5 nguyên nhân hàng đầu gây ra huyết áp cao năm 2022

Tăng huyết áp là tình trạng tăng liên tục của huyết áp tâm thu lúc nghỉ [ 130 mmHg] hoặc huyết áp tâm trương lúc nghỉ [ 80 mm Hg], hoặc cả hai. Tăng huyết áp mà không có nguyên nhân rõ ràng [tăng huyết áp tiên phát] là phổ biến nhất. Tăng huyết áp do một nguyên nhân xác định [tăng huyết áp thứ phát] thường do ngưng thở khi ngủ, bệnh thận mạn, tăng aldosteron nguyên phát, tiểu đường hoặc béo phì. Thông thường, bệnh không biểu hiện triệu chứng lâm sàng trừ khi huyết áp tăng rất cao hoặc bệnh đã kéo dài. Chẩn đoán bằng đo huyết áp. Các xét nghiệm có thể được thực hiện để xác định nguyên nhân, đánh giá tổn thương cơ quan đích và xác định các yếu tố nguy cơ tim mạch khác. Điều trị bao gồm thay đổi lối sống và thuốc hạ áp, bao gồm thuốc lợi tiểu, thuốc chẹn beta giao cảm, thuốc ức chế ACE, thuốc chẹn thụ thể angiotensin II và thuốc chẹn kênh canxi.

Ở Mỹ, có khoảng 75 triệu người bị tăng huyết áp. Khoảng 81% trong số những người này biết rằng họ bị tăng huyết áp, chỉ 75% trong số họ đang được điều trị, và chỉ có 51% huyết áp được kiểm soát thích hợp. Ở người trưởng thành, người da đen bị tăng huyết áp phổ biến hơn [41%] so với người da trắng [28%] hoặc so với người Mỹ gốc Mexico [28%], tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong cũng cao hơn ở người da đen.

Tăng huyết áp có thể do

  • Tiên phát [không rõ nguyên nhân, chiếm 85% số các trường hợp]

  • Thứ phát

trong tăng huyết áp tiên phát huyết động và các thành phần sinh lý [ví dụ: thể tích huyết tương, hoạt động của hệ renin-angiotensin] rất biến đổi, chỉ ra rằng tăng huyết áp tiên phát không phải chỉ có một nguyên nhân đơn lẻ. Ngay cả khi có một yếu tố chịu trách nhiệm cho sự khởi phát của tăng huyết áp, chắc chắn có nhiều yếu tố khác liên quan góp phần duy trì huyết áp tăng hằng định [thuyết khảm]. Ở các tiểu động mạch hệ thống, hoạt động bất thường của các bơm ion trên màng tế bào cơ trơn thành mạch có thể dẫn đến tăng trương lực thành mạch mạn tính. Di truyền cũng có thể là một nguyên nhân, nhưng cơ chế chính xác chưa rõ. Với những người trẻ tuổi, các yếu tố môi trường [ví dụ như chế độ ăn nhiều muối, căng thẳng] dường như chỉ ảnh hưởng đến những người có cơ địa nhạy cảm; tuy nhiên, ở những bệnh nhân > 65 tuổi, chế độ ăn nhiều muối thường có xu hướng dẫn đến tăng huyết áp.

Nguyên nhân thường gặp bao gồm

Những nguyên nhân hiếm gặp khác bao gồm u tủy thượng thận U tế bào ưa crom U tủy thượng thận là một khối u giải phóng catecholamine của các tế bào ưa crôm nằm ở thượng thận. Nó gây tăng huyết áp dai dẳng hoặc tăng huyết áp kịch phát. Chẩn đoán là bằng cách đo các sản... đọc thêm , hội chứng Cushing Cushing Syndrome Hội chứng Cushing gồm một nhóm các triệu chứng lâm sàng gây ra bởi mức độ cao mạn tính của cortisol hoặc corticosteroid liên quan. Bệnh Cushing là hội chứng Cushing là kết quả của việc sản xuất... đọc thêm

