Bài thơ chí khí anh hùng lớp 10

Bài thơ chí khí anh hùng lớp 10

Bài thơ chí khí anh hùng lớp 10

Bài thơ chí khí anh hùng lớp 10

Bài thơ chí khí anh hùng lớp 10

Bài thơ chí khí anh hùng lớp 10

Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 1

Từ Hải “khách biên đình” oai phong lẫm liệt:

“Râu hùm hàm én mày ngài.

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.

Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, đã tái sinh cuộc đời nàng, nâng Kiều thành một mệnh phụ phu nhân:

“Trai anh hùng, gái thuyền quyên,

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”.

Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó. Từ Hải đã giã biệt phu nhân để lên đường chinh chiến quyết “rạch đôi sơn hà”:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bấn phương.

Trông vời trời bể mênh mang.

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Bức chân dung Từ Hải hiện lên trong cảnh giã biệt thật đẹp. Bốn phương trời xa vẫy gọi, “thoắt đã động lòng” đấng trượng phu. Cuộc sống êm ấm gối chăn đầy hạnh phúc “hương lửa đương nồng” cũng không thể níu giữ. Một cái nhìn vời vợi “trời bể mênh mang”. Đó là cái nhìn mang tầm vũ trụ của một anh hùng chí lớn, như Nguyễn Công Trứ từng thổ lộ:

“Chí làm trai nam bắc tây đông,

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.

(Chí anh hùng)

“Thoắt” nghĩa vụt chốc, diễn ra rất nhanh và bất ngờ. Thoắt đã thể hiện sự chấn động vô cùng mạnh mẽ trong tâm hồn đấng trượng phu. Từ Hải đã ra đi với khát vọng lập nên sự nghiệp, bằng võ công của bậc tài trai:

“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Kiều đã coi chữ “tòng” làm trọng; tòng phu là một trong đạo tam tòng của người phụ nữ ngày xưa. Đó cũng là một nét đẹp đạo đức Thuý Kiều:

“Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Từ Hải đã nói với Kiểu bao lời tình nghĩa. Không thể đế cho giọt nước mắt. tiếng thở dài của người vợ đẹp níu giữ. Từ Hải khuyên Kiều hay khẽ nhắc mình: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”. Hứa với Kiều về một ngày mai huy hoàng, một ngày mai sum vầy hạnh phúc:

“Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi  thường,

Bấy giờ ra sẽ rước nàng nghi gia”.

Đó là lời hứa danh dự của một đấng trượng phu phi thường. Có tin vào chí khí và sức mạnh “rạch đôi sơn hà” của đáng tài trai “đội trời đạp đất” mới có lời hứa như dao chém đá ấy. Với Từ Hải, bốn phương vẫy gọi là chiến công đang chờ đón, là một ngày mai hiển hách có một lực lượng hùng hậu “mười vạn tinh binh ‘, ‘huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam”. Thời gian đợi chờ mà Từ Hải an ủi Kiều cũng là một lời hứa:

“Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Hình ảnh cánh chim bằng bay vút muôn dặm khơi là hình ảnh người anh hùng mang chí lớn tung hoành vẫy vùng trong bốn bể:

“Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.

Đọc “Truyện Kiều”, ta bắt gặp hình ảnh Từ Hải đã trở lại Lâm Tri sau một nam trời giã biệt. Trong cảnh “Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân”. Từ Công hỏi phu nhân:

“Nhớ lời nói những bao giờ hay không?

Anh hùng mới biết anh hùng.

Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”.

Qua đoạn thơ 18 câu này (từ câu 2213 – 2230), nhân vật Từ Hải đã được Nguyễn Du miêu tả với tấm lòng quý mến ngợi ca về chí khí anh hùng và khát vọng sự nghiệp phi thường. Từ Hải là một nhân vật anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp trong “Truyện Kiều” của thi hào Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 2

Truyện Kiều xuất sắc không chỉ vì ngôn ngữ nghệ thuật, mà còn vì ý nghĩa nội dung độc đáo, sâu sắc. Nguyễn Du phản ánh một hiện thực xã hội phong kiến đương thời – cái xã hội hủ nát đã vùi dập chính ông – hay vùi dập số phận nàng Kiều và vô vàn những số phận tài hoa khác. Điều ấy khiến Truyện Kiều thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Và khi đưa Từ Hải vào như một nét sáng tạo trong cốt truyện, Nguyễn Du đã làm sáng cái ý chí và hoài bão lớn lao của những bậc anh hùng thời bấy giờ. Hình ảnh nhân vật Từ Hải được thể hiện rõ nét nhất qua đoạn trích Chí khí anh hùng.

