Biệt được những nét chính về cải cách kinh tế, văn hoá của Hồ Quý Ly

Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly

Mục a, b

Ngay từ khi còn là một đại thần, đặc biệt sau khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly đã thực hiện những cải cách trên nhiều lĩnh vực.

a] Về chính trị:

- Cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế dần các võ quan cao cấp do quý tộc tôn thất nhà Trần nắm giữ bằng những người không phảihọ Trần nhưng có tài năng và thân cận với mình.

- Hồ Quý Ly cho đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn và quy định cụ thể, rõ ràng cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp.

- Đặt lệ cử các quan ở triều đình về các lộ thăm hỏi đời sống nhân dân và tìm hiểu tình hình làm việc của quan lại để thăng hay giáng chức.

b] Về kinh tế tài chính:

- Phát hành tiền giấy thay thế tiền đồng.

- Ban hành chính sách hạn điền.

- Quy định lại biểu thuế đinh, thuế ruộng.

Mục c, d, e

c] Về xã hội:

- Ban hành chính sách hạn chế số nô tì được nuôi của các vương hầu, quý tộc, quan lại.

- Những năm có nạn đói, nhà Hồ lệnh cho các quan địa phương đi khám xét, bắt nhà giàu thừa thóc phải bán cho dân đói và tổ chức nơi chữa bệnh cho dân.

d] Về văn hoá, giáo dục:

- Bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục.

- Cho dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy cho vua Trần và phi tần, cung nữ.

- Sửa đổi cả chế độ thi cử, học tập.

e] Về quân sự:thực hiện một số biện pháp nhằm tăng cường củng cố quân sự và quốc phòng.

ND chính

Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly trên các mặt: chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, quân sự,...

Sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duy Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly

Loigiaihay.com

  • Nhà Hồ thực hiện chính sách hạn điền, hạn nô để làm gì?

    Nhà Hồ thực hiện chính sách hạn điền, hạn nô để làm gì?

  • Em có nhận xét gì về chính sách quân sự, quốc phòng của Hồ Quý Ly?

    Em có nhận xét gì về chính sách quân sự, quốc phòng của Hồ Quý Ly?

  • Ý nghĩa, tác dụng cải cách của Hồ Quý Ly

    Tóm tắt mục 3. Ý nghĩa, tác dụng cải cách của Hồ Quý Ly

  • Nhà Hồ thành lập [1400]

    Tóm tắt mục 1. Nhà Hồ thành lập [1400]

  • Nhà Hồ được thành lập trong hoàn cảnh nào?

    Nhà Hồ được thành lập trong hoàn cảnh nào?

  • Em hãy nhận xét về những biện pháp của nhà nước Lê sơ đối với nông nghiệp.

    Em hãy nhận xét về những biện pháp của nhà nước Lê sơ đối với nông nghiệp.

  • Hãy trình bày những nét chính về tình hình kinh tế thời Lê sơ

    Kinh tế thời Lê Sơ.

  • Tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê Sơ

    Tóm tắt mục 1. Tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê Sơ

  • Luật pháp thời Lê sơ có điểm gì giống và khác thời Lý - Trần?

    - Giống nhau là về bản chất mang tính giai cấp và đẳng cấp. Mục đích chủ yếu để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị,

Hãy nêu những mặt tiến bộ và hạn chế của cải cách Hồ Quý Ly.

Đề bài

Hãy nêu những mặt tiến bộ và hạn chế của cải cách Hồ Quý Ly.

Video hướng dẫn giải

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào sgk trang 80 để đánh giá, nhận xét.

Lời giải chi tiết

* Tiến bộ:

- Đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.

- Góp phần hạn chế tệ tập trung ruộng đất của giai cấp quý tộc, địa chủ, làm suy yếu thế lực của quý tộc tôn thất nhà Trần, tăng nguồn thu nhập của nhà nước và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.

- Những cải cách về văn hoá, giáo dục có nhiều tiến bộ.

* Hạn chế:

- Một số chính sách chưa triệt để: gia nô, nô tì chưa được giải phóng thân phận, chưa phù hợp với tình hình thực tế của đất nước.

- Chưa giải quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống đông đảo nhân dân.

Loigiaihay.com

  • Em có nhận xét, đánh giá như thế nào về nhân vật Hồ Quý Ly?

    Hạn chế và sai lầm lớn nhất của ông là để đất nước rơi vào ách đô hộ của nhà Minh do đường lối kháng chiến sai lầm và cũng do những hạn chế trong cuộc cải cách của ông.

  • Em hãy trình bày tóm tắt cuộc cải cách của Hồ Quý Ly

    Từ đó, hiểu và nêu lên nhận xét về những cải cách của Hồ Quý Ly khá toàn diện, được thực hiện trong thời gian trước và sau khi nhà Hồ thành lập.

  • Sự bùng nổ các cuộc khởi nghĩa nông dân, nô tì ở nửa sau thế kỉ XIV nói lên điều gì? Tại sao ?

    Nhà Trần không còn khả năng đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng, cần phải thay thế bằng một vương triều mới.

  • Em có nhận xét gì về vương triều Trần ở nửa cuối thế kỉ XIV ?

    Nhận xét về Vương triều Trần ở nửa cuối thế kỉ XIV

  • Em hãy trình bày tóm tắt tình hình kinh tế - xã hội nước ta ở nửa sau thế kỉ XIV.

    - Từ nửa sau thế kỉ XIV, nhà nước không còn quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, đẽ điểu. Các công trình thuỷ lợi không còn được nhà nước chăm lo, tu sửa, nhiều năm xảy ra mất mùa. Nông dân phải bán ruộng, thậm chí cả vợ con cho quý tộc và địa chủ.

  • Em hãy nhận xét về những biện pháp của nhà nước Lê sơ đối với nông nghiệp.

    Em hãy nhận xét về những biện pháp của nhà nước Lê sơ đối với nông nghiệp.

  • Hãy trình bày những nét chính về tình hình kinh tế thời Lê sơ

    Kinh tế thời Lê Sơ.

  • Tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê Sơ

    Tóm tắt mục 1. Tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê Sơ

  • Luật pháp thời Lê sơ có điểm gì giống và khác thời Lý - Trần?

    - Giống nhau là về bản chất mang tính giai cấp và đẳng cấp. Mục đích chủ yếu để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị,

Mục lục

Nguồn gốc và giáo dụcSửa đổi

Hồ Quý Ly trước có tên là Lê Quý Ly [黎季犛], biểu tự Lý Nguyên [理元]. Ông sinh năm Bính Tý [1336], quê ở Đại Lại, Vĩnh Lộc [nay là Hà Đông, Hà Trung, Thanh Hóa]. Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Chiết Giang bên Trung Quốc, thời Hậu Hán [947-950] sang sinh sống ở Châu Diễn [tức vùng Diễn Châu, Nghệ An]. Đến thời loạn 12 sứ quân họ Hồ dời vào hương Bào Đột [nay là Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An] và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy Nguyệt Đích Công chúa, sinh ra Nguyệt Đoan Công chúa. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Huấn, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ.[1]

Theo sách Việt sử tiêu án: Quý Ly tìm kiếm được dòng máu họ Hồ, muốn trở lại họ cũ, bèn lấy tên Hồ Cương làm người tâm phúc.[2] Theo Minh thực lục, Lê Quý Ly xưa vốn là con của một cựu võ quan là Lê Quốc Mạo hoặc Lê Quốc Kỳ, sau khi cướp ngôi, Lê Quý Ly đổi tên thành Nhất Nguyên [一元].[3][4][5]

Hồ Quý Ly thuở nhỏ theo học võ Nguyễn Sư Tề, sau đỗ thi Hương, rồi đỗ khoa Hoành từ.[6] Hai chị em bà cô của Hồ Quý Ly đều làm cung nhân của Trần Minh Tông; bà Minh Từ Hoàng thái phi sinh ra Trần Nghệ Tông; bà Đôn Từ Hoàng thái phi sinh ra Trần Duệ Tông. Do đó, Trần Nghệ Tông mới lên ngôi rất tín nhiệm Quý Ly, lại đem em gái mới góa chồng là Huy Ninh công chúa gả cho.[7]

Quan viên nhà TrầnSửa đổi

Triều đại Trần Nghệ TôngSửa đổi

Năm 1369, vua Trần Dụ Tông mất, do không có con, ra chiếu cho người con của cố Cung Túc Đại vương Trần Dục tên Nhật Lễ lên ngôi. Nhật Lễ vốn là con của người làm trò trong hoàng cung tên Dương Khương. Vợ Dương Khương làm con hát trong cung, đương khi mang thai Nhật Lễ thì Trần Dục lấy làm thích, cưới về làm vợ, nhận Nhật Lễ làm con. Nhật Lễ lên ngôi, chỉ lo rượu chè dâm dật, hát xướng, tôn thất nhà Trần và các quan đều thất vọng. Năm 1370, người con thứ ba của vua Trần Minh Tông liên kết với các tôn thất và các quan làm binh biến, các tướng đem quân hàng, rốt cuộc bắt được Nhật Lễ, lên làm vua, tức Trần Nghệ Tông.[8]

Do là anh em bên ngoại nên Hồ Quý Ly được vua Nghệ Tông tín nhiệm. Năm 1371, Quý Ly được làm Khu mật viện đại sứ và được vua gả em gái vừa góa chồng là công chúa Huy Ninh cho. Thời bây giờ, nước Chăm do Chế Bồng Nga làm vua cường thịnh, thường đem binh đánh cướp Đại Việt. Năm 1371, quân Chiêm đánh vào tận kinh đô, cướp bóc, đốt phá, nhà vua phải lánh sang Đông Ngàn tránh.[9] Tháng 8 năm 1371, vua Nghệ Tông sai Quý Ly đi tới Nghệ An để chiêu tập dân chúng, vỗ về biên giới, đến tháng 9, gia phong làm Trung Tuyên Quốc thượng hầu.

