Bấy lâu đáy bể mò kim là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa

LẠI BÀN VỀ ĐOẠN KẾT CỦA TRUYỆN KIỀU

Trần Đình Sử

Đã có nhiều người bàn về đoạn kết Truyện Kiều, có ý kiến cho rằng để Kim Kiều tái hợp trong cái tình “cầm kì”, một thứ hôn nhân không có sex, không đẻ con để nối dõi tông đường, không làm vợ và không làm mẹ, chỉ làm bạn, “Khi chén rượu, khi cuộc cờ, Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên” như là một bạn giai, là một cái kết đoàn viên gượng gạo. Nhà thơ Xuân Diệu cũng tán thành là gượng gạo, song ông lại cho rằng cái kết ấy, những lời Kiều kể lại thân thế chìm nổi ô uế của mình,  có giá trị tố cáo xã hội sâu sắc mà ông đã gọi là “Bản cáo trạng cuối cùng” do nạn nhân tự nói ra, có vẻ được một thời độc giả tán thưởng.  Tôi thấy đó cũng là một cách hiểu, không hẳn đã sai. Nhưng từ năm 2015, kỉ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du đã có người nói lại, phê bình cách hiểu xã hội học ấy. Tôi thấy phê bình như vậy là cần thiết, bởi không nên chỉ hiểu tác phẩm chỉ trên một bình diện xã hội. Tình cờ gần đây tôi được có dịp tham gia trong một cuộc “Đọc lại Truyện Kiều” do Viện Goethe Hà Nội tổ chức, nghe được nhiều ý kiến diễn giải mới về đoạn kết. Vì nguyên tắc không được tiết lộ danh tính khi chưa được các tác giả cho phép, tôi chỉ nêu qua các ý kiến ấy như những thông tin mới đáng được suy nghĩ, bàn luận. Với khuynh hướng nữ quyền, có ý kiến xem đó là cách để người nữ thoát khỏi sự phụ thuộc vào người nam trong hôn nhân, hướng tới tự do. Kết như thế cũng là cách để không mếch lòng đối với Thuý Vân, người em gái hiền thục đã phải  hứng lấy mối tình của chị.

Tuy nhiên tôi nghĩ, người đọc hiểu và phân tích thế nào là một chuyện, còn tìm hiểu xem tác giả đã hiểu thế nào với cái kết ấy là một chuyện khác, cần phải được tìm hiểu cẩn thận, có căn cứ thuyết phục.  Trong cái kết này có ba chi tiết quan trọng cần được làm rõ. Đó là việc cô Kiều bỏ chăn gối với chồng là chàng Kim Trọng, bỏ đàn  và chia tay với Giác Duyên.