, tăng sản thượng thận bẩm sinh Tổng quan về sự tăng sản thượng thận bẩm sinh Tăng sản thượng thận bẩm sinh là một nhóm các rối loạn di truyền, mỗi đặc trưng bởi sự tổng hợp không đầy đủ của cortisol, aldosterone, hoặc cả hai. Trong các dạng phổ biến nhất, tiền chất hormone... đọc thêm , cường giáp Cường giáp Cường giáp được đặc trưng bởi tăng chuyển hóa và tăng nồng độ các hormone giáp tự do. Nhiều triệu chứng biểu hiện, bao gồm nhịp tim nhanh, mệt mỏi, gầy sút cân, căng thẳng và run. Chẩn đoán... đọc thêm
, suy giáp Suy giáp Chứng suy giáp là thiếu hụt hormone tuyến giáp. Chẩn đoán bằng các đặc điểm lâm sàng như xuất hiện khuôn mặt điển hình, giọng nói chậm khàn, da khô và nồng độ các hormone tuyến giáp thấp. Quản... đọc thêm
[phù niêm], cường cận giáp nguyên phát Cường cận giáp Cường cận giáp xảy ra khi một hoặc nhiều tuyến cận giáp hoạt động quá mức, làm tăng nồng độ hormone tuyến cận giáp trong huyết thanh và dẫn đến tăng canxi máu. Bệnh nhân có thể không có triệu... đọc thêm , to cực chi Bệnh khổng lồ và bệnh to đầu chi Bệnh khổng lồ và bệnh to đầu chi là các hội chứng do tiết ra quá nhiều hormone tăng trưởng [cường hormone tăng trưởng] gần như luôn là do u tuyến của tuyến yên. Trước khi đóng kín các đầu xương... đọc thêm
, hẹp eo động mạch chủ Hẹp eo động mạch chủ Hẹp eo động mạch chủ là một sự thu hẹp cục bộ lòng động mạch chủ, dẫn đến tăng áp lực ở phía trên, phì đại thất trái, và giảm tưới máu của các cơ quan trọng bụng và các chi dưới. Các triệu chứng... đọc thêm và các hội chứng sản xuất quá mức các hormone corticoid muối nước ngoài hội chứng tăng aldosteron nguyên phát. Uống nhiều rượu và sử dụng thuốc tránh thai đường uống cũng là những nguyên nhân phổ biến của tăng huyết áp thứ phát. Sử dụng các thuốc ức chế giao cảm, NSAID, corticosteroid, cocaine, hay cam thảo thường góp phần gây khó khăn hơn trong việc kiểm soát huyết áp.

  • 1. Carey RM, Calhoun DA, Bakris GL, et al: Resistant hypertension: Detection, evaluation, and management: A Scientific Statement From the American Heart Association. Hypertension 72:e53-e90, 2018. doi 10.1161/HYP.0000000000000084

Vì huyết áp bằng cung lượng tim [CO] × tổng sức cản mạch ngoại vi [TPR], cơ chế gây bệnh bao gồm

  • Tăng cung lượng tim

  • Tăng sức cản mạch ngoại vi

  • Cả hai

Ở hầu hết bệnh nhân, cung lượng tim là bình thường hoặc tăng nhẹ, còn sức cản mạch ngoại vi thường tăng nhiều hơn. Mô hình này là điển hình của tăng huyết áp tiên phát và tăng huyết áp do hội chứng cường aldosteron nguyên phát, u tủy thượng thận, bệnh mạch máu thận, và bệnh do nhu mô thận.