            Sau nửa năm chung sống, Kiều và Từ Hải có một mái ấm gia đình, đương lúc tình cảm giữa hai người nồng đượm nhất, Từ Hải lại ‘thoắt động lòng bốn phương’. Người đời nói rằng anh hùng chí ở bốn phương, Nguyễn Công Trứ lại có câu ‘Chí làm trai nam bắc đông tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể’. Nam nhi chi chí, đầu đội trời, chân đạp đất, sống là phải làm rạng danh dòng họ, rạng danh gia đình, ‘Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh’. Có lẽ chính chế độ phong kiến đã tách Từ Hải ra khỏi Kiều – bởi chính chế độ ấy đã đem tư tưởng nam nhi áp đặt lên đầu chàng. Nhưng cũng chính tư tưởng ấy khiến chàng bảo vệ nàng, tạo nên nét riêng của chàng.

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”

            Và Từ Hải đã luôn ở trong vị thế sẵn sàng – chàng luôn cầm chắc thanh gươm, yên ngựa luôn được đặt sắn – chàng biết chẳng chóng thì chầy chàng cũng sẽ ra đi. Chàng đã chuẩn bị sẵn tinh thần để không lưu luyến, bịn rịn, vì chàng là một nam tử hán, ‘nam nhân thà rơi máu chứ không rơi lệ’.

Xem thêm:  Phân tích và nêu cảm nghĩ về bài Dế chọi

“Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.”

       Không gian xung quanh – rộng lớn, bao la, khoáng đạt, mênh mang đến cùng trời cuối bể – như khắc họa thêm vào bóng lưng quyết liệt, dứt khoát của chàng. Chàng như hòa vào với trời đất, chàng như trở nên khổng lồ – vì ý chí và hoài bão – vươn đến tận vũ trụ xa xôi.

“Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

       Từ Hải như không còn là một người thường nữa – Nguyễn Du tả chàng như một vị tiên nhân – lướt gió, đạp mây mà đi – vượt bể, vượt núi cao, vượt qua bao sóng gió. Lòng chàng vẫn không thay đổi – chàng vẫn ‘quyết lời’, vẫn ‘dứt áo ra đi’. Bởi:

“Sinh vi nam tử yếu hy kỳ

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”

       Chàng muốn cho Kiều một cuộc sống hạnh phúc. Chàng tự tin vào tài năng của mình, giống như cách Đào Uyên Minh tự tin ‘Thiếu thời tráng thả lệ/ Vũ kiếm độc hành du”.

“Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Từ Hải tin rằng chàng sẽ thực hiện được hoài bão của mình – ấy là trở thành một vị tướng quân dẫn ‘mười vạn tinh binh’, chiêng trống ‘dậy đất’, cờ xí ‘rợp đường’. Mọi người rồi sẽ biết chàng tài năng thế nào. Đến lúc ấy, chàng sẽ cho kiệu tám người khiêng, đường đường chính chính rước Kiều vào phủ đệ – để Kiều làm một vị phu nhân, để những kẻ từng hãm hại Kiều phải ngày đêm sợ hãi. Việc ấy sẽ không lâu, ‘chầy chăng là một năm sau vội gì’.

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi

Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”

       Từ Hải một mặt trách Kiều ‘sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình’, một mặt lại lo lắng cho nàng:

“Bằng nay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận biết là đi đâu”

       Chàng cũng rất mâu thuẫn – chàng muốn vợ mình cũng là một cô gái phóng khoáng, hiệp nghĩa để sánh đôi với chàng, tựa như Mộc Lan trong thơ của Đào Uyên Minh:

“Vạn dặm đi theo quân

Vượt núi ải như bay

[…]Tướng quân đánh trăm trận rồi chết

Tráng sĩ mười năm mới trở về”

Nhưng đồng thời, Từ Hải cũng không muốn Kiều phải chịu khổ sở – buổi đầu anh hùng lập nghiệp, ngao du tứ phương xem đất tựa giường, rơm tựa nệm chăn. Một tiểu thư khuê các như Kiều sao có thể chịu khổ như vậy? Đó là tấm lòng nghĩ cho vợ, tấm lòng hết sức tình cảm của một kẻ võ biền, thật đáng quý biết bao.