Tình tiết quan trọng nhất trong cái kết truyện này là cuộc “đoàn viên” của Thuý Kiều và Kim Trọng. Như mọi truyện xưa, nam nữ hết nạn chia xa, được gặp mặt, đoàn viên là hết chuyện. Nhưng số phận Kiều rất đặc biệt, do 15 năm lưu lạc, trong đó có hai lần làm gái lầu xanh, ong qua bướm lại đã thừa xấu xa, cho nên ngày gặp lại Thuý Kiều không tránh khỏi tình cảm hổ thẹn. Nhưng trong nguyên tác, tác giả không muốn dừng lại giản đơn như thế, mà muốn nâng cao lên, biến Kiều thành một cô trinh nữ đặc biệt. Tuy thân thể đã không còn trinh, mà tinh thần thì vẫn trinh nguyên sắt đá. Một lòng tôn trọng chữ trinh. Lí do mà Kiều nêu ra để từ chối chăn gối cùng Kim Trọng, là người phụ nữ đi lấy chồng thì phải trinh tiết, sáng như như trăng rằm, như hoa thơm phong nhụy, như ngọc không có tỳ vết. Nay Kiều đã trăng khuyết hoa tàn rồi, thì từ chối chăn gối là để tôn trọng chữ trinh đó. Và quyết dùng thái độ cự tuyệt đó để đề cao ý thức chữ trinh của mình. Điều này đã được lời Tựa của Thiên Hoa Tàng Chủ nhân khẳng định rành rành. Lúc đầu, Kim Trọng cũng nghĩ rằng Kiều nói từ chối chăn gối, chỉ là noí điều cần nói, còn khi vào cuộc thì nàng sẽ sống theo thiên tính tự nhiên của người đàn bà mới 30 tuổi. Nhưng không, Kiều đã quyết cự tuyệt, và Kim Trọng đã phải kêu lên: “Hoá ra hiền thê không phải là đàn bà, hiền thê là  thánh hiền hào kiệt. Kim Trọng tôi với đôi mắt sáng chỉ biết nàng là phu nhân, là chưa biết hết, nay mới biết thêm nàng đã tự coi mình là liệt phụ nghìn xưa. Nàng đã như thế thì quên tình đi cũng được. Kim Trọng tôi đâu còn dám trăng gió được nữa”. Nói rồi hai người chỉnh lại y phục, Kim Trọng vái Kiều như vai một liệt phụ, còn Kiều lại vái Kim Trọng do chàng đã giúp cho Kiều thực hiện được giấc mơ làm liệt phụ. Hoá ra cái kết “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” là do cái ý muốn nêu một tấm gương trinh tiết, liệt phụ, sống theo khuôn mẫu, chứ không nhằm tố cáo tội ác xã hội nào cả. Chỗ này chắc chắn là ông Xuân Diệu đã nhầm. Việc Kiều nhắc lại chuyện trăng khuyết hoa tàn ở đây không nhằm tố cáo ai, mà chỉ nhằm làm cơ sở để cho nàng tự phong mình là thánh hiền hào kiệt. Vì muốn nêu gương tiết liệt, cho nên, lẽ ra chuyện hai người từ chối làm tình trong quan hệ vợ chồng, vốn là một chuyện rất riêng tư giữa hai người, không cần phải cho ai người ngoài biết làm gì. Nhưng vì muốn nếu gương, nên phải nói cho người ngoài biết mới phát huy được vai trò tấm gương. Thế là Kiều nói với Vân cho Vân biết, Vân lại nói cho bố mẹ, bố mẹ lại nói cho em Vương Quan, và cả nhà đều lấy làm lạ lùng và đều khen Thuý Kiều. Vậy là cuộc tình “cầm cờ” là do Kiều muốn nêu gương tiết liệt mà nên vậy. Sau nhiều năm ê chề nhục nhã, giờ được tái sinh, Kiều không muốn sống một cuộc sống bình thường, thế tục, mà lại muốn sống đời của một đấng liệt phụ để cho đời sau ca ngợi, thật là một điều rất đáng tiếc. Tuy nhiên, xét một mặt khác, kết như vậy vẫn có cái lí của nó. Kiều đã qua 15 năm , nhiều năm làm đĩ, giờ lại lấy chống, không khỏi có cảm giác xấu hổ, từ chối là thành thật. Về phía Kim Trọng tuy là cưới người yêu cũ, những cũng đã làm đĩ nhiều năm, cũng không danh giá vẻ vang gì. Về phía gia đinh Vương ông, tìm được con gái là mừng, nhưng con đã làm đĩ, cũng khổ tâm. Đối với Thúy Vân, thái độ của Kiều khiến cho Vân ít thấy mất mát. Như vậy là cái kết đoàn viên này khiến cho cả nhà âi ai cung x được thỏa mãn, êm đẹp. Dầu vậy, theo tôi cái kết này đã làm giảm sút giá trị của Kim Vân Kiều truyện rất nhiều. Cô Kiều vốn đáng yêu đáng thương bao nhiêu bây giờ có vẻ đáng ghét bấy nhiêu, vì cô muốn làm bậc thánh, mà không muốn làm người thế tục. Cô cũng không hề thương Kim Trọng đã chờ mong cô không biết bao nhiêu tháng ngày, để cự tuyệt chàng. Một yếu tố rất phản nhân văn, đậm đặc tính chất nho giáo kiểu Tống Nho, “diệt nhân dục, tồn thiên lí”. Điều này có lẽ là do thiên hướng thuyết giáo của Thanh Tâm Tài Nhân, chứ theo tính cách cô Kiều, thì cô khó mà có thể làm liệt nữ. Điều đáng chú ý là trong bài Tựa viết cho Kim Vân Kiều truyện của Thiên Hoa Tàng chủ nhân thì chính ông này khẳng định chủ đề trinh và dâm của tác phẩm và nhân vật. Đại phàm hễ thân bị đục mà tâm trong thì dâm  mà hóa trinh, còn như thân không bị đục mà tâm đục thì tuy bề ngoài xem lf trinh mà thực ra là dâm vậy. Nhịn  món chăn gối chính là cách để Kiều chứng minh cho mọi người thấy mình thân tuy bị đục, mà tâm vẫn trong , vậy là cô vẫn trinh đó. Đó chỉ là một mớ ngụy biện.