Triều đại Trần Duệ TôngSửa đổi

Tháng 11 năm 1372, Trần Nghệ Tông xuống chiếu nhường ngôi cho em là Trần Kính, tức là Trần Duệ Tông, còn bản thân lên làm Thái thượng hoàng. Trần Duệ Tông là con của Đôn Từ Thái phi, cũng là cô của Lê Quý Ly. Trần Duệ Tông lấy Lê Quý Ly làm Tham mưu quân sự.[10] Năm 1376, vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại mang quân xâm lấn. Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đi đánh. Chế Bồng Nga sợ hãi, xin dâng 10 mâm vàng tạ tội. Tử Bình giấu vàng đi, lại tâu về triều rằng vua Chiêm kiêu ngạo không thần phục. Duệ Tông quyết định thân chinh đi đánh. Tháng 12 năm 1376, Duệ Tông cầm 12 vạn quân đánh Chiêm Thành.[11] Tháng giêng năm 1377, quân Đại Việt tiến vào cửa Thi Nại [Quy Nhơn], đánh lấy đồn Thạch Kiều rồi tiến tới kinh thành Đồ Bàn nước Chiêm. Quân Việt bị quân Chiêm phục kích, Duệ Tông tử trận. Lê Quý Ly bấy giờ đang đốc thúc quân tải lương, được tin Duệ Tông tử trận, sợ hãi, bỏ chạy về trước.[12]

Triều đại Trần Phế ĐếSửa đổi

Năm 1377, Trần Nghệ Tông thấy Duệ Tông tử trận, nên chiêu hồn chôn ở Hy Lăng và cho lập con trưởng của Duệ Tông là Kiến Đức Đại vương Trần Hiện 16 tuổi lên làm vua, tức là Trần Phế Đế, tôn hiệu Giản Hoàng.[12][13] Theo nhận xét của sử quan Ngô Sĩ Liên: vua u mê, nhu nhược, không làm nổi việc gì, uy quyền càng về tay kẻ dưới, xã tắc lung lay.

Sau khi đánh bại Trần Duệ Tông, vua Chăm Pa Chế Bồng Nga biết binh lực nhà Trần suy nhược nên liên tục phát thủy binh Bắc tiến. Trong vòng chỉ hai năm [1377–1378], quân Chăm Pa tiến công hai lần bằng đường biển, hai lần đều vào được thành Thăng Long giết người cướp của rồi rút về.

Năm 1379, Hồ Quý Ly được vua lấy làm Tiểu tư không kiêm Hành khu mật đại sứ như cũ. Hồ Quý Ly tiến cử con của thầy học mình là Nguyễn Đa Phương làm tướng quân, Phạm Cự Luận làm quyền đô sự. Người đương thời cho rằng Hồ Quý Ly có phương viên tá lự, tức có người giúp mưu tính kế vuông tròn.[14]

Đầu năm 1380, vua Chăm Pa phát quân đánh vào Thanh Hóa, Nghệ An. Tháng 3 năm đó, Lê Quý Ly được lệnh thống lĩnh quân thủy, Đỗ Tử Bình chỉ huy quân bộ đi vào Thanh Hóa để chống giữ. Quý Ly đem quân đến sông Ngu [nay là sông Lạch Trường ở huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa], ra lệnh cho binh sĩ đóc cọc gỗ ở giữa lòng sông.[15] Tháng 5 cùng năm, Quý Ly dẫn viên tướng chỉ huy quân Thần Vũ là Nguyễn Kim Ngao và tướng chỉ huy quân Thị vệ là Đỗ Dã Kha ra đánh. Kim Ngao quay thuyền trở lại để tránh mũi nhọn của giặc. Quý Ly chém Ngao để thị uy trước ba quân, rồi ra lệnh quân sĩ nổi trống hò reo mà tiến. Vua Chiêm Chế Bồng Nga chống cự không được, phải rút chạy về nam. Kể từ đó Đỗ Tử Bình cáo ốm, không giữ binh quyền nữa. Chỉ có Quý Ly giữ chức Nguyên Nhung hành Hải Tây Đô thống chế.[16]

Sang năm 1382, quân Chiêm lại Bắc tiến đánh vào Thanh Hóa. Lê Quý Ly đem quân đóng đồn ở núi Long Đại ở Thanh Hóa [tức núi Hàm Rồng], Nguyễn Đa Phương đóng cọc giữ cửa biển Thần Đầu. Quân Chiêm hai đường tiến đánh. Khi thủy quân Chiêm lại gần, Đa Phương không đợi lệnh Quý Ly, cho mở cọc cắm cừ, tiến ra giao chiến. Quân Chiêm trở tay không kịp, quân Đại Việt dùng hỏa khí ném vào làm thuyền Chiêm bị cháy đắm gần hết. Quân Chiêm thua to, phải bỏ chạy vào rừng núi. Quân Việt vây núi ba ngày, quân Chiêm nhiều người bị chết đói. Thủy quân Chiêm còn lại bỏ chạy về nước. Quân Việt đuổi theo đánh đến Nghệ An. Sau đó Nguyễn Đa Phương được thăng làm Kim Ngô vệ Đại tướng quân.[17]

Kể từ khi giành toàn thắng trong các trận sông Ngu và cửa Thần Đầu, quân thế Đại Việt đã tốt hơn nhiều. Do vậy, tháng 1 năm 1383, Trần Nghệ Tông ra lệnh cho Lê Quý Ly đem quân vào đến Lại Bộ Nương Loan [ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh ngày nay] nhưng gặp phải bão đánh nát mất nhiều thuyền chiến, vì vậy lại phải rút quân về. Sang tháng 6, Chế Bồng Nga cùng với đại tướng La Khải đem quân đi đường núi ra đóng ở đất Quảng Oai [nay thuộc Ba Vì, Hà Nội]. Trần Nghệ Tông sai tướng Mật Ôn đi đánh, nhưng bị quân Chiêm bắt. Nghệ Tông sợ hãi, chạy khỏi Thăng Long, người học trò Nguyễn Mộng Hoa mặc nguyên quần áo lội xuống nước cản Thượng hoàng hãy ở lại chống quân Chăm Pa nhưng Nghệ Tông không nghe. Nguyễn Đa Phương ngày đêm đốc suất quân sĩ dựng rào chắn bảo vệ kinh thành, tháng 12 quân Chiêm dẫn quân về.[18]

Năm 1384, nhà Minh đánh vùng Vân Nam, sai người sang Đại Việt đòi lương thực cấp cho quân lính ở Lâm An. Nhà Trần đồng ý cấp lương thực, các quan sai đi nhiều người nhiễm bệnh mà chết. Đến năm 1385, 1386, nhà Minh lại đòi cấp tăng nhân, các giống hoa quả, lại sai bọn Cẩm Y vệ sang mượn đường đánh Chiêm Thành, đòi 50 con voi.[19] Quan Tư đồ, Chương túc Quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán xin về trí sĩ ở Côn Sơn, đem con là Mộng Dữ gửi gắm cho Quý Ly. Quý Ly đem công chúa Hoàng Trung gả cho Mộng Dữ. Lúc này Hồ Quý Ly nắm quyền hành lớn, các tôn thất và quan lại tỏ ra lo lắng. Năm 1387, Hồ Quý Ly được thăng làm Đồng bình chương sự, Thượng hoàng ban cho một thanh gươm, một lá cờ đề tám chữ Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức, Quý Ly làm một bài thơ cảm tạ.

Phế Đế mưu trừ bỏ Quý LySửa đổi

Thượng hoàng Trần Nghệ Tông tuy nắm giữ đại quyền, nhưng việc gì cũng do Quý Ly quyết định. Quý Ly tìm cách phát triển thế lực riêng, nhưng Nghệ Tông vẫn không hề nghi ngại. Lúc đó, lòng các quan lại, tôn thất phần nhiều đã chán nản, rã rời, nhiều người biết trước Hồ Quý Ly sẽ cướp ngôi nhà Trần như Trần Nguyên Đán liền kết thông gia với họ Hồ, mong được phú quý và toàn mạng sau này.[20] Tuy nhiên, Nghệ Tông hết lòng tin rằng Quý Ly vẫn trung thành với triều Trần, nên trao cho ông gươm và một lá cờ có đề "Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức".[21]

Bấy giờ, Hoàng đế thấy Thượng hoàng quá tin dùng Quý Ly, mới bàn với Thái úy Trang Định vương Trần Ngạc [là con trưởng của Thượng hoàng] rằng nếu không trừ đi ắt thành vạ to. Không ngờ rằng, người hầu vua học là Vũ Như Mai biết được chuyện này, liền báo cho Quý Ly biết trước. Nguyễn Đa Phương khuyên Quý Ly nên tránh ra núi Đại Lại [ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa ngày nay] để chờ đợi biến động. Trong khi đó, Phạm Cự Luận lại can rằng:[21][22]

"Không được, một khi đã ra ngoài thì khó lo chuyện sống còn".

Quý Ly nói:

"Nếu không còn phương sách gì thì ta đành tự tử, không để tay kẻ khác giết mình".

Cự Luận nói:

"Thượng hoàng trong lòng vẫn căm vua về việc giết Quan phục Đại vương [Trần Húc], vua rất không hài lòng. Nay quyền bính trong thiên hạ đều ở đại nhân cả mà vua lại mưu hại ngài thì Thượng hoàng lại càng ngờ lắm. Đại nhân hãy liều vào lạy Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại, thì nhất định Thượng hoàng sẽ nghe theo ngài, chuyển họa thành phúc, dễ như trở bàn tay. Thượng hoàng có nhiều con chính đích, ngài cứ tâu rằng thần nghe ngạn ngữ nói "Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con" may ra Thượng hoàng tỉnh ngộ mà đổi lập Chiêu Định vương [Trần Thuận Tông]. Nếu Thượng hoàng không nghe thì chết cũng chưa muộn".

Quý Ly nghe vậy, bèn bí mật vào yết kiến Thượng hoàng rồi cứ y tâu như lời Cự Luận.[23] Thượng hoàng nghe vậy, bèn giả vờ vi hành về Yên Sinh, rồi sai người gọi Đế hiển đến bàn việc nước. Đế hiển đến, lập tức bị bắt rồi bị giam vào chùa Tư Phúc. Các tướng chỉ huy các phủ quân cũ như tướng chỉ huy quân Thiết Liêm là Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, tướng chỉ huy quân Thiết Giáp là Nguyễn Kha, Lê Lặc, tướng chỉ huy quân Thiết Sang là Nguyễn Bát Sách định đem quân vào cướp lấy vua đem ra. Đế hiển viết hai chữ "Giải giáp" đưa cho các tướng và răn bảo họ không được trái ý Thượng hoàng, các tướng mới thôi. Lát sau, Nghệ Tông đưa vua xuống phủ Thái Dương và cho thắt cổ cho chết. Bấy giờ Lê Á Phu cùng các tướng Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Nguyễn Bát Sách và người học trò Lưu Thường vì cùng mưu với Đế hiển nên đều bị giết cả; chỉ có Nhập nội Hành khiển tả ty Lê Dữ Nghị là bị đày ra Trại Đầu. Về sự việc này, sử gia Ngô Sĩ Liên trong tác phẩm Đại Việt sử ký toàn thư có nói rằng:[24]

Khi ấy khí thế của họ Hồ đang mạnh, mọi người đều biết là nó sẽ cướp ngôi, Trang Định vương Ngạc là Thái úy, lại là con của Nghệ hoàng, thấy xã tắc sắp nghiêng đổ, nếu biết hướng vua làm điều phải, gây niềm tin ở vua cha, hiệu lệnh nghiêm ngặt, để nhiều người theo về mình, khiến cho Nghệ Tông già lẫn phải tỉnh lại. Giản hoàng nhút nhát phải tự lập, quyền bính về tay hết, mệnh lệnh ban từ trên, thì lòng gian của họ Hồ cũng phải tự ngừng lại. Trang Định không mưu tính đến việc đó, Á Phu không lường được vu mình chẳng có tài cương đoán, lại khuyên vua giết Quý Ly, mà cơ mưu không cẩn mật, để cho nó biết trước. Trang Định lại không sớm quyết đoán, bỏ lỡ cơ hội, đến nỗi công việc thất bại, thân mình bị giết, lại giết lây cả đến những quân tướng tài giỏi, thực đáng than thở biết bao! Có người hỏi: Họ Hồ trên được vua tin, dưới nắm binh quyền, dẫu đến Nguyên Đán là người có kiến thức, lại lão luyện sự đời còn không làm gì được, huống chi là Trang Định! Xin thưa: Cứ xem nói trong lòng lo sợ mà định tự tử, thì việc chế ngự Quý Ly cũng dễ thôi! Trước hết hãy trừ bọn Đa Phương, Cự Luận để chặt vây cánh của nó đi, thì thế nó phải cô ngay.

Theo Minh thực lục, khoảng cuối tháng 12 năm 1388, Lê Nhất Nguyên [黎一元] giết vua Trần Vĩ [tức Trần Phế Đế] rồi chôn ở phường Đại Dương ngoại thành Thăng Long. Lê Nhất Nguyên sau đó lập Trần Nhật Hỗn [tức Trần Thuận Tông], con Trần Thúc Minh [tức Trần Nghệ Tông] [陳叔明] lên thay.[3]

Triều đại Trần Thuận TôngSửa đổi

Vua Trần Phế Đế bị buộc cổ cho chết, Trần Nghệ Tông lập người con út là Chiêu Định vương Ngung làm hoàng đế, tức vua Trần Thuận Tông, vào năm 1388, đổi niên hiệu là Quang Thái, đại xá, tự xưng là Nguyên Hoàng. Một năm sau, vua lập con gái lớn của Quý Ly làm Hoàng hậu. Cùng năm đó, Hồ Quý Ly lấy người tâm phúc của mình là Phạm Cự Luận làm Thiêm thư Khu mật viện sự, Cự Luận tiến cử cho Quý Ly người em là Phạm Phiếm cùng Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử Tây, Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư, Nguyễn Cảnh Thân và Đỗ Tử Mãn, đều là người tài giỏi.[25]

Tháng 10 năm 1389, Chế Bồng Nga lại đánh lên Thanh Hóa, tiến vào hương Cổ Vô. Nghệ Tông lại sai Lê Quý Ly dẫn quân chống cự. Quân Chiêm đắp ngăn sông Bản Nha ở thượng lưu, quân Đại Việt đóng cọc dày đặc đối địch, giữ nhau 20 ngày. Quân Chiêm đặt sẵn quân và voi, giả vờ bỏ doanh trại rút về. Hồ Quý Ly chọn những quân tinh nhuệ, dũng cảm làm quân cảm tử truy kích quân Chiêm. Thủy quân Đại Việt nhổ cọc ra đánh, quân Chiêm phá đập nước, tung voi trận xông ra. Quân tinh nhuệ đã đi xa, quân thủy bị ngược dòng không tiến lên được. Kết quả quân Đại Việt bị thua to, hàng trăm tướng tử trận. Quý Ly để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về Thăng Long xin thêm chiến thuyền để chống cự. Trần Nghệ Tông không cho, vì thế ông giao trả binh quyền, không đi đánh nữa. Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương chống giữ ở Ngu Giang, biết mình thế yếu, bèn dùng kế giương nhiều cờ xí, buộc thuyền lớn vào cọc, sai người canh giữ, đang đêm dong thuyền nhẹ rút lui.[25] Về việc này, Việt sử tiêu án có ghi rằng:

Việc này Quý Ly trốn trước, Đa Phương trốn theo, thế mà còn cho rằng: toán quân đi giữ gìn sau cùng, là công của mình, có vẻ khoe khoang, thế là những người thua bỏ chạy 50 bước cười người chạy 100 bước, lại không xấu hổ với quân lính buộc thuyền giữ cây gỗ đó hay sao? Còn tài cán gì mà khoe khoang.[26]

Quân Chiêm không dám đuổi theo. Quân Đại Việt rút lui trọn vẹn không bị tổn thất. Trở về kinh thành, Nguyễn Đa Phương cậy công lớn có ý lên mặt, công khai chê Quý Ly là bất tài. Quý Ly căm tức, nói với Nghệ Tông rằng trận thua này là do nghe lời Đa Phương. Nghệ Tông nghe vậy bèn cách chức Đa Phương. Quý Ly lại bảo Nghệ Tông nên giết Phương vì sợ Phương đi hàng Chiêm, do đó Nghệ Tông bèn ép Phương tự vẫn.

Bấy giờ, quân nổi loạn khắp nơi, Nguyễn Thanh làm loạn ở Lương Giang, Phạm Sư Ôn nổi dậy ở Quốc Oai. Về việc này, Việt Nam sử lược ghi rằng:

Bấy giờ trong triều thì Lê Quý Ly chuyên quyền, chọn những chân tay cai quản các đội quân để làm vây cánh, ngoài các trấn thì giặc giã nổi lên nhiều lắm. Ở Thanh Hóa có tên Nguyễn Thanh tự xưng là Linh Đức vương làm loạn ở Lương Giang; tên Nguyễn Kị tự xưng là Lỗ vương làm loạn ở Nông Cống. Ở Quốc Oai thì có người sư tên là Phạm Sư Ôn nổi lên đem quân về đánh Kinh sư. Thượng hoàng, Thuận Tông và triều đình phải bỏ chạy lên Bắc Giang. Phạm Sư Ôn lấy được Kinh sư, ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai. Bấy giờ có tướng quân là Hoàng Phụng Thế đóng ở Hoàng Giang để phòng giữ quân Chiêm Thành, nghe tin Sư Ôn phạm đất Kinh sư mới đem quân về đánh lẻn bắt được Sư Ôn và phá tan giặc ấy.

Lúc đó, quân Việt và quân Chiêm cầm cự nhau ở sông Hoàng giang [khúc sông Hồng ở Hà Nam]. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông sai Trần Khát Chân lúc đó đang nắm quân Long Tiệp đi chống quân Chiêm. Đến năm 1390, Chế Bồng Nga bị tướng Trần Khát Chân cho quân dùng súng bắn chết. Quan quân đánh đuổi tàn quân rồi cắt lấy đầu Chế Bồng Nga đem về dâng triều đình. Nghệ Tông thấy đầu Chế Bồng Nga, tự ví mình như Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ.[27]

Năm 1391, Lê Quý Ly đi tuần Hóa châu, xét duyệt quân ngũ, sai tướng coi quân Thánh Dực Hoàng Phụng Thế đánh quân Chiêm. Quân Chiêm mai phục, quân Thánh Dực tan vỡ, Phụng Thế đầu hàng, khi quân chạy về, Quý Ly sai chém 30 viên đội phó.[28]

Trước đây, khi Trần Nghệ Tông giết vua Trần Phế Đế, định lập Trần Ngạc làm vua, nhưng Quý Ly lại lừa Nghệ Tông khiến cho Nghệ Tông lập vua Thuận Tông. Ngạc có hiềm khích với Quý Ly, sợ bị giết, liền bỏ chạy ra Nam Định. Thượng hoàng Nghệ Tông sai tướng Nguyễn Nhân Liệt bắt về. Quý Ly ngầm ra lệnh Liệt giết Trần Ngạc, về sau Thượng hoàng tỉnh ngộ, hỏi ai ra lệnh giết Trần Ngạc, Nguyễn Nhân Liệt sợ nên thắt cổ chết.[29]

Đến năm 1392, tôn thất Trần Nhật Chương lập mưu giết Quý Ly, Thượng hoàng sai người giết Nhật Chương. Có người học trò Bùi Mộng Hoa dâng sớ có ý khuyên Thượng hoàng trừ Quý Ly, Thượng hoàng đem tờ tâu ấy cho Quý Ly xem, sau Quý Ly nắm đại quyền, Mộng Hoa lánh không ra nữa. Quý Ly dâng sách mình soạn, tên Minh đạo, gồm 14 thiên dâng lên, Quốc tử trợ giáo Đoàn Xuân Lôi cho là không đúng, bị đày đi xa.[30]

Dời đô về Thanh HóaSửa đổi

Cổng Nam Thành nhà Hồ, thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

Năm 1394, tháng 2, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ban bức tranh Tứ phụ cho Quý Ly. Trong tranh ấy vẽ Chu công giúp vua Chu Thành vương, Hoắc Quang giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Thục Hậu chủ, Tô Hiến Thành giúp vua Lý Cao Tông, gọi là tranh Tứ phụ, ý nói nên giúp vua Thuận Tông cũng nên như thế.[31]

Thượng hoàng ban đêm nằm mơ thấy Duệ Tông về đọc cho bài thơ, Thượng hoàng suy ngẫm về bài thơ, cho đó là điềm Quý Ly lấy mất ngôi vị nhà Trần, nhưng không thể làm gì được nữa. Tháng 4, Thượng hoàng Nghệ Tông gọi Quý Ly vào:

Bình chương[32] là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế nước suy yếu, trẫm thì già nua. Sau khi trẫm chết, quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua.

Quý Ly cởi mũ, khấu đầu khóc lóc mà thề rằng:

"Nếu hạ thần không hết lòng hết sức giúp nhà vua, thì trời tru đất diệt. Vả ngày trước Linh Đức vương [tức là Phế Đế] có lòng làm hại, nếu không có uy linh của bệ hạ, thì nay đã ngậm cười dưới đất, còn đâu ngày nay nữa mà mài thân nghiền cốt để báo đền vạn nhất! Vậy hạ thần đâu có ý gì khác, xin bệ hạ tỏ lòng ấy cho và đừng lo gì!"[31]

Tháng 12, năm 1394, Thượng hoàng Nghệ Tông băng hà. Năm sau, Lê Quý Ly lên làm Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung Vệ quốc Đại vương, đeo lân phù vàng. Ông cho người dịch thiên Vô Dật[33] ra chữ Nôm để dạy Thuận Tông và tự xưng là Phụ chính Cai giáo Hoàng đế. Vua cho Quý Ly ở bên hữu sảnh, đài gọi là Họa lư.[31]

Đến năm 1397, Quý Ly sai viên quan Đỗ Tỉnh đi xem đất và đo đạc động An Tôn phủ Thanh Hóa, ý muốn di chuyển kinh đô về Thanh Hóa. Phạm Cự Luận và Nguyễn Nhữ Thuyết can, Quý Ly không nghe. Quý Ly bỏ Nguyễn Nhữ Thuyết không dùng, điều mưu sĩ Phạm Cự Luận đi đánh quân phản loạn ở Tuyên Quang, người này bị thua trận chết. Như vậy khi đã nắm đại quyền, hai người tâm phúc, là tướng quân Nguyễn Đa Phương và mưu sĩ Phạm Cự Luận đều bị Lê Quý Ly trừ bỏ. Đến tháng 11, Quý Ly bức vua Thuận Tông dời kinh đô về Thanh Hóa, cung nhân Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm nói mật với vua rằng dời đô thế nào cũng bị cướp ngôi, Quý Ly cho giết cả.[34]

Theo Lê Quý Đôn, thể lệ của nhà Trần, dùng người trong tộc họ Trần làm Tể tướng, dẫu nắm công việc trong nước, cũng không được quyền cai quản quân đội, quyền bính trong nước do quan Hành khiển giữ. Vua Nghệ Tông phá lệ, không dùng người họ Trần, phong Hồ Quý Ly làm Bình chương Phụ chính, lại cai quản cả quân đội, khiến cho quyền Hồ Quý Ly to lớn, mới gây ra họa cướp ngôi.[35]

Ép Thuận Tông nhường ngôiSửa đổi

Năm 1398, Hồ Quý Ly bức vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử An, tức vua Trần Thiếu Đế; lúc ấy Thái tử mới có 3 tuổi. Còn mình tự xưng Khâm đức Hưng liệt Đại vương. Đến năm 1399 lại sai Xa kỵ vệ thượng tướng quân Phạm Khã Vĩnh giết vua Thuận Tông. Ít lâu sau, Thái bảo Trần Nguyên Hãng, Thượng tướng quân Trần Khát Chân cùng Phạm Khả Vĩnh lập mưu giết Quý Ly, sự việc không thành, những người đồng mưu gồm 370 người đều bị giết.[36]

Tháng 6, năm 1399, Quý Ly tự xưng làm Quốc tổ Chương hoàng, vào ở cung Nhân Thọ, điềm nhiên mặc áo vàng, ra vào hoàng cung theo lệ như Hoàng đế, dùng 12 cái lọng vàng. Con thứ là Hán Thương xưng là Nhiếp thái phó, ở bên hữu điện Hoàng Nguyên. Con cả là Nguyên Trừng làm Tư đồ. Bảng văn thì đề là Phụng Nhiếp chính Quốc tổ Chương hoàng, chỉ xưng là "dư" mà chưa dám xưng "trẫm".

Mục lục

Thành lậpSửa đổi

Nhà Hồ do Hồ Quý Ly, một đại quý tộc và đại thần nhà Trần thành lập. Từ năm 1371, Hồ Quý Ly, khi đó mang họ Lê, được tham gia triều chính nhà Trần, được vua Trần Dụ Tông cho làm Trưởng cục Chi hậu. Sau, vua Trần Nghệ Tông đưa ông lên làm Khu mật đại sứ, lại gả em gái là công chúa Huy Ninh.

Sau biến cố Dương Nhật Lễ, cái chết của Trần Duệ Tông và sự cướp phá của Chiêm Thành, nhà Trần ngày càng suy sụp. Thời hậu kỳ nhà Trần, mọi việc chính sự do Thượng hoàng Trần Nghệ Tông quyết định. Trần Nghệ Tông lại rất trọng dụng Hồ Quý Ly nên khi về già thường ủy thác mọi việc cho Quý Ly quyết định. Dần dần binh quyền của Quý Ly ngày một lớn, Nghệ Tông tuổi cao sức yếu cũng không kìm chế nổi.

Năm 1394 Trần Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly được phong làm Phụ chính Thái sư nhiếp chính, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong nước.

Sau khi vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa và giết hàng loạt quần thần trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi của cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ.

Kinh tế - xã hộiSửa đổi

Loạt bài
LịchsửViệtNam

Thời tiền sử

Hồng Bàng

An Dương Vương

Bắc thuộc lần I [207 TCN – 40]
Nhà Triệu [207 – 111 TCN]
Hai Bà Trưng [40 – 43]
Bắc thuộc lần II [43 – 541]
Khởi nghĩa Bà Triệu
Nhà Tiền LýTriệu Việt Vương [541 – 602]
Bắc thuộc lần III [602 – 905]
Mai Hắc Đế
Phùng Hưng
Tự chủ [905 – 938]
Họ Khúc
Dương Đình Nghệ
Kiều Công Tiễn
Nhà Ngô [938 – 967]
Loạn 12 sứ quân
Nhà Đinh [968 – 980]
Nhà Tiền Lê [980 – 1009]
Nhà Lý [1009 – 1225]
Nhà Trần [1225 – 1400]
Nhà Hồ [1400 – 1407]
Bắc thuộc lần IV [1407 – 1427]
Nhà Hậu Trần
Khởi nghĩa Lam Sơn
Nhà Hậu Lê
Nhà Lê sơ [1428 – 1527]

trung
hưng
[1533 – 1789]
Nhà Mạc [1527 – 1592]
Trịnh–Nguyễn
phân tranh
Nhà Tây Sơn [1778 – 1802]
Nhà Nguyễn [1802 – 1945]
Pháp thuộc [1887 – 1945]
Đế quốc Việt Nam [1945]
Chiến tranh Đông Dương [1945 – 1975]
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Quốc gia Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam [từ 1976]

Xem thêm

  • Vua Việt Nam
  • Nguyên thủ Việt Nam
  • Các vương quốc cổ
  • Niên biểu lịch sử Việt Nam
sửa
Xem thêm: Hồ Quý Ly
Đầu phượng bằng gốm dùng để trang trí mái cung điện thời Hồ.

Tiền giấy được phát hành lần đầu tiên năm 1396 dưới thời vua Trần Thuận Tông, tuy nhiên người quyết định khi đó có lẽ là Hồ Quý Ly. Sau này, trong thời đại của mình, nhà Hồ đã có một số cải cách về hành chính, kinh tế, xã hội như: làm sổ hộ tịch, hạn chế gia nô, lập kho dự trữ thóc gạo, định lại quan chế và hình luật, thuế và tô ruộng, di dân khẩn hoang, lập cơ quan chăm sóc y tế v.v... Tuy nhiên, các cải cách của nhà Hồ hầu như không giành được thành công, và những thủ đoạn mà Hồ Quý Ly đã làm để lên ngôi khiến dân chúng xa lánh nhà Hồ.

Hành chínhSửa đổi

Dưới triều Hồ Hán Thương, năm 1401 đã cho làm sổ hộ tịch trong cả nước, lập phép hạn chế gia nô. Năm 1403, di dân không có ruộng đến Thăng Hoa [vùng đất mới thu được sau khi Chiêm Thành dâng nộp năm 1402, gồm 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa tức là đất các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay, huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ thuộc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay]. Cùng năm đặt Quảng tế [cơ quan coi về mặt y tế].

Luật phápSửa đổi

Cuối năm 1401, định quan chế và hình luật nhà nước Đại Ngu. Sử sách không nói rõ là nhà Hồ đã sửa đổi như thế nào so với thời trước của nhà Trần.

Kinh tếSửa đổi

Bài chi tiết: Kinh tế Việt Nam thời Hồ
Gạch lát nền trang trí hoa sen thời Hồ.
Gạch trang trí rồng thời Hồ.

Việc đổi tiền được Hồ Quý Ly khởi xướng thực hiện từ trước khi nhà Hồ được chính thức thành lập [1400]. Năm 1396, tháng 4, Hồ Quý Ly khi đó nắm toàn quyền điều hành nhà Trần bắt đầu phát tiền giấy Thông bảo hội sao. Cứ một quan tiền đồng đổi lấy một quan 2 tiền giấy. Cấm tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội chết như làm tiền giả.

Thể thức tiền giấy: tờ 10 đồng vẽ rong, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ một tiền vẽ mây, tờ 2 tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ một quan vẽ rồng. Kẻ làm tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản tịch thu.
Tiền đồng nhà Hồ

Tuy nhiên, việc dùng tiền giấy không được sự ủng hộ của dân chúng và nhà Hồ đã thất bại trong cuộc cải cách tiền tệ này. Thực ra, đến năm 1403, tức là sau bảy năm ban hành, tiền giấy vẫn không được ưa dùng, và do nhà nước cấm tiền đồng, nhân dân buộc phải trao đổi theo hình thức hàng đổi hàng. Nhà nước đã phải định giá tiền giấy cho trao đổi, lập điều luật định tội không tiêu tiền giấy.

Lý do quan trọng nhất là tiền Thông bảo hội sao của nhà Hồ rất dễ làm giả [thời đó chưa có các công nghệ chống làm tiền giả phức tạp như ngày nay]. Ngoài ra, mực in tiền thời đó cũng không bền, chỉ cần dính mưa, dính nước là nhòe không tiêu được nữa, người chủ coi như mất tài sản [tiền đồng thì không sợ ướt như vậy]. Như vậy việc dùng tiền giấy thời đó đã đi ngược nguyên tắc phát hành tiền tệ, đó là phải có đủ cơ sở để nhân dân tin tưởng vào giá trị giao dịch của đồng tiền. Một lượng lớn tiền giả được tung ra tất yếu dẫn tới việc tiền giấy bị mất giá, tức là lạm phát. Ngoài ra, nếu triều đình lạm dụng việc in tiền giấy để bù đắp thiếu hụt ngân khố thì lạm phát càng nghiêm trọng.

Một số học giả đương đại ca ngợi cải cách của Hồ Quý Ly về phát hành tiền giấy là "đi trước thời đại", nhưng thực ra chính sách phát hành tiền giấy đã được nhà Tống [Trung Quốc] áp dụng từ 3 thế kỷ trước đó, nên cũng không thể coi đây là "phát minh" của Hồ Quý Ly. Vấn đề là nhà Tống đã nhận ra những nhược điểm của tiền giấy vào thời kỳ đó [dễ làm giả, người dân không tin tưởng] nên không áp dụng với quy mô lớn, phần lớn tiền tệ của nhà Tống vẫn là tiền đồng. Sau này nhà Nguyên kế tiếp nhà Tống, thời Nguyên Vũ Tông [cai trị 1307-1311] do bị thiếu hụt ngân khố nên đã hạ lệnh in rất nhiều tiền giấy, kết quả là tiền giấy bị mất giá trị nghiêm trọng, đời sống nhân dân xáo trộn. Hồ Quý Ly cũng giải quyết vấn đề ngân khố theo cách làm của Nguyên Vũ Tông, và kết quả là cũng thất bại giống hệt như vậy.

Cũng có quan điểm cho rằng việc Hồ Quý Ly phát hành tiền giấy, cấm tiêu tiền đồng không chỉ vì vấn đề ngân khố, mà còn để thu về tiền đồng nhằm lấy nguyên liệu đúc vũ khí [súng thần công thời đó đúc bằng đồng]. Đây là một sáng kiến xuất phát từ nhu cầu phục vụ chiến tranh chứ không phải nhu cầu phát triển kinh tế hàng hóa. Một số học giả đương đại cho rằng chính sách phát hành tiền giấy nhằm phát triển trao đổi thương mại, nhưng thực ra họ đã nhầm lẫn lớn về mục đích thực của Hồ Quý Ly.

Theo Phan Huy Chú bình trong sách Lịch triều hiến chương loại chí:

Tiền giấy chẳng qua chỉ là mảnh giấy vuông, phí tổn chỉ đáng 5, 3 đồng tiền mà đổi lấy vật đáng 5, 6 trăm đồng của người ta, có nhiên không phải là cái đạo đúng mức. Vả lại, người có tiền giấy cất giữ cũng dễ rách nát, mà kẻ làm giả mạo sinh ra không cùng, thực không phải là cách bình ổn vật giá mà lưu thông của cải vậy. Quý Ly không xét kỹ đến cái gốc lợi hại, chỉ ham chuộng hư danh sáng chế, để cho tiền của hàng hóa thường vẫn lưu thông tức là sinh ra ứ đọng, khiến dân nghe thấy đã sợ, thêm mối xôn xao, thế có phải chế độ bình trị đâu![1]

Năm 1400, đánh thuế thuyền buôn, định 3 mức thượng, trung, hạ. Mức thượng đánh thuế mỗi thuyền 5 quan, mức trung 4 quan, mức hạ 3 quan. Năm 1402 định lại các lệ thuế và tô ruộng. Trước đây, mỗi mẫu thu 3 thăng thóc, nay thu 5 thăng. Bãi dâu, trước thu mỗi mẫu 9 quan hoặc 7 quan tiền, nay thu hạng thượng đẳng mỗi mẫu 5 quan tiền giấy, hạng trung đẳng mỗi mẫu 4 quan tiền giấy, hạng hạ đẳng 3 quan tiền giấy. Tiền nộp hằng năm của đinh nam trước thu 3 quan, nay chiếu theo số ruộng, người nào chỉ có 5 sào ruộng thì thu 5 tiền giấy; từ 6 sào đến một mẫu thì thu một quan; 1,1 mẫu đến 2 mẫu thu 2 quan; từ 2,1 mẫu đến 2,5 mẫu thu 2 quan 6 tiền; từ 2,6 mẫu trở lên thu 3 quan. Đinh nam không có ruộng hay trẻ mồ côi, đàn bà góa thì dẫu có ruộng cũng không thu[2].

Như vậy, có thể thấy việc đánh thuế của nhà Hồ có sự phân biệt, phân loại rõ ràng hơn so với trước đây.

Năm 1401, lập kho thường bình dự trữ thóc để ổn định kinh tế.