       Nguyễn Du đã xuất sắc miêu tả một Từ Hải – một con người bình thường, với những hoài bão và ý chí to lớn, với những hành động phi thường, và rồi lại trở lại như một người chồng quen thuộc – một người chồng luôn lo lắng, quan tâm đến vợ.

John S.Mill từng nhận định rằng: “Châm ngôn sự thật luôn chiến thắng tội ác là lời dối trá ngọt ngào nhất mà con người cứ nhắc đi nhắc lại cho đến khi nó trở nên phổ biến. Lịch sử tràn ngập ví dụ về lòng bác ái và sự thật bị quật ngã bởi tội ác.” Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng như vậy. Dù đưa vào nhân vật Từ Hải – một anh hùng trong mắt Kiều và những người có số phận như Kiều hay phường giặc cỏ trong mắt triều đình phong kiến, nhưng cuối cùng, chàng vẫn bị quật ngã trước những thế lực đen tối xấu xa. Thế nhưng, chỉ với một đoạn xuất hiện ngắn ngủi, Từ Hải cũng đã soi sáng khát khao về một cuộc sống công bằng và hạnh phúc – một cuộc sống lý tưởng cho tất cả mọi người của Nguyễn Du.

Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 3

Khát vọng cao đẹp thôi thúc Từ Hải lên đường. Từ Hải đang sống rất ấm êm, viên mãn bên người yêu Thuý Kiều: hương lửa đang nồng. Nồng là nồng ấm, nồng nàn.

Từ lửa và nồng đặt cạnh nhau có ý nghĩa làm nổi bật hình ảnh cuộc sống dang tột đỉnh hạnh phúc. Có được cuộc sống gia đình như thế thật là một mơ ước của Kiều và bao người. Nhưng Từ Hải là một hiệp khách nên không thể tự bằng lòng với cuộc sống bằng phẳng, nhỏ bé, tù túng. 

Từ Hải lại là người thuộc về cuộc đời, được sinh ra để tung hoành nơi bốn biển, đạp nát bất công, xây dựng một xã hội công bằng tốt đẹp như giấc mơ của Nguyễn Du, nên đang trong cảnh yên bình thì chí khí trượng phu bỗng bật dậy thôi thúc chàng thực hiện hoài bão anh hùng: Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Đó là tiếng gọi của sự nghiệp thức tỉnh Từ Hải từ bên trong.

Không gian bốn phương và trời bể mới là nơi đất sống, nơi tráng chí tung hoành: Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo. Nơi ấy đang vẫy gọi người tráng sĩ trở về thực hiện giấc mơ. Và bây giờ sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Thanh gươm yên ngựa là lẽ sống, sự nghiệp chính nghĩa cũng bắt đầu từ đây. Ánh mắt đã hướng về chân trời khát vọng và ý chí đã quyết, chàng vung áo bào lên ngựa. Hình ảnh Từ Hải lúc này thật phi thường và đẹp đẽ:

Xem thêm:  Bình giảng bài ca dao Tát nước đầu đình

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Động tác thật mau lẹ, chí khí thật mạnh mẽ, không dặn dò không lưu luyến. Nhưng…

Cảnh chia li: Thuý Kiều không cản, chỉ xin đi theo:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

Rất bình thản và đầy quyết tâm. Từ một lòng không đơn thuần là lòng thuỷ chung: tâm phúc tương tri mà còn cho thấy nàng có cùng lí tương với Từ Hải. Chữ tòng này không theo quan niệm tam tòng tứ đức của Khổng Tử. Vì tòng phu ở dây là theo chồng đi chinh chiến, là tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ. Thời phong kiến có mấy phụ nữ làm chuyện ấy.