Đó cũng là lí do giải thích vì sao cô Kiều không đi tu theo vãi Giác Duyên được, vì đi tu thì không thể làm liệt nữ. Cô thắp hương thơ Phật trong nhà chỉ là “”Giác Duyên hờ chút nghĩa người”, là sự vì nghĩa theo quan niệm nho giáo, chứ không phải vì mộ đạo Phật. Cô vẫn có như cầu lấy chồng. Nhưng cô Kiều cũng chỉ trinh liệt có một nửa. Bởi vì cô không từ bỏ hẳn sự tiếp xúc thân thể của hai vợ chồng, cô vẫn cùng Kim Trọng “âu yếm vành ngoài”, chỉ kiêng có một khâu cuối cùng mà thôi, và như vậy cũng không thể nói là cô bỏ hẳn tính dục. Điều đó cũng thể hiện tính phản tự nhiên và giả dối trong ý đồ của tác giả Trung Quốc.

Thi hào Nguyễn Du khi kể lại cái kết này đã diễn lại rất hay những lời đau đớn của Kiều, bỏ đi  lời than của Kim Trọng, nhưng nhà thơ của chúng ta vẫn tuân theo nguyên tác, nhưng đã làm nhạt đi cái chí làm người tiết liệt của Kiều và sự ngạc nhiên bất ngờ của Kim Trọng, khiến người đọc bớt được cú sốc,  giảm bớt cái chí của Kiều. Lời lẽ của Kiều rất dỗi chân thành: “Nàng rằng phận thiếp đã đành, Có làm chi nữa cái mình bỏ đi. Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,  Chiều lòng gọi có xướng tuỳ mảy may. Riêng lòng đã thẹn lắm thay, Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi. Nhưng như âu yếm vành ngoài,  Còn toan mở mặt với người cho qua. Lại như những thói người ta,  Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa., Cũng là giở duốc bày trò , Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi. Người yêu ta xấu với người,  Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau.” Nếu trong nguyên tác, Kiều tỏ ra muốn làm người tiết phụ nghìn xưa, thì trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cực tả  cảm giác hổ thẹn của Thuý Kiều và Kim Trọng của ông không thấy ý chí muốn làm người liệt nữ trong các lời lẽ phân trần ấy. Và mặt khác Kim Trọng của ông cũng thể tất nhân tình hơn Kim Trọng của Tàu. “Bấy lâu đáy bể mò kim, Là tìm vàng đá phải tìm trăng hoa.” Tất nhiên Nguyễn Du vẫn trung thành với nguyên tác khi viết: Cho hay thục nữ chí cao”, nếu ta hỏi “chí cao” đây muốn làm gì? Thì câu trả lời vẫn là chí muốn làm một người trinh liệt, không thể trả lời khác được, và ở đây vẫn để lộ ra ý muốn thuyết giáo của tác phẩm. Nhưng điều khác biệt là ở chỗ, nếu nguyên tác chủ yếu là thể hiện ý chí nêu gương đạo hiếu, đạo trinh, đạo trung, tiết, nghĩa, thì trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nêu đạo tu Tâm, một chủ đề có thiên hướng Phật giáo. Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa, Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Nếu nguyên tác nặng về nêu gương Trung Hiếu Tiết Nghĩa, Trinh, thì Truyện Kiều nghiêng về Thiện căn và tu Tâm. Chữ Tâm này không thuần túy Phật hay nho, mà hòa trộn nho phật theo tư tưởng Minh nho.

Cho đến nay việc cô Kiều bỏ đàn vẫn hơi khó hiểu. Tài đàn là một trong những cái tài của nhân vật. Bài đàn của Kiều đã bày tỏ tình thương đối với bao nhiêu nữ nhi bạc mệnh thì sao lại bỏ đi? Trong bản đàn tái hợp Nguyễn Du đã gửi vào đó biết bao khát khao tình yêu, tình dục đằm thắm thì sao lại bỏ? Có phải cây đàn và tiếng đàn gây nên tai họa cho Kiều đâu? Vậy đây vẫn là chi tiết khó hiểu của truyện.

Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2019

.

Không ít người cho rằng đoạn Kim Kiều tái hợp là gượng gạo. Cũng có ý kiến cho rằng cứ để Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường xong thì cũng là kết thúc Truyện Kiều ở đấy, chẳng cần phải viết thêm những đoạn về sau.

Theo tôi, các nhân vật sống hay chết không phải hoàn toàn do tác giả cầm quyền sinh sát ở tay, mà do sức nội tại, thế nội tại của nhân vật và sự việc, do tương quan và mâu thuẫn trong xã hội v.v. Mặt khác, cũng không nên coi thường cái nguyện vọng chính đáng của đại chúng muốn thấy công được thưởng, tội bị trừng; người hiền, người tốt cuối cùng thắng bọn xấu, bọn ác, dù là dưới chế độ phong kiến.

Cái gượng gạo, theo tôi, nó nằm chính cống keo đặc lại ở đoạn này:

Một nhà phúc lộc gồm hai, Nghìn năm dằng dặc, quan giai lần lần. Thừa gia chẳng hết nàng Vân, Một cây cù mộc, một sân quế hòe. Phong lưu phú quý ai bì,

Vườn xuân một cửa, để bia muôn đời.

Đây là cái văn của đối liễn chúc tụng nhau, sáo một trăm phần trăm. Tôi thiết nghĩ Nguyễn Du chẳng lý thú gì khi viết những câu này. Nguyễn Du là người đã viết:

Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo túi cơm sá gì!

là người đã viết:

Áo xiêm ràng buộc lẫn nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi!

Nguyễn Du đã từng khinh bỉ Tô Tần đâm dùi vào vế để cố học, là cốt mưu quyền lợi riêng; Nguyễn Du chẳng phải quý trọng gì cái thứ làm quan “phúc lộc thọ”, cái thứ nghìn năm dằng dặc vinh hoa, cái thứ tuần tự nhi tiến, bước lên từng bậc một từ quan bé lên quan lớn, một cây cù mộc, con cái đề huề, “phong lưu phú quý ai bì”, thật là một thứ thỏa mãn rất “buốc – gioa” (tư sản) ở trong xã hội phong kiến. Dường như cây bút của Nguyễn Du đến đó cái thế chẳng lẽ lại không viết như vậy, là vì gia đình nhà Kim Trọng đáng vui sướng kia mà! Nhưng viết lấy lệ, theo thói tục thông thường trong giai cấp phong kiến ước mong cho mình và chúc tụng cho nhau. Đúng đấy, gượng gạo.

Mặt khác, cái việc Thúy Kiều tái ngộ Kim Trọng rồi thực chất ở vậy làm bạn cầm cờ của Kim Trọng, việc ấy nếu không phải là gượng gạo thì cũng bất ổn, thì cũng chẳng phải là tự nhiên. Nhưng ta thử nghĩ xem: Tác giả còn có cách nào khác?

Tác giả (thực tế là Thanh Tâm tài nhân và Nguyễn Du) đã không để cho Kiều chết ở sông Tiền Đường, chết như vậy thì toàn thể người đọc trong xã hội về trước ở Trung Quốc và Việt Nam không chấp nhận – Kiều phải cần sống, mà đã phải sống thì phải gặp lại cha mẹ, chàng Kim và hai em. Gặp lại Kim Trọng thì thế nào?Chỗ này chúng ta phải khen Thanh Tâm tài nhân đã giải quyết như ta thấy trong cốt truyện mà Nguyễn Du dùng: “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ”.

Nhưng ta lại phải muôn vàn khen Nguyễn Du: trên cốt nguyên truyện, Nguyễn Du đã sáng tạo thêm rất lớn, đã làm thành bản cáo trạng cuối cùng của Truyện Kiều, nằm ngay trong lúc vui vẻ nhất, Kim Kiều tái hợp. Nguyễn Du không bằng lòng nói vài nét như Thanh Tâm tài nhân, mà mỗi đoạn, Nguyễn Du đem trái tim nghệ sĩ lớn, đau đớn xót xa da diết, mỗi lời là mỗi thương yêu Thúy Kiều, thương yêu số phận con người trong Thúy Kiều.