Năm 1403, ban hành cân, thước, thưng, đấu, định giá tiền giấy, cho dân mua bán với nhau.

Ngoại giaoSửa đổi

Xem thêm: Chiến tranh Việt-Chiêm 1400-1407

Quan hệ của nhà Hồ với nhà Minh ở Trung Quốc và Chiêm Thành lúc bấy giờ khá phức tạp. Nhà Minh sau khi thống nhất Trung Quốc năm 1368 bắt đầu có ý định nhòm ngó xuống phương nam. Trên mặt trận này, nhà Hồ đã phải nhún nhường hết mức, thậm chí năm 1405 đã phải cắt 59 thôn ở Lộc Châu [tỉnh Lạng Sơn ngày nay] để mong tránh được họa binh đao nhưng cuối cùng cũng không tránh khỏi họa xâm lăng của nhà Minh năm 1406.

Đối với Chiêm Thành, quan hệ vẫn là giữa nước lớn [Đại Ngu] và nước nhỏ [Chiêm Thành]. Trong suốt thời kỳ đầu [1400-1403] nhà Hồ liên tục đem quân tấn công Chiêm Thành và đã chiếm được một phần lãnh thổ từ Chiêm Thành. Sau khi chiếm được lãnh thổ từ Chiêm Thành,nhà Hồ lập ra xứ Thăng Hoa [Quãng Nam và Quảng Ngãi ngày nay]. Lúc này lãnh thổ nước ta đã tới tận Quảng Ngãi.

Việc thi cửSửa đổi

Bài chi tiết: Giáo dục khoa cử thời Hồ
Đầu hổ bằng gốm dùng để trang trí trong thời nhà Hồ.

Từ cuối thời Trần [1396], Hồ Quý Ly đã thay đổi chế độ thi cử, bỏ cách thi ám tả cổ văn chuyển sang tứ trường văn thể.

Năm 1404, Hồ Hán Thương định thể thức thi chọn nhân tài: Cứ tháng 8 năm trước thi Hương, ai đỗ thì được miễn tuyển bổ; lại tháng 8 năm sau thi Hội, ai đỗ thì thi bổ thái học sinh. Rồi năm sau nữa lại bắt đầu thi hương như hai năm trước. Phép thi phỏng theo lối văn tự ba trường của nhà Nguyên nhưng chia làm 4 kỳ, lại có kỳ thi viết chữ và thi toán, thành ra 5 kỳ. Quan nhân, người làm trò, kẻ phạm tội đều không được dự thi[3].

Tháng 8 năm 1400, Hồ Quý Ly mở khoa thi Thái học sinh. Lấy đỗ Lưu Thúc Kiệm, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành, Nguyễn Nhữ Minh [Nguyễn Quang Minh] v.v gồm 20 người. Tháng 8 năm 1405, Hồ Hán Thương sai bộ Lễ thi chọn nhân tài, đỗ được 170 người. Lấy Hồ Ngạn, Lê Củng Thần sung làm Thái học sinh lý hành; Cù Xương Triều và 5 người khác sung làm Tư Thiện đường học sinh.

Tôn giáoSửa đổi

Nhà Hồ không tôn sùng đạo Phật như trước mà tôn trọng Nho giáo hơn. Năm 1396, theo lời Hồ Quý Ly, vua Trần Thuận Tông đã xuống chiếu sa thải các tăng đạo chưa đến 50 tuổi trở xuống, bắt phải hoàn tục. Lại thi những người thông hiểu kinh giáo, ai đỗ thì cho làm Đường đầu thủ [Tăng đường đầu mục], tri cung, tri quán, tri tự, còn lại thì cho làm kẻ hầu của người tu hành.

Xây thành lũy quân sựSửa đổi

Một viên đạn đại bác bằng đá thời nhà Hồ được tìm thấy ở thành Tây Đô.

Trước họa xâm lăng của nhà Minh, nhà Hồ đã phải lo củng cố quân sự.

Năm 1397, Quý Ly bức vua Trần dời đô vào Thanh Hóa, đặt Thăng Long [hay Đại La Thành] thành Đông Đô, gọi thành mới xây ở núi An Tôn thuộc Thanh Hóa là Tây Đô. Thành Tây Đô trở thành kinh đô của nhà Hồ[4]

Thành nhà Hồ xây dựng ở vị trí đặc biệt hiểm yếu, nằm giữa hai con sông lớn là sông Mã và sông Bưởi, vây quanh là hệ thống núi non hiểm trở: Đốn Sơn, Yên Tôn, Hắc Khuyển, Xuân Đài, Trác Phong, Tiến Sĩ, Kim Ngọ, Ngưu Ngọa, Voi. Có lẽ Hồ Quý Ly cũng nhận ra rằng lòng dân - nhất là ở Thăng Long, không ủng hộ việc Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần nên đã lui về Tây Đô. Ngoài ra, việc dời đô còn nằm trong chiến lược phòng thủ đối với nhà Minh.

Năm 1404, Hồ Hán Thương cho đóng thuyền đinh sắt, có hiệu là Trung tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải lương, nói là chở lương, nhưng trên có đường đi lại để tiện chiến đấu, dưới thì hai người chèo một mái chèo. Năm 1405, Hồ Hán Thương lệnh cho những nơi đầu nguồn ở các trấn nộp gỗ làm cọc. Châu Vũ Ninh thì cho lấy gỗ ô mễ ở lăng Cổ Pháp đưa đến cho quân đóng cọc ở các cửa biển và những nơi xung yếu trên sông Cái [sông Hồng] để phòng giặc phương Bắc. Tháng 6, đặt bốn kho quân khí. Không kể là quân hay dân, hễ khéo nghề đều sung vào làm việc.

Tháng 7, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đi tuần tra xem xét núi sông và các cửa biển, ở kinh lộ, để kiểm tra xem xét thế hiểm yếu của các nơi, tháng 9 tổ chức lại quân đội. Định quân Nam ban và Bắc ban chia thành 12 vệ; quân Điện hậu đông và tây chia thành 8 vệ; mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người; đại quân thì 30 đội, trung quân thì 20 đội, mỗi doanh là 15 đội, mỗi đoàn là 10 đội; cấm vệ đô thì 5 đội. Đại tướng quân thống lĩnh cả.

Nhà Hồ sai Hoàng Hối Khanh đốc suất dân phu đắp thành Đa Bang [huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây ngày nay], sai quân vệ Đông Đô đóng cọc chặn cửa sông Bạch Hạc [ngã ba sông Hồng chảy qua thành phố Việt Trì ngày nay] để chống thủy quân giặc từ Tuyên Quang xuống.

Tháng 7 năm 1406, Hồ Hán Thương ra lệnh cho các lộ đóng cọc gỗ ở bờ phía nam sông Cái, từ thành Đa Bang đến Lỗ Giang và từ Lạng Châu đến Trú Giang để làm kế phòng thủ.

Trong các thành lũy, Thành nhà Hồ là lớn nhất, có chu vi trên 3,5km, rộng khoảng 150 hécta được xây dựng chỉ vỏn vẹn trong vòng 3 tháng, tiến độ nhanh như vậy thì có thể thấy được sự khó nhọc, vất vả của binh lính, người dân bị điều đi làm phu xây dựng thành. Nhà Hồ đã không quan tâm đến việc khoan thư sức dân, liên tục bắt binh lính, phu phen xây dựng thành lũy, bất kể đời sống người dân lúc ấy vô cùng khốn khó. Câu chuyện về nàng Bình Khương có chồng là dân phu bị chết khi xây dựng Thành nhà Hồ, nàng đã đập đầu chết theo và được dân chúng lập đền thờ, phần nào cho thấy sự oán hận của người dân đối với các công trình xây dựng của nhà Hồ[5]. Dù Hồ Quý Ly chọn Thanh Hóa làm kinh đô, nhưng khắp tỉnh Thanh Hóa lại không hề có một am, miếu nào thờ Hồ Quý Ly, trong khi có hơn 70 đền thờ Trần Khát Chân [vị tướng bị Hồ Quý Ly giết]. Ngay chân thành nhà Hồ, người dân dựng ngôi đền thờ người đốc công bị Hồ Quý Ly chém đầu vì để chậm tiến độ xây thành. Điều đó cho thấy nhân dân thời đó oán ghét Hồ Quý Ly đến thế nào.

Nhà Hồ đã huy động kiệt quệ khả năng nhân dân để có thành lũy vững chắc chống quân Minh. Nhưng kết cục sau đó ngược lại hẳn, nhà Hồ thất bại nhanh chóng trước quân Minh. Rốt cục thì thành cao hào sâu cũng không thể cứu vãn được một triều đại đã mất lòng dân.

Một số tư tưởng và chính sách cải cách của Hồ Quý Ly

09/11/2015

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng canh tân, cải cách luôn có một vị trí đặc biệt, được hình thành và phát triển do yêu cầu của lịch sử. Trong hệ tư tưởng cải cách ấy, tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly có vị trí đặc biệt. Bài viết muốn đề cập tới một số tư tưởng và chính sách cải cách của ông về xã hội, văn hoá - giáo dục,… mà qua đó, đã tạo điều kiện cho việc xác lập một thể chế chính trị mới – nhà nước chính trị trung ương tập quyền.