Ở những bệnh nhân khác, cung lượng tim tăng lên [có thể do co những tĩnh mạch lớn], và sức cản mạch ngoại vi không tương xứng với mức độ của cung lượng tim. Sau đó, sức cản mạch ngoại vi tăng và cung lượng tim trở lại bình thường, có thể là do các cơ chế tự điều hòa. Một số bệnh làm tăng cung lượng tim [nhiễm độc giáp, rò động tĩnh mạch, hở động mạch chủ], đặc biệt khi thể tích nhát bóp tăng lên, gây tăng huyết áp tâm thu đơn độc. Một số bệnh nhân cao tuổi có tăng huyết áp tâm thu đơn độc với cung lượng tim bình thường hoặc thấp, có thể là do sự xơ cứng động mạch chủ và các nhánh lớn của nó. Những bệnh nhân có huyết áp tâm trương cao cố định thường có giảm cung lượng tim.

Thể tích huyết tương có xu hướng giảm khi huyết áp tăng; hiếm khi thể tích huyết tương vẫn bình thường hoặc tăng. Thể tích huyết tương có xu hướng tăng trong tăng huyết áp do cường aldosteron tiên phát hoặc bệnh nhu mô thận và có thể giảm khá thấp trong tăng huyết áp do u tủy thượng thận. Lưu lượng máu thận giảm dần khi huyết áp tâm trương tăng và xơ hóa các tiểu động mạch. GFR [mức lọc cầu thận] vẫn bình thường cho đến giai đoạn muộn của bệnh; kết quả là phân số lọc tăng lên. Lưu lượng mạch vành, mạch não, tưới máu cơ được duy trì trừ khi có kết hợp xơ vữa nặng các mạch này.

Trong nhiều trường hợp tăng huyết áp, có sự bất thường trong việc vận chuyển natri qua màng tế bào, vì bơm natri kali [Na+, K+-ATPase] bị khiếm khuyết hoặc bị ức chế hoặc do tăng tính thấm của màng tế bào với ion natri. Kết quả là tăng natri nội bào, làm cho tế bào nhạy cảm hơn với kích thích giao cảm. Canxi được vận chuyển theo natri, do đó việc tích tụ canxi nội bào có thể là nguyên nhân của sự tăng tính nhạy cảm của tế bào. Bởi vì bơm Na+, K+-ATPase có thể bơm norepinephrine trở lại các tế bào thần kinh giao cảm [do đó bất hoạt chất dẫn truyền thần kinh này], sự ức chế cơ chế này cũng có thể làm tăng tác dụng của norepinephrine, gây tăng huyết áp. Những bất thường trong vận chuyển natri có thể xảy ra ở trẻ có huyết áp bình thường có bố mẹ bị tăng huyết áp.

Kích thích giao cảm làm tăng huyết áp, huyết áp tăng nhiều hơn ở những bệnh nhân có huyết áp bình thường cao hoặc tăng huyết áp so với những người có huyết áp bình thường. Mặc dù chưa biết sự phản ứng quá mức này là do hệ giao cảm hay do tế bào cơ tim hoặc tế bào cơ trơn thành mạch. Tần số mạch khi nghỉ cao, có thể do hậu quả của sự tăng hoạt động của hệ giao cảm, là một yếu tố dự báo của tăng huyết áp. Ở một số bệnh nhân tăng huyết áp, nồng độ catecholamine trong máu lúc nghỉ cao hơn bình thường.

Hệ renin-angiotensin-aldosterone giúp điều hòa thể tích tuần hoàn và do đó, điều chỉnh huyết áp. Renin là một enzym được hình thành ở phức bộ cạnh cầu thận, xúc tác chuyển đổi angiotensinogen thành angiotensin I. Angiotensin I không hoạt động được phân cắt bởi men chuyển angiotensin [ACE], chủ yếu có ở phổi, nhưng cũng có ở thận và não, để chuyển thành angiotensin II, một chất co mạch mạnh, đồng thời kích thích các trung tâm thần kinh tự động trong não phát các kích thích giao cảm, kích thích giải phóng aldosteron và vasopressin. Aldosterone và vasopressin gây giữ muối và nước, làm tăng huyết áp. Aldosterone cũng làm tăng bài tiết kali; kali huyết tương thấp [ 10 đến 20 mmHg sau một bữa ăn nhiều muối [ví dụ: đồ ăn Trung Quốc].