Thanh Tâm tài nhân:

“Vương ông liền bảo người gọi kiệu đến, để đưa Thúy Kiều về nhà trọ. Vương bà nói: – Hãy khoan! Con nó mặc toàn đồ nhà chùa, sợ làm cho người ta ngờ vực. – Liền bảo Thúy Vân đưa áo quần mang theo cho Thúy Kiều thay”. Chỗ này, Nguyễn Du viết cũng tương tự như thế: Vương ông dạy rước cùng về một nơi.

Thanh Tâm tài nhân:

“Nhưng Thúy Kiều vội từ chối nói:
– Thưa cha mẹ. Con trải nhiều cảnh khổ, ngày nay được gặp cha mẹ, đã là may mắn muôn phần, nhưng thân này bây giờ là người ngoài vòng thế tục, chỉ nên theo hầu sư huynh ở đây tu hành là đủ”.

Trái tim Nguyễn Du không bằng lòng chỉ có chừng ấy, mà mỗi ý run bần bật lên, trong mỗi lời là có mười lăm năm đau khổ; trong cả chương Kim Kiều tái hợp, trong lời, ngoài lời, đâu đâu cũng có cái khối đau đớn mười lăm năm ấy:

Nàng rằng: “Chút phận hoa rơi, Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay. Tính rằng mặt nước chân mây, Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? Được rày tái thế tương phùng,

Khát khao đã thỏa tấm lòng bấy nay.

Nguyên truyện chỉ nói: “Thân này bây giờ đã là người ngoài vòng thế tục” mà Nguyễn Du nói (tiếp theo):

Đã đem mình bỏ am mây, Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa, Mùi thiền đã bén muối dưa, Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng. Sự đời đã tắt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! Dở dang nào có hay gì?

Đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi…”

Rõ ràng là Nguyễn Du không những đã để trái tim mình vào trong nhân vật, mà Nguyễn Du chính là nhân vật; Nguyễn Du tự nói nỗi đau khổ, nỗi giày vò của mình qua Thúy Kiều, thì mới có một giọng thơ như thế. Tản Đà viết: “Cũng vì văn chương bởi tâm sự như thế, cho nên như có một sức thiêng liêng khiến cho người ta dễ cảm động, ấy quyển Kiều mà hay, chỗ gốc thực ở đó, mà văn tài của tác giả lại là phần thứ hai”.

Tản Đà để văn tài xuống thứ hai để chữ tâm lên thứ nhất, là chí lý; đó cũng là một chỗ sâu sắc của Tản Đà. Ngay lời đầu tiên khi gặp nhau như chết sống lại, Kiều đã cho thấy rằng đời mình tan nát, lòng mình tan nát, bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện Kiều bắt đầu. Đã tu – tu trót – qua thì – thì thôi.

Nguyễn Du đã sử dụng triệt để cuộc đoàn viên để tính sổ một lần cuối cùng. Bản cáo trạng bất ngờ thật ra nằm rõ mồn một trong chương đoàn viên này! Tại ta đọc nhiều lần mà vẫn vô ý, nên không thấy hết. Nguyễn Du không đọc cáo trạng bằng thuyết lý, bình luận, mà đưa ra một cáo trạng bằng xương thịt, bằng máu của tâm hồn: Đây là nạn nhân còn sống sót của mười lăm năm chúng bay!

Trong tiệc hoa đoàn viên vui vầy, Thúy Vân uống chén rượu tàng tàng dở say, đứng lên đặt vấn đề Thúy Kiều nên thành hôn với Kim Trọng… “Bây giờ gương vỡ lại lành”… Lời lẽ Thúy Vân dừng lại ở hai câu của Nguyễn Du:

“…Quả mai ba, bảy đang vừa,
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì ”.
“Quả mai ba, bảy” là lấy ý trong thơ "Kinh Thi" nói quả mơ ở trên cành còn bảy quả, ba quả, là tiết cuối xuân, tuy là kỳ hôn giá có muộn, mà lấy nhau cũng vừa.Tài tình thật đi chứ! Nguyễn Du rút Thúy Kiều từ trong trái tim mình ra, không yêu mến sao được! Kiều ba mươi tuổi vẫn là “đào non”, sau đây, Nguyễn Du mới giải thích bởi vì: “Hoa tàn mà lại thêm tươi – Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”.