Từ nửa sau thế kỷ XIV, đất nư­ớc Đại Việt thời kỳ cuối v­ương triều Trần đã lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện trên tất cả các phư­ơng diện kinh tế - xã hội. Nhu cầu cần phải cải cách, đổi mới để đư­a đất n­ước thoát khỏi khủng hoảng đã trở thành đòi hỏi cấp thiết của lịch sử. Và, dòng tư tưởng cải cách ở thời kỳ lịch sử này đã được hình thành, mà Hồ Quý Ly là một đại biểu xuất sắc. Hồ Quý Ly đã khởi xư­ớng, rồi trở thành ng­ười lãnh đạo, tổ chức và thực hiện trực tiếp công cuộc cải cách này. Tư­ tưởng và hoạt động cải cách của ông đư­ợc đánh giá là dũng cảm, táo bạo, mạnh mẽ và đầy tâm huyết đối với vận mệnh quốc gia lẫn vận mệnh triều đình lúc đó. Những tư­ tưởng cải cách của ông đư­ợc thực hiện từ cuối triều đại nhà Trần cho đến vài năm đầu của nhà Hồ. Sự nghiệp cải cách của Hồ Quý Ly, dẫu chư­a trọn vẹn hay hoàn hảo, như­ng đã góp phần mở ra một b­ước phát triển mới trong lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng Việt Nam. Việc tìm hiểu tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly để rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử là điều cần thiết. Vì thế, việc nghiên cứu tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly trên nhiều phư­ơng diện đã có nhiều công trình khoa học công bố. Trong bài viết này, chúng tôi xin chỉ góp phần khảo sát, tìm hiểu và làm rõ thêm về một số tư tưởng cải cách có tính đặc sắc và tiêu biểu của Hồ Quý Ly có ảnh h­ưởng lớn tới xã hội lúc bấy giờ.

1. Tư tưởng cải cách về quân sự

Trư­ớc hết, cần nhấn mạnh rằng, tư tưởng cải cách về chính trị - quân sự là phần rất quan trọng trong hệ tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly. Tư tưởng cải cách này, hầu nh­ư bao trùm trên tất cả các mặt hoạt động của ông, là động lực quan trọng nhất và cũng là sự trăn trở lớn của Hồ Quý Ly trong suốt thời gian ông tham chính dư­ới vương triều Trần và bảy năm trong triều đại nhà Hồ do ông tạo dựng. Trước hết, ông luôn tìm mọi giải pháp thực tiễn để củng cố thế và lực, xây dựng chính quyền trung ư­ơng vững mạnh và tăng c­ường sức mạnh quốc phòng đất nư­ớc. Sự nghiệp cải cách chính trị đ­ược thực hiện vào thời kỳ cuối của triều Trần, đặc biệt nhất là vào thời Trần Dụ Tông, khi mà tệ nạn tham nhũng, ăn chơi xa xỉ đã bùng phát làm triều đình suy yếu. Lúc đó, Hồ Quý Ly chủ tr­ương xây dựng bộ máy nhà n­ước quân chủ trung ương tập quyền. Để làm được điều đó, ông tập hợp một đội ngũ quan lại bao gồm những ng­ười trung thành với ông, trong những Nho sĩ và không Nho sĩ, mà được chọn lọc, cơ cấu sắp đặt từ cuối thời nhà Trần để làm nòng cốt cho bộ máy quản lý của mình về sau. Và sau đó, ông lại nhanh chóng bổ sung thêm lực l­ượng này bằng cách tuyển chọn, qua con đư­ờng khoa cử, để từ đó có được đội ngũ quan lại quản lý chính quyền mạnh, có tri thức, đư­ợc đào tạo bài bản, có chất l­ượng mới.

Trong việc điều hành quản lý đất nư­ớc, kể cả ngay ở mặt trận quan trọng sống còn nhất là chống giặc ngoại xâm, ông càng chủ tr­ương dựa hẳn vào đội ngũ quan lại để hoạch định chính sách và chỉ đạo chiến lư­ợc.

Nh­ư vậy rõ ràng là, theo Hồ Quý Ly, bộ máy nhà n­ước quân chủ quý tộc kiểu nhà Trần đã lỗi thời, cần thiết phải thay thế bằng một nhà nư­ớc quân chủ phong kiến quan liêu, tập quyền để tạo ra sức mạnh mới, khả dĩ phát triển quốc gia.

Trong quản lý nhà n­ước, với chủ trương dùng tư tưởng pháp trị, Hồ Quý Ly rất quan tâm đến việc xây dựng luật pháp, từng bư­ớc định ra luật pháp, làm cơ sở cho chính sách trị nư­ớc yên dân của triều đình.

Đặc biệt, trong hoàn cảnh lịch sử đ­ương thời, Hồ Quý Ly lại càng dốc sức tập trung xây dựng lực l­ượng quân sự, bởi sự đe dọa xâm lư­ợc quân sự của nhà Minh ở phía bắc lúc bấy giờ đã trở nên nghiêm trọng. Hồ Quý Ly mong muốn xây dựng đư­ợc một lực lượng quân đội với hàng trăm vạn quân, đủ sức đối địch với giặc phư­ơng Bắc. Năm 1401, Hồ Quý Ly ra lệnh làm sổ hộ tịch điều tra, nắm chắc dân số để tuyển binh lính. Năm 1406, khi quân Minh chuẩn bị kéo vào xâm l­ược nư­ớc ta, Hồ Quý Ly lại tăng thêm số quân bằng cách “hạ lệnh cho ngư­ời có phẩm t­ước chiêu mộ những ng­ười vong mệnh [dân phiêu tán - TG] làm quân dũng hãn”. Quân đội nhà Hồ lúc bấy giờ là quân đội có số l­ượng rất lớn trong lịch sử n­ước ta.

Song song với những biện pháp về tổ chức lực lư­ợng quân đội và tăng cư­ờng sức mạnh về số l­ượng, nhà Hồ còn rất chú trọng việc cải tiến vũ khí kỹ thuật, trang bị quân sự. Hồ Quý Ly ra lệnh mở xư­ởng đúc vũ khí, phát hành tiền giấy, thu hồi tiền đồng để đúc súng, tuyển thợ giỏi vào làm việc trong các công x­ưởng quân sự. Vũ khí, thiết bị quân sự vào thời kỳ này của nước ta, do vậy, đã có những bư­ớc tiến quan trọng về mặt kỹ thuật và tính năng quân sự. Khi đó, Hồ Nguyên Trừng [con cả của Hồ Quý Ly] cũng đã sáng chế ra được một loại súng thần cơ có sức công phá mạnh mẽ, hơn hẳn các loại khí giới đương thời. Trong các cuộc chiến tranh với Chiêm Thành, quân ta thu đư­ợc khá nhiều voi chiến; vì vậy, quân đội nhà Hồ lại có đ­ược lực lượng t­ượng binh đáng kể, tạo nên sức mạnh mới trong chiến đấu. Thủy binh đã được trang bị thuyền chiến lớn hơn trư­ớc, có khả năng thủy chiến khá tốt. Bên cạnh đó, nhà Hồ còn chủ tr­ương xây dựng các hệ thống phòng tuyến trên mặt đất để phòng thủ quốc gia. Tr­ước họa xâm lăng, nhà Hồ đã khởi dựng thành Tây Đô [Thanh Hoá], tuy là Đô Thành nh­ưng mang nhiều tính chất phòng vệ trong hoạt động quân sự. Nhà Hồ cũng đã xây dựng thành Đa Bang [Sơn Tây - Hà Tây ngày nay] và cả một hệ thống công trình phòng thủ có quy mô lớn, dài gần 400km kéo dài từ núi Tản Viên, men theo sông Đà, sông Hồng, sông Luộc đến cửa sông Thái Bình. Đó là một hệ thống chư­ớng ngại vật gồm những bãi cọc, những xích sắt cùng các đồn quân chốt chặn khắp các cửa sông, cửa nguồn, quan ải... Có thể khẳng định, đối với lịch sử quân sự, đây là thời kỳ mà chúng ta đã xây dựng đ­ược một công trình phòng ngự có quy mô lớn nhất, trên một chính diện rộng, chiều sâu lớn và đồ sộ gấp nhiều lần phòng tuyến Nh­ư Nguyệt thời Lý chống giặc Tống.

Nhìn chung, những cải cách quân sự của Hồ Quý Ly vào thời kỳ này đã có nhiều điểm tiến bộ, thậm chí có mặt còn v­ượt trư­ớc cả thời đại. Đây cũng là một biện pháp thực tiễn để tăng cường quyền lực cho nhà Hồ trong thời kỳ đổi mới, xây dựng chính quyền, bảo vệ đất nư­ớc.