Nếu thận không sản xuất đủ chất giãn mạch [do bệnh nhu mô thận hoặc cắt thận hai bên], huyết áp có thể tăng.

Các chất gây giãn mạch và co mạch [chủ yếu là endothelin] do các tế bào nội mô thành mạch sản xuất. Do đó, rối loạn chức năng tế bào nội mô ảnh hưởng lớn đến huyết áp.

Trong tăng huyết áp, những thay đổi bệnh lý không xuất hiện sớm. Tăng huyết áp nghiêm trọng hoặc kéo dài gây tổn thương các cơ quan đích [chủ yếu là hệ tim mạch, não và thận], tăng nguy cơ của

  • Tử vong

Cơ chế bao gồm sự hình thành và phát triển của các mảng xơ vữa Xơ vữa động mạch Xơ vữa động mạch được đặc trưng bởi các mảng bám nội mạc [mảng xơ vữa] xâm lấn vào lòng các động mạch cỡ trung bình và lớn. Các mảng chứa lipid, tế bào viêm, tế bào cơ trơn và mô liên kết. Các... đọc thêm

trong lòng mạch. Xơ vữa động mạch được đặc trưng bởi sự phì đại, tăng sản và hyalin hóa của lớp áo giữa thành mạch. Những thay đổi này đặc biệt rõ ràng ở các tiểu động mạch nhỏ, đặc biệt ở mắt và thận. Ở thận, xơ vữa làm hẹp lòng tiểu động mạch, làm tăng tổng sức cản mạch ngoại vi, dẫn đến tăng huyết áp. Thêm vào đó, một khi các động mạch đã bị thu hẹp, chỉ một sự co thắt nhẹ của các cơ trơn thành mạch đã bị phì đại trước đó đều làm giảm đường kính lòng mạch đi hơn nhiều so với những động mạch bình thường. Những tác động này giải thích vì sao bệnh tăng huyết áp càng kéo dài thì các phương pháp điều trị các nguyên nhân thứ phát [ví dụ phẫu thuật mạch thận] để khôi phục lại huyết áp bình thường các kém hiệu quả.

Bởi vì sự tăng hậu gánh sẽ khiến tâm thất trái phì đại, gây rối loạn chức năng tâm trương. Tâm thất cuối cùng bị giãn, gây ra bệnh cơ tim giãn và suy tim do mất chức năng tâm thu, suy tim thường nặng hơn khi kết hợp với bệnh động mạch vành. Tách thành động mạch chủ ngực là một hậu quả thường gặp của tăng huyết áp, bên cạnh đó gần như tất cả những bệnh nhân bị phình động mạch chủ bụng có tiền sử tăng huyết áp.

Các triệu chứng và dấu hiệu của tăng huyết áp

Cao huyết áp thường không có triệu chứng cho đến khi có biến chứng ở các cơ quan đích. Tăng huyết áp chưa có biến chứng sẽ không gây ra các triệu chứng chóng mặt, đỏ mặt, nhức đầu, mệt mỏi, chảy máu cam, và hồi hộp đánh trống ngực. Tăng huyết áp nghiêm trọng [tăng huyết áp cấp cứu Tăng huyết áp cấp cứu Tăng huyết áp cấp cứu là tăng huyết áp nghiêm trọng với các dấu hiệu tổn thương cơ quan đích [chủ yếu là não, hệ tim mạch và thận]. Chẩn đoán bằng đo huyết áp, điện tâm đồ, xét nghiệm tổng phân... đọc thêm ] có thể gây ra các triệu chứng tim mạch, thần kinh, thận và võng mạc trầm trọng [ví dụ: hội chứng vành cấp, suy tim, xuất huyết não, suy thận].

Tiếng tim thứ 4 là một trong những dấu hiệu sớm nhất của bệnh tim do tăng huyết áp.

  • Lớp 1: Chỉ có sự co thắt tiểu động mạch

  • Độ 2: Co thắt và xơ hóa tiểu động mạch

  • Lớp 3: Thay đổi về mạch máu như trên cùng với xuất huyết và xuất tiết

  • Lớp 4: Phù gai thị

  • Nhiều phương pháp đo huyết áp được sử dụng để chẩn đoán

  • Phân tích nước tiểu và tỷ lệ albumin niệu:creatinin; nếu bất thường, cân nhắc siêu âm thận

  • Xét nghiệm máu: Lipid máu [HDL, triglycerid], creatinine, kali

  • Siêu âm thận nếu creatinine máu tăng

  • Tìm hội chứng cường aldosteron nếu có Kali máu giảm

  • Điện tâm đồ: Nếu có tăng gánh thất trái trên điện tâm đồ, cân nhắc siêu âm tim

  • Đôi khi, có thể cần định lượng hormone kích thích tuyến giáp TSH

  • Nghĩ đến u tủy thượng thận hoặc rối loạn giấc ngủ nếu huyết áp tăng rất cao hoặc tăng và giảm đột ngột

Cao huyết áp được chẩn đoán và phân loại dựa vào đo huyết áp. Tiền sử, khám thực thể, và các xét nghiệm cận lâm sàng khác giúp xác định nguyên nhân và xác định xem đã có tổn thương các cơ quan đích hay chưa.

Huyết áp dùng để chẩn đoán tăng huyết áp nên là huyết áp trung bình của 2 hay 3 lần đo vào 2 hoặc 3 thời điểm khác nhau:

  • Ngồi nghỉ trên ghế [không phải bàn khám] > 5 phút, chân đặt trên sàn nhà, có tựa lưng

  • Tay đặt ngang mức của tim, bộc lộ vùng đo huyết áp [không để áo che phủ]

  • Không tập thể dục, sử dụng caffeine, hoặc hút thuốc trước đo huyết áp ít nhất 30 phút

Trong lần khám đầu tiên, đo huyết áp ở cả hai cánh tay và những lần đo tiếp theo, đo ở bên tay có huyết áp cao hơn.

Một kích thước vòng quấn huyết áp được áp dụng cho chi trên. Một băng đo huyết áp có kích thước phù hợp khi đủ che phủ 2/3 chiều dài cánh tay, chiều dài phần chứa hơi của băng đo đủ để vòng quanh > 80% chu vi cánh tay và chiều rộng phần chứa hơi tương đương ít nhất 40% chu vi của cánh tay. Vì vậy, với những bệnh nhân béo phì đòi hỏi phải có những băng đo huyết áp lớn hơn. Người nhân viên y tế sẽ bơm hơi vào băng đo cho đến khi áp lực trong băng lớn hơn huyết áp tâm thu dự kiến, sau đó từ từ xả khí trong khi nghe tiếng đập của động mạch cánh tay. Áp lực tại đó nghe thấy tiếng đập đầu tiên chính là huyết áp tâm thu. Áp lực mà tại đó không còn nghe thấy bất cứ tiếng đập nào nữa là huyết áp tâm trương. Nguyên tắc tương tự được áp dụng để đo huyết áp ở cẳng tay [động mạch quay] và đùi [động mạch khoeo]. Các thiết bị đo huyết áp cơ học nên được lấy chuẩn định kỳ, các máy đo huyết áp tự động thường không chính xác [1 Tài liệu tham khảo chẩn đoán Tăng huyết áp là tình trạng tăng liên tục của huyết áp tâm thu lúc nghỉ [≥ 130 mmHg] hoặc huyết áp tâm trương lúc nghỉ [≥ 80 mm Hg], hoặc cả hai. Tăng huyết áp mà không có nguyên nhân rõ ràng... đọc thêm

].

Huyết áp nên được đo ở cả hai cánh tay vì huyết áp hai tay có sự chênh lệch > 15mmHg đòi hỏi phải đánh giá các mạch lớn phía trên động mạch cánh tay.

Tiền sử bao gồm khoảng thời gian từ lúc bệnh nhân được chẩn đoán tăng huyết áp và huyết áp của bệnh nhân trong các lần đo trước đó, tiền sử hoặc triệu chứng gợi ý bệnh động mạch vành Tổng quan bệnh động mạch vành Bệnh động mạch vành [CAD] bao gồm sự suy giảm lưu lượng máu qua các động mạch vành, thông thường là do các mảng xơ vữa. Biểu hiện lâm sàng bao gồm thiếu máu cơ tim thầm lặng, đau thắt ngực,... đọc thêm

, suy tim Suy tim [HF] Suy tim [HF] là một hội chứng rối loạn chức năng tâm thất. Suy tim trái gây khó thở và mệt mỏi, suy tim phải gây ứ trệ tuần hoàn ngoại biên; các tình trạng suy tim trên có thể tiến triển đồng... đọc thêm
, ngưng thở khi ngủ hoặc ngáy to; tiền sử hoặc triệu chứng của các rối loạn liên quan khác [như đột quỵ Tổng quan về Đột quỵ Đột quỵ là một nhóm bệnh không đồng nhất liên quan đến sự gián đoạn đột ngột và cục bộ của dòng máu não gây ra tổn thương thần kinh. Đột quỵ có thể là Thiếu máu cục bộ [80%], điển hình là do... đọc thêm
, rối loạn chức năng thận, bệnh động mạch ngoại biên Bệnh động mạch ngoại biên Bệnh động mạch ngoại biên [PAD] là tình trạng xơ vữa động mạch ở các chi [hầu như luôn là chi dưới] gây thiếu máu cục bộ. PAD nhẹ có thể không có triệu chứng hoặc gây cơn đau cách hồi; PAD nặng... đọc thêm
, rối loạn lipid máu Rối loạn lipid máu Rối loạn lipid máu là tăng cholesterol, triglyceride [TGs] huyết tương, hoặc cả hai, hoặc mức HDL cholesterol thấp góp phần vào sự phát triển của xơ vữa động mạch. Nguyên nhân có thể... đọc thêm
, đái tháo đường Đái tháo đường [DM] Đái tháo đường là tình trạng giảm tiết insulin và kháng insulin ngoại vi dẫn đến tăng đường huyết. Triệu chứng sớm liên quan tới tăng glucose máu và bao gồm uống nhiều, khát nhiều, tiểu nhiều... đọc thêm , gut Bệnh Gút Bệnh gút là một bệnh rối loạn do tăng axit uric máu [urat huyết thanh > 6,8 mg/dL [> 0,4 mmol/L]] dẫn đến kết tủa các tinh thể monosodium urat trong và xung quanh khớp, thường gây viêm khớp... đọc thêm
]; và tiền sử gia đình của bất kỳ rối loạn nào trong số những bệnh này.

Tiền sử xã hội bao gồm thói quen vận động, sử dụng thuốc lá, rượu, chất kích thích [cả thuốc được kê đơn và bất hợp pháp]. Tiền sử chế độ ăn uống tập trung vào chế độ ăn nhiều muối và chất kích thích [ví dụ như trà, cà phê, soda có chứa caffeine, thức uống tăng lực].

Tăng huyết áp càng nặng và bệnh nhân càng trẻ thì càng đòi hỏi nhiều xét nghiệm đánh giá chuyên sâu hơn. Nói chung, khi tăng huyết áp mới được chẩn đoán, các xét nghiệm thường quy được thực hiện để

  • Phát hiện các tổn thương cơ quan đích

  • Xác định các yếu tố nguy cơ tim mạch

Kiểm tra bao gồm

  • Xét nghiệm phân tích nước tiểu và tỷ số albumin:creatinine niệu

  • Xét nghiệm máu [creatinine, kali, natri, glucose huyết tương lúc đói, lipid máu, và hormone kích thích tuyến giáp]

  • ECG

Theo dõi huyết áp liên tục, xạ hình thận, X-quang ngực, các xét nghiệm sàng lọc bênh u tủy thượng thận không phải là thường quy.

Hoạt tính của renin huyết tương trong máu ngoại vi không có ích trong chẩn đoán hoặc lựa chọn thuốc.

Trên điện tâm đồ, một sóng P nhọn gợi ý tăng gánh nhĩ, mặc dù không đặc hiệu, nhưng có thể là triệu chứng sớm nhất của bệnh tim mạch do tăng huyết áp. Phì đại thất trái, biểu hiện bằng mỏm tim dội mạnh và điện thế phức bộ QRS tăng, có hoặc không kèm theo bằng chứng của thiếu máu cơ tim, có thể xảy ra sau đó. Nếu có tăng gánh nhĩ hoặc phì đại thất trái, siêu âm tim nên được thực hiện. Ở những bệnh nhân có biểu hiện rối loạn lipid máu hoặc các triệu chứng của bệnh động mạch vành, các xét nghiệm cho các yếu tố nguy cơ tim mạch khác [ví dụ: Protein phản ứng C [CRP] có thể hữu ích.

Bệnh nhân có những triệu chứng gợi ý hội chứng Cushing Cushing Syndrome Hội chứng Cushing gồm một nhóm các triệu chứng lâm sàng gây ra bởi mức độ cao mạn tính của cortisol hoặc corticosteroid liên quan. Bệnh Cushing là hội chứng Cushing là kết quả của việc sản xuất... đọc thêm

, bệnh về rối loạn mô liên kết, sản giật Tiền sản giật và sản giật Tiền sản giật là bệnh tăng huyết áp mới khởi phát hoặc xấu đi với protein niệu sau 20 tuần thai. Chứng sản giật là cơn co giật toàn thân không giải thích được ở bệnh nhân có tiền sản giật. Chẩn... đọc thêm , rối loạn chuyển hóa porphyria cấp Porphyrias cấp tính Porphyrias cấp tính là kết quả của sự thiếu hụt một số enzym trong quá trình tổng hợp heme dẫn đến sự tích tụ các tiền thân heme gây ra các cơn đau bụng và triệu chứng thần kinh. Các đợt cấp... đọc thêm , cường giáp Cường giáp Cường giáp được đặc trưng bởi tăng chuyển hóa và tăng nồng độ các hormone giáp tự do. Nhiều triệu chứng biểu hiện, bao gồm nhịp tim nhanh, mệt mỏi, gầy sút cân, căng thẳng và run. Chẩn đoán... đọc thêm
, phù niêm Suy giáp Chứng suy giáp là thiếu hụt hormone tuyến giáp. Chẩn đoán bằng các đặc điểm lâm sàng như xuất hiện khuôn mặt điển hình, giọng nói chậm khàn, da khô và nồng độ các hormone tuyến giáp thấp. Quản... đọc thêm
, to cực ch Bệnh khổng lồ và bệnh to đầu chi Bệnh khổng lồ và bệnh to đầu chi là các hội chứng do tiết ra quá nhiều hormone tăng trưởng [cường hormone tăng trưởng] gần như luôn là do u tuyến của tuyến yên. Trước khi đóng kín các đầu xương... đọc thêm
i, hoặc rối loạn ở hệ thần kinh trung ương [CNS] cũng cần được đánh giá.

  • 1. Muntner P, Shimbo D, Carey RM, et al: Measurement of blood pressure in humans: A scientific statement from the American Heart Association. Hypertension 73:e35–e66, 2019.

Huyết áp càng cao, những thay đổi ở võng mạc càng nặng và có các bằng chứng của tổn thương cơ quan đích, tiên lượng càng xấu. Huyết áp tâm thu dự đoán các biến cố tim mạch tốt hơn huyết áp tâm trương. Nếu không điều trị, tỷ lệ sống sau 1 năm là

Chủ Đề