Kiều tưởng rời nơi tu hành về nhà là về nhà, không ngờ cuộc đời lại đòi hỏi nàng một mức nữa, qua lời Thúy Vân. Ôi cái con em gái “khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” kia, mày phúc hậu lắm, mày đâu có biết ý tứ gì. Sao em đã khêu vết thương tưởng đã lành của chị:

Dứt lời nàng vội gạt đi :

“Sự muộn năm cũ, kể chi bây giờ? Một lời tuy có ước xưa, Xét mình dãi gió dầm mưa đã nhiều. Nói càng hổ thẹn trăm chiều,

Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!”

Nhưng Thúy Kiều có gạt đi cũng không được nữa. Kim Trọng đã bắt lấy lời Thúy Vân. Theo tôi, tất cả cái giá trị của Kim Trọng là lời nói chí tình ở phía sau, mà tôi dẫn trước lên đây:

Bấy lâu đáy biển mò kim,
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa!

Bấy lâu anh lặn lội tìm em, là vì yêu em, nhớ em, chứ đâu có phải vì… chuyện ấy: Chàng rằng: “Nói cũng lạ đời Dẫu lòng kia vậy, còn lời ấy sao? (…)

Duyên kia, có phụ chi tình.
Mà toan chia gánh chung tình làm hai?”

Kim Trọng không biết nói gì hơn là nhắc lại lời thề, sống chết với lời thề ấy và dùng cách trách yêu.

Kiều bấy giờ mới nói đến cái thân thể của mình, trong đó có cái thân của mình rất là quan trọng. Nguyễn Du cho Kiều nói đến chữ “Trinh”, đặng sau đó mượn lời Kim Trọng nói đến một điều làm hả dạ hả lòng người đọc, chiêu tuyết cho Kiều:

Như nàng lấy Hiếu làm Trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay!

Trong lời nói của Kiều là gì, nếu không phải là bản cáo trạng xã hội, do chính nạn nhân lập nên? Trong quyển truyện, đã bao lần Kiều trách phận thương thân, ví dụ khi phải làm đĩ lần thứ nhất: “Mặt sao dày gió dạn sương – Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”; nhưng đến đây, nhớ lại cả mười lăm năm luân lạc, Kiều như đã nát hết cả tấm thân; lúc tái hợp này rõ ràng là khi Nguyễn Du uất ức lên cao độ nhất.

…Thiếp từ ngộ biến đến giờ, Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa; Bấy chầy gió táp mưa sa! Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn! Còn chi là cái hồng nhan?

Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?”


Ta thử đọc lại đoạn này mà vận vào thân, xem thử có tủi nhục đến tận trong xương thịt mình hay không? – giày vò đến thế thì đến bao nhiêu thân cũng phải nát, huống chi là một cái thân em! “Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?”. Câu thơ hành văn bỏ lửng: “Cái thân thế của em đã xong hay chưa, còn muốn gì nữa hở anh?” – Nỗi ê chề tủi cực theo mạch văn còn tiếp:

“Nghĩ mình, chẳng hổ mình sao? Dám đem trần cấu dự vào bố kinh! Đã hay chàng nặng vì tình, Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru! Từ rày khép cửa phòng thu Chẳng tu thì cũng như tu mới là! Chàng dù nghĩ đến tình xa, Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ. Nói chi kết tóc xe tơ,

Đã buồn cả ruột, mà dơ cả đời!”

Kiều lại nhắc lại sự đi tu, vì nạn nhân ê chề quá; sự từ chối ở hai câu cuối vẫn là cái giọng tố cáo của một nạn nhân.

Tác giả, trong lời Kiều, đã mượn hình tượng “hoa thơm phong nhị, trăng vòng tròn gương”, “mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn”, dùng lời Kim, tác giả cãi lại: “Tan sương đầu ngõ” để thấy hoa, “vén mây giữa trời” để tỏ trăng, và “Hoa tàn mà lại… trăng tàn mà lại” (trên tôi đã dẫn). Đó chẳng qua là một bút pháp thông thường.

Như ta đã biết, Kim Trọng lập luận rằng không nên cố chấp trong việc hiểu chữ “Trinh”, đáp lại Kiều lần thứ hai này, Kim Trọng cũng lại kết ý bằng cách trách yêu, nhưng lần này tiêu hao hơn, tự tủi thân là một người bị ruồng bỏ (như Tiêu lang mất vợ): Còn điều chi nữa mà ngờ
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu?