Bài tập mô hình CAPM


Mô hình định giá tài sản vốn [Capital asset pricing model CAPM] là mô hình mô tả mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng. Trong mô hình này, lợi nhuận kỳ vọng của một chứng khoán bằng lợi nhuận không rủi ro [risk-free] cộng với một khoản bù đắp rủi ro dựa trên cơ sở rủi ro toàn hệ thống của chứng khoán đó.
Bởi vì các nhà đầu tư không ưa rủi ro, họ sẽ chọn một danh mục chứng khoán để tận dụng các lợi ích của Đa dạng hóa. Do đó, khi họ quyết định đầu tư vào một cổ phiếu cụ thể, họ muốn biết rằng rủi ro của cổ phiếu có tương thích với lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư của họ.
Độ lệch tiêu chuẩn của một cổ phiếu riêng lẻ không chỉ ra rằng cổ phiếu đó sẽ đóng góp vào rủi ro và lợi nhuận của danh mục đầu tư đa dạng như thế nào. Do đó, một biện pháp khác để đo lường về rủi ro là cần thiết. Phương pháp này được cung cấp bởi Mô hình Định giá tài sản Vốn.

Lịch sử mô hình
Mô hình CAPM do William Sharpe phát triển từ những năm 1960 và đã có được nhiều ứng dụng từ đó đến nay. Mặc dù còn có một số mô hình khác nỗ lực giải thích động thái thị trường nhưng mô hình CAPM là mô hình đơn giản về mặt khái niệm và có khả năng ứng dụng sát thực với thực tiễn. Giốngnhư bất kỳ mô hình nào khác, mô hình này cũng chỉ là một sự đơn giản hóa hiện thực bằng những giả định cần thiết, nhưng nó vẫn cho phép chúng ta rút ra những ứng dụng hữu ích.


Rủi Ro Hệ Thống Và Rủi Ro Phi Hệ Thống
Tổng rủi ro của tài sản bao gồm rủi ro có hệ thống và không có hệ thống.
Rủi ro có hệ thống, còn được gọi là rủi ro thị trường hay rủi ro không thể thay đổi, là một phần rủi ro của tài sản mà không thể loại bỏ thông qua đa dạng hóa. Rủi ro có hệ thống cho thấy việc bao gồm một tài sản cụ thể trong một danh mục đa dạng sẽ góp phần làm rủi ro cho danh mục đầu tư
Rủi ro phi hệ thống, còn được gọi là rủi ro xác định cụ thể hoặc có thể đa dạng, là phần rủi ro tổng thể của tài sản có thể được loại bỏ bằng cách đa dạng các danh mục đầu tư.Đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm cắt giảm rủi ro ở đây có nghĩa là kết hợp đầu tư vào nhiều loại chứng khoán mà các chứng khoán này không có tương quan cùng chiều với nhau một cách hoàn hảo, nhờ vậy biến động giảm lợi nhuận của chứng khoán này có thể được bù đắp bằng biến động tăng lợi nhuận của chứng khoán khác. Ngoài ra người ta còn đa dạng hoá nhằm cắt giảm rủi ro bằng cách đầu tư vào thị trường chứng khoán quốc tế thay vì chỉ tập trung đầu tư vào thị trường chứng khoán của một quốc gia nào đó.
Những giả định
Thị trường vốn là hiệu quả ở chỗ nhà đầu tư được cung cấp thông tin đầy đủ, chi phí giao dịch không đáng kể, không có những hạn chế đầu tư, và không có nhà đầu tư nào đủ lớn để ảnh hưởng đến giá cả của một loại chứng khoán nào đó. Nói khác đi, giả định thị trường vốn là thị trường hiệu quả và hoàn hảo.
Nhà đầu tư kỳ vọng nắm giữ chứng khoán trong thời kỳ 1 năm và có hai cơ hội đầu tư: đầu tư vào chứng khoán không rủi ro và đầu tư vào danh mục cổ phiếu thường trên thị trường.

Nội dung của mô hình
Quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận
Lợi nhuận kỳ vọng của một chứng khoán có quan hệ đồng biến với rủi ro của chứng khoán đó, nghĩa là nhà đầu tư kỳ vọng chứng khoán rủi ro cao có lợi nhuận cao và ngược lại. Hay nói khác đi, nhà đầu tư giữ chứng khoán có rủi ro cao chỉ khi nào lợi nhuận kỳ vọng đủ lớn để bù đắp rủi ro. Nếu chúng ta gọi β là hệ số dùng để đo lường rủi ro của một chứng khoán. Thì lợi nhuận kỳ vọng của một chứng khoán có quan hệ đồng biến với hệ số β của nó.

Công Thức: Mô hình CAPM truyền thống được thể hiện bằng phương trình sau, còn gọi là Phương trình SML:
{\displaystyle E[R_{i}]=R_{f}+\beta _{i}[E[R_{m}]-R_{f}]\,}
Trong đó:
  • {\displaystyle E[R_{i}]~~}
    là lợi suất kỳ vọng trên tài sản vốn i
  • {\displaystyle R_{f}~}
    là lãi suất phi rủi ro
  • {\displaystyle \beta _{i}~~}
    là độ nhạy cảm của kỳ vọng lợi suất tài sản vượt trội đối với kỳ vọng lợi suất thị trường vượt trội
  • {\displaystyle E[R_{m}]~}
    là kỳ vọng lợi suất thị trường
  • {\displaystyle E[R_{m}]-R_{f}~}
    là phần bù thị trường [chênh lệch giữa kỳ vọng lợi suất thị trường và lãi suất phi rủi ro]
  • {\displaystyle E[R_{i}]-R_{f}~}
    là phần bù rủi ro
Biểu đồ miêu tả SML.Lưu ý rằng độ dốc của SML tương đương với [E [Rm] - Rf]
là phần bù rủi ro thị trường và SML chặn trục y theo tỷ lệ rủi ro.
Trong cân bằng thị trường vốn, lợi tức yêu cầu đối với một tài sản phải bằng lợi nhuận kỳ vọng của nó. Do đó, phương trình SML cũng có thể được sử dụng để xác định lợi nhuận yêu cầu của tài sản cho bản Beta [𝛽] của nó.
Bản beta cho một cổ phiếu được định nghĩa như sau:
βi = im/2m
im= Sự tương kháng giữa lợi nhuận trên tài sản i và danh mục đầu tư thị trường và
2m= Sự khác biệt của danh mục thị trường.
Lưu ý rằng theo định nghĩa, beta của danh mục đầu tư thị trường bằng 1 và beta của tài sản phi rủi ro bằng 0.
Do đó rủi ro có hệ thống của một tài sản phụ thuộc vào sự hiệp phương sai của nó với danh mục thị trường.Danh mục đầu tư thị trường là danh mục đầu tư đa dạng nhất có thể vì nó bao gồm mọi tài sản trong nền kinh tế được nắm giữ theo trọng số của danh mục thị trường.
Ví dụ:
1. Tìm lợi nhuận kỳ vọng trên cổ phiếu với tỷ lệ không có rủi ro là 6%, lợi nhuận kỳ vọng trên danh mục thị trường là 12% và beta của cổ phiếu là 2.
Giãi
E[Ri] = 6% + [12% - 6%]*2 = 18%
2. Tìm phiên bản beta của cổ phiếu với tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng là 16% [là lợi suất kỳ vọng trên tài sản vốn], tỷ lệ không có rủi ro là 4% và lợi nhuận kỳ vọng trên danh mục thị trường là 12%.
Giãi
Thế các số liệu vào, Ta có:
16% = 4% + [12% - 4%]*𝛽
=> 𝛽 = 1,5

Ưu nhược điểm của mô hình CAPM
Một số học giả khi áp dụng mô hình CAPM đã phát hiện ra một số điểm bất thường khiến CAPM không còn đúng như trường hợp bình thường. Những điểm bất thường bao
gồm :
Ảnh hưởng của qui mô công ty: Người ta phát hiện rằng cổ phiếu của công ty có giá trị thị trường nhỏ [market capitalization = price per share x number of share] đemlại lợi nhuận cao hơn cổ phiếu của công ty có giá trị thị trường lớn, nếu những yếu tố khác như nhau.
Ảnh hưởng của tỷ số PE và MB: Người ta cũng thấy rằng cổ phiếu của những công ty có tỷ số PE[ price/earning ratio] và tỷ số MB [market-to-book value ratio] thấp đem lại lợi nhuận cao hơn cổ phiếu của những công ty có tỷ số PE và MB cao.
Những người ủng hộ mô hình đa yếu tố cho rằng mặc dù CAPM vẫn hữu ích cho mục đích của tài chính công ty nhưng nó không đem lại sự đo lường chính xác lợi nhuận kỳ vọng của một cổ phiếu cụ thể nào đó. Mô hình đa yếu tố [multifactor models] cho rằng lợi nhuận cổ phiếu biến động phụ thuộc vào nhiều yếu tố chứ không phải chỉ có yếu tố thay đổi của thị trường nói chung cho nên nếu đưa thêm những yếu tố khác vào yếu tố rủi ro để giải thích lợi nhuận sẽ mạnh hơn là chỉ dựa vào một yếu tố duy nhất như mô hình CAPM.

Đọc Thêm:
- Trắc nghiệm cán cân thanh toán
-Đồng tiền yết giá và đồng tiền định giá

Tài liệu tham khảo:
-//www.zenwealth.com/businessfinanceonline/RR/CAPM.html
- Phân tích tài chính chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright

Video liên quan

Chủ Đề