Đã từng là nạn nhân của chế độ thôi nát, bây giờ có cơ hội, Kiều muôn “góp tay” vào để xoá bỏ ung nhọt xấu xa, trừng trị kẻ bạc ác. Tính cách mạnh mẽ, bản lĩnh của Kiều lần nữa được bộc lộ (lần thứ nhất là hành động tự vẫn trước mặt Tú Bà). Núp bóng phận gái nhưng Kiều không phải là kiểu người an phận. Có trí tuệ, bản lĩnh, lại có khát vọng cao quí nên sau này Từ Hải yên tâm giao phó nhiệm vụ xử án cho Kiều: Từ rằng: “Ân oán hai bên / Mặc nàng xử quyết, báo đền cho minh”.

Từ Hải ngăn cản:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Từ Hải trách Thuý Kiều chưa vượt lên khỏi tình cảm thông thường của nữ nhi, Kiều xin đi theo chỉ thêm vướng bận, nhưng liệu Từ Hải có hiểu được Kiều?

Từ Hải hứa hẹn ngày về với thái độ rất mực tự tin:

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiềng dậy đất, bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Hình ảnh của tương lai với đoàn quân oai hùng như che rợp cả bầu trời hiện ra thật đẹp đẽ. Lúc này sự nghiệp đã thành công thì mọi việc sau đó sẽ Ổn. Từ Hải động viên việc đó chỉ trong vòng một năm thôi. Giọng nói gọn rõ, lời lẽ dứt khoát cũng góp phần thể hiện tính cách phi thường.

Từ Hải lên dường:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Lời và ý đã quyết như dóng đinh vào cột, hành dộng dứt áo như cắt đứt mọi lưu luyến, tâm tư hướng đến mục đích duy nhất. Tất cả làm toát ra cốt cách của người anh hùng.

Câu thơ cuối sử dụng điển tích gợi hình ảnh có vẻ đẹp kì vĩ mang hàm ý so sánh để làm nổi bật sức mạnh phi thường của người anh hùng và khát vọng lớn lao trải ra trên đôi cánh mênh mang của chim bằng trên đường ra biển lớn.

Chĩ một câu thơ mà hình ảnh Từ Hải hiện ra thật đẹp đẽ hào hùng trong cảm hứng anh hùng ca và giàu chất lãng mạn.

Đó cũng là hình ảnh Phan Bội Châu sau này:

Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật lí tưởng:

– Khát vọng, hoài bão lớn lao:… động lòng bốn phương.

– Lời nói, ngôn ngữ, hành dộng mạnh mẽ dứt khoát:… ta sẽ rước nàng,… là một năm sau, vội gì! Quyết lời dứt áo…

– Hình ảnh ki vĩ lớn lao: trời bể mênh mang, Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi, Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường.

– Cách dùng từ: trượng phu, thanh gươm yên ngựa, mặt phi thường. 

– Tất cả làm nổi bật hành động phi thường có chiều kích vũ trụ và sự nghiệp anh hùng tung hoành nơi cuộc đời rộng lớn…

Thông qua cảnh chia li, đoạn trích khắc hoạ hình tượng Từ Hải anh hùng có tính cách phi thường và mang khát vọng tự do cao đẹp. Đoạn trích cũng thể hiện thành công nghệ thuật của Nguyễn Du trong việc thể hiện ngôn ngữ nhân vật và việc khắc hoạ tính cách

Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Bài số 4

Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ thực sự là một người đa tình. Song dẫu đa tình, Từ không quên mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt “động lòng bốn phương”, thế là toàn bộ tâm trí hướng về “trời bể mênh mang”, với “thanh gươm yên ngựa” lên đường đi thẳng.

Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải.

Tác giả dựng lên hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong” rồi mới để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi lôgíc không? Không, vì hai chữ “thẳng giong” có người giải thích là “vội lời”, chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vô lí. Vậy có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng là tiễn biệt người yêu về quê hộ tang chú, có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách. Khi chia tay Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẽ, hi vọng gặp lại rất mong manh vì cả hai đều biết tính Hoạn Thư, do đó gặp lại được là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để chàng thoả chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là khác hẳn nhau.

Xem thêm:   Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói:

Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”. Từ Hải đã đáp lại rằng: Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”.