bao nhiêu ngày kể từ 24/2/2009

- Căn cứ các Điều 41, 336 và Điều 338 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Xét bản án hình sự sơ thẩm s 73/2017/HSST ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện Đ tỉnh P đã xét x bị cáo:

Hoàng Mạnh C - sinh ngày 06/02/1987;

Nơi ĐKNKTT: Thôn X Đoài, xã C , Huyện H, tỉnh T.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 01/12,

Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Tiền sự: Không;

Tiền án:

+ Bản án số 156/2008/HSST ngày 27/11/2008 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L xử phạt Hoàng Mnh C 10 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản", trị giá tài sản chiếm đoạt là 13.222.500 đồng.

+ Bản án số 23/2008/HSST ngày 24/02/2009 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L x phạt Hoàng Mạnh C 03 năm 06 tháng tù về tội " Trộm cắp tài sản", được khấu trừ thời hạn tạm giam là 21 tháng 28 ngày và tổng hợp với bản án số 156/2008 còn phải chấp hành là 17 ngày. Buộc bị cáo C phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 17 tháng 19 ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt kể từ ngày 24/02/2009. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 140.875.560 đồng. Ra trại tháng 08/2010.

+ Bản án số 131/2014/HSST ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố L , tnh L xử phạt Hoàng Mnh C 08 tháng tù về tội " Trộm cắp tài sản, trị giá tài sản chiếm đoạt là 250.000 đồng. Thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2014, ra trại tháng 01/2015.

+ Bản án số 34/2015/HS-ST ngày 31/3/2015 của Tòa án nhân dân Quận 3, thành phố H xử phạt Hoàng Mạnh C 02 năm 03 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản", trị giá tài sản chiếm đoạt là 7.000.000 đồng. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2015, ra trại ngày 25/5/2015.

Bị cáo bị tạm giam ngày 09/5/2017 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh P.

Bị cáo bị xét xử về tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

NHN THẤY

Khoảng 0 giờ 30 phút ngày 04/5/2017, Hoàng Mạnh C sinh ngày 06/02/1987, trú tại Thôn X, xã c, Huyện H, tnh T đã trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu LEAD biển kiểm soát 19B 1-204.39 của chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1970 ở tổ 18, phố K, phường B, thành phố V. Sau khi trộm cắp được xe C điều khiển xe đi đến khu Đồng Tâm, thị trấn Đ, huyện Đ thi phát hiện nhà ông Trần Ngọc H sinh năm 1958 khép cửa nên C đã đi vào phòng khách sau đó đi xuống buồng ngủ nhà ông H mục đích ưộm cắp tài sản, thì bị ông Hoàn phát hiện, C ra lấy xe máy bỏ chạy, lúc này có anh LươngViết T sinh năm 1990 nhìn thấy nên đã đuổi theo C, khi đến khu Phú Thịnh, thị trấn Đ, huyện Đ thì ép được xe của C vào ven đường, C bỏ xe mô tô chạy qua đường quốc lộ đi xuống ven ruộng đi đến nhà anh Trần Hồng Q sinh năm 1982 ở khu Phú Thịnh, thị trấn Đ, thấy nhà anh Q có một chiếc xe đạp điện trị giá 500.000 đồng, C đã trộm cắp chiếc xe đạp này và đạp đi khoảng 600 mét sang khu Hưng Tiến, thị trấn Đ thì thấy ở sân nhà anh Nguyễn Trung T sinh năm 1974 dựng chiếc xe mô tô biển kiểm soát 19E1 - 110.69 trị giá 12.600.000 đồng, C vứt chiếc xe đạp rồi lấy chiếc xe mô tô của nhà anh T điều khiển đi thì bị anh T phát hiện dồn đuổi, C điều khiển xe mô tô bò chạy đến đường đê ngăn lũ sông C thuộc thôn Ngọc Chúc 1, xã Chí Đám, huyện Đ, C bỏ xe ở bãi đất trống rồi đi bộ ra bắt xe khách lên thành phố L. ( Hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu LEAD biển kiểm soát 19B 1-204.39 của chị Nguyễn Thị H đã được Tòa án nhân dân thành phố V xét xử).

Bản án số 73 ngày 28/12/2017 của TAND huyện Đ đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Hoàng Mạnh C phạm tội "Trộm căp tài sản". Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. X phạt bị cáo Hoàng Mạnh C 18 tháng tù. Ngoài ra bản án còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.

XÉT THẤY

Qua nghiên cứu bản án số 73 ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ thấy rằng: Việc Tòa án nhân dân huyện Đ xét xbị cáo Hoàng Mạnh C theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là không đúng, bởi lẽ:

Tại bản án số 23/2008/HSST ngày 24/2/2009 của Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt bị cáo C về tội trộm cắp tài sản vói tổng giá trị tài sản thiệt hại là 140.875.560 đồng. Khi phạm tội bị cáo đã 17 tuổi 6 ngày, đủ điều kiện để tính "tái phạm" hoặc "tái phạm nguy hiểm" theo khoản 6 Điều 69 Bộ luật hình sự 1999 và khoản 7 Điều 91 Bộ luật hình sự 2015. Bản án này bị cáo thi hành xong hình phạt tù vào ngày 13/8/2010, về trách nhiệm dân sự người bị hại chưa có yêu cầu thi hành, nhưng ngày 20/11/2011 bị cáo đã phạm tội mới. Do đó bản án s 23/2008/HSST ngày 24/2/2009 của Tòa án nhân dân thành phố L phải được coi là chưa xóa án tích cả về hình phạt tù và trách nhiệm dân sự. Mặc dù lần phạm từ tội ngày 20/11/2011 đến ngày 31/3/2015 Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố H mới xét xử do hồ sơ bị trả lại nhiều lần, trong khi chờ xét xử của bản án này bị cáo lại phạm tội trộm cắp tài sản với số tiền 250.000 đồng, và đã bị Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt 08 tháng tù tại bản án số 131/2014/HSST ngày 12/9/2014, nhưng do bị cáo phạm tội trong quá trình điều tra, truy tố, xét x của bản án số 34/2015/HSST của Tòa án nhân dân Quận 3, thành phố H nên không coi là "Tái phạm hay "Tái phạm nguy hiểm" nhưng bản án 131/2014/HSST xác định bị cáo đã có tiền án chưa được xóa án tại bản án số 23/2008/HSST ngày 24/2/2009 của Tòa án nhân dân thành phố L. Vì vậy bản án số 34/2015/HSST của Tòa án nhân dân Quận 3, thành phố H xét xử phải coi bản án số 23/2008/HSST ngày 24/2/2009 của Tòa án nhân dân thành phố L là tiền án và xác định bị cáo đã " Tái phạm". Do vậy đến ngày 04/5/2017 bị cáo tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản thì Tòa án nhân dân huyện Đ phải xác định bị cáo là "Tái phạm nguy hiểm" và phải xét xử bị cáo theo điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự. Nhưng bn án số 73 ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ lại xét xử bị cáo C theo khoản 1 Điều 138 là không đúng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm số 73/2017/HSST ngày 28/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh P theo thủ tục phúc thẩm.

Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh P xét xử vụ án theo trình tự phúc thẩm, áp dụng Điều 355, khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự để sa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 73/2017/HSST ngày 28/12/2017 cùa Tòa án nhân dân huyện Đ, tnh Phú Thọ theo hướng xét xử bị cáo theo điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự và tăng hình phạt tù đối với bị cáo Hoàng Mạnh C.