, 1935]. Năm 1936, Hoàng Xuân Hãn cho xuất bản cuốn Eléments de trigonométrie là cuốn giáo trình toán học Tây phương đầu tiên do người Việt biên soạn.


Những người Việt đầu tiên bảo vệ luận án tiến sĩ Toán học hiện đại là Lê Văn Thiêm [năm 1945, Đại học Göttingen], Phạm Tỉnh Quát [năm 1948, Đại học Paris], Phạm Mậu Quân [Đại học Paris, 1954]. Có thể nói nền Toán học hiện đại Việt Nam bắt đầu vào năm 1947 khi Lê Văn Thiêm công bố mộtcôngtrìnhtoánhọc đầu tiên của một người Việt trênmột tạpchí quốc tế

Le-Van, Thiem. Beitrag zum Typenproblem der Riemannschen Flächen. Commentarii Mathematici Helvetici 20, 270–287 [1947].

Năm 1949, Lê Văn Thiêm đã từ châu Âu về Việt Nam qua đường Thái Lan sau đó ông đi bộ từ Nam Bộ ra Việt Bắc, tham gia xây dựng trường hai trường Đại học Sư phạm Khoa học và Đại học khoa học cơ bản ở chiến khu vào năm 1951.[6]

Trong khi đó Phạm Tỉnh Quát trở về miền Nam và giảng dạy ở Đại học Sàì Gòn mới thành lập trong giai đoạn 1954-1956. Ông là người phụ trách đầu tiên của Ban Toán Đại học Khoa học Sài Gòn.

Từ sau 1954, nhiều người được gửi đi học và bảo vệ luận văn tiến sĩ Toán ở nước ngoài. Các trường đại học đã mở thêm các chuyên khoa toán.

Ở miền Bắc, ngay trong những năm chiến tranh, mỗi năm Nhà nước cử khoảng 100-150 sinh viên và khoảng 20 nghiên cứu sinh theo học ngành toán Liên Xô và Đông Âu. Trở về nước, họ trở thành những hạt nhân của các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học. Vào thời kỳ này, miền Bắc Việt Nam đã xây dựng được những nhóm nghiên cứu mạnh về Tối ưu [do Hoàng Tụy lãnh đạo], lý thuyết kỳ dị [với sự hướng dẫn và giúp đỡ của các nhà toán học Việt kiều Frédéric Phạm, Lê Dũng Tráng], giải tích phức [Lê Văn Thiêm và các học trò].

Ở miền Nam Việt Nam, Đặng Đình Áng rời Viện Công nghệ California về nước năm 1960 và đảm nhận Trưởng ban Toán của Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Với địa vị trưởng ban ông đã hiện đại hóa chương trình giảng dạy và đưa vào một số môn chưa từng được dạy như toán học tô pô, đại số trừu tượng, và giải tích hàm. Ba năm sau, ông thành lập chương trình chứng chỉ sau đại học "toán học thâm cứu" [Mathematiques Approfondies].Ông lập được một nhóm nghiên cứu mạnh về Giải tích và Phương trình đạo hàm riêng. Các nhà toán học khác như Nguyễn Đình Ngọc thì đã ngừng nghiên cứu từ khi về nước và chỉ tham gia giảng dạy.

Hội Toán học Việt Nam thành lập năm 1966 và tiếp đó là Viện Toán học Việt Nam thành lập năm 1969 đã giúp cho việc truyền bá và hình thành nền nghiên cứu toán học ở Việt Nam. Lê Văn Thiêm cùng với các nhà toán học khác [Hoàng Tụy, Tạ Quang Bửu] đã thành lập hai tạp chí toán học chuyên ngành Acta Mathematica Vietnamica và Vietnam Journal of Mathematics. Giáo sư Lê Văn Thiêm có đóng góp lớn trong việc thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế giữa các nhà toán học Việt Nam và các nhà toán học thế giới. Ông đã đưa Hội Toán học Việt Nam tham gia vào Hội Toán học quốc tế với tư cách là thành viên chính thức, đưa Viện Toán học tham gia vào Trung tâm Toán học quốc tế Banach [Ba Lan]. Nhờ mối quan hệ tốt và uy tín khoa học của ông mà nhiều nhà toán học có tên tuổi trên thế giới như Laurent Schwartz, Alexander Grothendieck, Stephen Smale và Noam Chomsky... đã sang Việt Nam và nhiệt tình giúp đỡ, cộng tác với các nhà toán học trẻ ở miền Bắc Việt Nam.[3]

Từ sau 1975, cơ hội hợp tác với cộng đồng toán học quốc tế trở nêndễ dàng hơn. Nhiềunhàtoánhọctrẻ đã có cơ hộihọctậpkhôngchỉ ở LiênXô và Đông Âu, mà còn ở những nước có nền toánhọcpháttriển khác như Pháp, Đức, Ý, Nhật. Từ khoảngnhững năm 1985, kinhtế xã hội Việt Nam bướcvào giai đoạnkhủnghoảng và đầu thập niên 1990 khi kinh tế chuyển đổi sang giai đoạn thị trường, nhiều nhà toán học phải rời bỏ chuyên môn của mình để làm nghề khác kiếm sống. Tuy nhiên toánhọcViệt Namvẫntồntạivàphát triểnquagiaiđoạnkhókhăn này vàđặc biệt nhận đượcsự giúp đỡ củacác nhà toán học Việt Nam ở nước ngoài cùng với cộng đồngtoánhọcthế giới qua các chương trình hợp tác: Chương trình hợp tác Pháp-Việt[ForMathVietnam],Quỹ họcbổng Alexander-von-Humboldt[CHLB Đức], JSPS [Nhật], ICTP [Ý].[3]

Từ giữa những năm 1990, Việt Nam dần dần bước ra khỏi khủng hoảng kinhtế, và toán học Việt Nam lại cónhững điều kiện thuậnlợivàcơhộimới. Nếunhưtrước đây, sinh viên, nghiên cứusinhvànhững nhà toán học chỉ có thể đi học tập, trao đổi ở nước ngoàivới sự tài trợ của bên ngoài, thìngàynay,Nhànướcđãcónhững chương trình gửi sinh viên đào tạo dài hạn ở nướcngoàibằng ngân sách [chẳnghạnChươngtrình 322,Chươngtrình 911],vàQuỹ hỗ trợ nghiên cứu khoa học [Nafosted].[3]

Năm 2010, giáo sư Ngô Bảo Châu là người Việt Nam đầu tiên nhận giải thưởng Fields cho công trình năm 2008 chứng minh Bổ đề cơ bản cho các đại số Lie[7].

Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán do giáo sư Ngô Bảo Châu làm giám đốc khoa học, được thành lập ngày 23 tháng 12 năm 2010 nhằm mục tiêu trở thành một trung tâm toán học xuất sắc, tạo môi trường làm việc tương đương với một số nước phát triển về Toán, và là nơi trao đổi học thuật nhằm nâng cao năng lực khoa học của các nhà nghiên cứu, giảng dạy và ứng dụng toán học Việt Nam.

Từ năm 2014, Việt Nam có số lượng công bố Toán học được liệt kê trong cơ sở dữ liệu Web of Science [Thomson Reuters] vượt Singapore và dẫn đầu khu vực Đông Nam Á.[1]

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ a b “Việt Nam dẫn đầu ASEAN về số công bố khoa học ngành Toán trên tạp chí uy tín”. Vietnamnet. 1 tháng 1 năm 2019.
  2. ^ a b c d “Người Việt xưa học toán, thi toán”. Hà Nội Mới.
  3. ^ a b c d e “Vài nét về lịch sử Toán học Việt Nam”. Tạp Chí Pi.
  4. ^ “3 kỳ tài toán học của nước ta thời phong kiến”. Zing News. 22 tháng 6 năm 2019.
  5. ^ GS Nguyễn Xiển Một nhà khoa học chân chính, Hồ Sĩ Hùy. Tạp chí KH-CN Nghệ An 1/2017.
  6. ^ Duyên số giải Fields - Kì 6: Ai là tiến sĩ toán học đầu tiên của Việt Nam? Tuổi Trẻ Online, 22/08/2010.
  7. ^ Ngô, Bảo Châu [2008], Le lemme fondamental pour les algebres de Lie, arXiv:0801.0446

Tham khảoSửa đổi

  • Volkov, Alexei [2002], “On the Origins of the Toan phap dai thanh”, trong Samplonius, Yvonne Dold; Dauben, Josephn W. [biên tập], From China to Paris: 2000 Years Transmission of Mathematical Ideas, Franz Steiner Verlag, tr.369–410, ISBN978-3-515-08223-5
  • Volkov, Alexei [2009], “Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam”, trong Robson, Eleanor; Stedall, Jacqueline [biên tập], The Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford: Oxford University Press, tr.153–76, ISBN978-0-19-921312-2
  • Volkov, Alexei [2016], “Mathematics in Vietnam”, trong Selin, Helaine [biên tập], Encyclopaedia of the History of Science, Technology, and Medicine in Non-Western Cultures [ấn bản 3], Berlin: Springer-Verlag, tr.2818–2833, ISBN978-94-007-7748-4

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Toán học Việt Nam thời kỳ Trung đại báo Tia sáng ngày 27/04/2020, bản dịch Mathematics in Vietnam của A. Volkov trong Encyclopaedia of the History of Science, Technology, and Medicine in Non-Western Cultures [Helaine Selin Editor], Third Edition, Springer, 2016, pp. 2818-2833.
  • Sách toán Việt Nam hiện tồn báo Tia sáng ngày 11/05/2020, phần tiếp theo bản dịch Mathematics in Vietnam của A. Volkov trong Encyclopaedia of the History of Science, Technology, and Medicine in Non-Western Cultures [Helaine Selin Editor], Third Edition, Springer, 2016, pp. 2818-2833.
  • Toán học trong thi cử ngày xưa báo Đà Nẵng ngày 09/07/2017.
  • Tình hình Toán học ở Miền Nam trước 1975 bài viết của Nguyễn Đình Ngọc và Trương Mỹ Dung, đăng trên Bản Tin Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TPHCM, 31-2005, trang 18-21.

Xem thêmSửa đổi

  • Việt Nam tại Olympic Toán học Quốc tế
  • Việt Nam tại Đại hội Toán học Quốc tế

Video liên quan

Chủ Đề