2. Tư tưởng cải cách về kinh tế

Về mặt kinh tế, nhà Hồ đã tiến hành một số biện pháp cải cách, trư­ớc hết nhằm để hạn chế bớt quyền lực kinh tế của quý tộc nhà Trần và địa chủ quan lại, một mặt nhằm xoa dịu nỗi bất bình của nhân dân; và mặt khác, chủ yếu nhằm phục vụ lợi ích cho tập đoàn thống trị mới là tầng lớp quý tộc quan liêu, Nho sĩ của triều đình nhà Hồ. Các chính sách lớn có tính cách tân về mặt kinh tế – xã hội mà ở đây chúng tôi lược khảo là chính sách hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy và chính sách thuế.

a] Chính sách hạn điền đư­ợc Hồ Quý Ly ban hành vào năm 1397. Có thể nói, chính sách này đã góp phần hạn chế quyền chiếm hữu ruộng đất của địa chủ quý tộc, quan lại nhà Trần, thu hồi số lớn ruộng đất tư­ nhân, bổ sung vào đất công do nhà nư­ớc quản lý, tạo cho quốc gia một tiềm lực kinh tế để phát triển nông nghiệp.

Để thực hiện chính sách hạn điền, Hồ Quý Ly chủ trư­ơng cho các quý tộc hàng đại v­ương và trưởng công chúa được sở hữu số ruộng đất không hạn định. Còn lại thứ dân, bao gồm cả địa chủ nhỏ và vừa lẫn các hộ nông dân được sở hữu ruộng đất tư nhưng không vư­ợt quá mức quy định của nhà nước.

Để có cơ sở chính xác thực hiện chính sách này, Hồ Quý Ly ra lệnh tiến hành tổng đo đạc ruộng đất của dân. Biện pháp này đã mang lại lợi ích thiết thực đối với một đất n­ước nông nghiệp, vì nhờ đó mà nhà n­ước nắm chắc và biết rõ số diện tích ruộng đất trong cả n­ước, lập đầy đủ đ­ược danh sách ruộng đất và các chủ sở hữu một cách chính xác. Trên cơ sở đó, Nhà nước có thể bảo đảm việc thực hiện chính sách thuế một cách công bằng, hợp lý và thực hiện được việc quản lý nhà nước về đất đai, tạo thuận lợi cho việc đề ra những chính sách mới về ruộng đất, về phát triển nông nghiệp và những chính sách kinh tế khác.

b] Về lĩnh vực tiền tệ: Hồ Quý Ly chủ trương đổi mới bằng biện pháp phát hành tiền giấy thay cho đồng tiền kim loại vừa nặng, vừa hiếm nguyên liệu sản xuất. Việc phát hành tiền giấy “Thông bảo hội sao" được coi là một liệu pháp cải cách kinh tế cũng khá độc đáo của Hồ Quý Ly. Thực ra, ngay từ năm 1396, khi nắm giữ cư­ơng vị Phụ Chính Thái Sư­ của triều Trần, Hồ Quý Ly đã chủ trương “bắt đầu phát hành loại tiền giấy Thông bảo hội sao". Đến năm 1400, khi thành lập và đứng đầu vương triều nhà Hồ, thì chính sách sử dụng tiền giấy đã được ông cho thực hiện một cách rộng rãi và triệt để trong cả nước.

Về bản chất, tiền giấy là một hiện tượng kinh tế, chỉ ra đời khi nền kinh tế – xã hội đã có sự phát triển ở một trình độ nhất định. Việc tổ chức phát hành tiền giấy thay cho đồng tiền kim loại lúc bấy giờ của Hồ Quý Ly có phải do đòi hỏỉ của nền kinh tế hay không, hiện vẫn còn nhiều ý chư­a thống nhất. Theo chúng tôi, việc Hồ Quý Ly ban hành tiền giấy, trước hết, nhằm giải quyết một khó khăn cấp thiết đã trở nên nghiêm trọng lúc bấy giờ, đó là nguy cơ khủng hoảng về tài chính khi nhà nước cần có nhiều tiền để chi tiêu cho các công trình lớn. Mặt khác, thu hồi tiền đồng cũng là để gia tăng nguyên liệu đồng phục vụ việc chế tạo vũ khí chiến đấu [đúc súng chẳng hạn], và cho các việc cần thiết khác. Như­ vậy, việc thay thế tiền giấy được coi là một trong những cải cách quan trọng trong lĩnh vực kinh tế tài chính của nhà Hồ.

Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận một thực tế rằng, việc ban hành tiền giấy đã vượt quá yêu cầu của xã hội lúc đó, cả về nhận thức cũng như­ thực tiễn nền kinh tế đất nước, nên hiệu quả cũng không được như mong muốn của Hồ Quý Ly.

c] Về chính sách thuế: Một cải cách kinh tế quan trọng khác của nhà Hồ là đổi mới về việc thực hiện chính sách thuế. Xuất phát từ tình hình tài chính cuối triều Trần rất khó khăn, do số lượng công điền giảm thiểu đáng kể nên nguồn thu nhập quốc dân từ thuế cũng giảm xuống. Hồ Quý Ly đã ban hành “Thuế pháp". Tư tưởng này của ông là đúng đắn và cũng thu được những kết quả nhất định. Thế nhưng, chính sách thuế mới này khi ban hành đã chưa chú ý đến tình cảnh khó khăn về đời sống kinh tế của đông đảo quần chúng nhân dân lao động mà chủ yếu là nông dân lúc bấy giờ, còn có những yếu tố chưa hợp lý. Chẳng hạn, như­ thuế thu đối với đất ruộng có phần hơi nặng; nhưng đối với loại đất trồng dâu và thuế đinh, đã có sự chi tiết hơn trong mức thu thuế và, cũng hoàn toàn thấp hơn mức thuế suất dưới triều Trần. Đó là chính sách thuế xây dựng theo hướng “Khoan th­ư sức dân”, tức là giảm thuế đối với người có ít ruộng đất canh tác, trồng trọt. Chính sách thuế này bắt đầu kích thích kinh tế nông nghiệp phát triển hơn so với giai đoạn trước.

Đối với việc thu thuế trong lĩnh vực thương mại, buôn bán, dưới vương triều nhà Hồ, sách Đại Việt sử ký toàn thư­ chép: "Hán thương đánh thuế thuyền buôn, định ba bực thượng, trung, hạ. Bực thượng mỗi chuyến thuyền 5 quan, bực trung 4 quan, bực hạ 3 quan". Việc thu thuế thuyền buôn và thuế suất có tăng lên như­ vậy, một số nhà sử học cho Hồ Quý Ly đã thực hiện chính sách "Ức thương”. Theo ý kiến riêng, chúng tôi cho rằng, sự nhận định như­ vậy có lẽ là chưa thỏa đáng. Bởi lẽ, việc tổ chức đánh thuế thuyền buôn dưới triều Hồ đã ít nhiều, trong một chừng mực nhất định, thể hiện được sự công bằng, bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế của mọi công dân đối với nhà nước, và đó cũng là điều hoàn toàn cần thiết.

3. Tư tưởng cải cách, đổi mới xã hội

Như chúng ta đã biết, lúc bấy giờ lực lượng nông nô, nô tì các điền trang thái ấp, trong gia đình các vương hầu quý tộc nhà Trần rất đông đảo và cuộc sống lao dịch nặng nề trong nền chính trị thái ấp đó đã tạo nên mâu thuẫn xã hội, làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của nông nô khắp nơi. Những động thái xã hội này làm cho sản xuất đình đốn, xã hội bất an, đồng ruộng bỏ trống, nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Nhận thức được thực trạng đó, Hồ Quý Ly đã thực hiện chính sách hạn nô, nhằm giảm thiểu các mâu thuẫn đối kháng xã hội. Về bản chất, chính sách hạn nô chưa nhằm vào mục tiêu giải phóng nông nô, nô tì, mà được thực hiện là do nhu cầu cần thiết có tính chất thời đại, mới chỉ là sự thay đổi trên danh nghĩa, là sự chuyển đổi từ các nô tì riêng của cá nhân [t­ư nô] thành các nô tì công của nhà nước [quan nô]. Nhưng có thể đánh giá khách quan rằng, chính sách hạn nô là cần thiết và gần với chính sách hạn điền, tạo ra chế độ sở hữu mới, phục vụ mục tiêu cải cách kinh tế - xã hội của đất nước.

Bên cạnh chính sách hạn nô, nhà Hồ còn tiếp tục thực hiện một số chính sách xã hội khác có tính chất cải cách mạnh mẽ. Chẳng hạn, vào năm 1401, Hồ Quý Ly cho xây dựng kho "th­ường bình” như một hình thức dự trữ quốc gia về lương thực. Nhà nước sử dụng tiền công quỹ khi thóc lúa rẻ thì cho mua tích trữ, khi mất mùa đói kém, giá thóc gạo lên cao, nhà nước sẽ xuất ra bán cho dân, hoặc phân phát cứu trợ người đói kém. Khi có nhu cầu cho quốc phòng, an ninh cần thiết thì các kho dự trữ này chính là nơi cung ứng quan trọng về hậu cần, giữ an ninh l­ương thực, bảo đảm sức mạnh cho quốc phòng. Đây có thể xem là chủ trương có tính chiến l­ược “tích cốc phòng cơ" nhằm tạo ra sự bình ổn về lư­ơng thực trong xã hội. Ngoài ra, nhà Hồ còn thực hiện hàng loạt những chính sách cách tân khác, với mục tiêu an dân như lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, năm 1403, nhà Hồ thành lập cơ quan "Quảng Tế thự " [giống Bộ Y tế ngày nay], và cử Nguyễn Đại Năng, một y sĩ, làm "quảng tế thự thừa", chuyên chăm lo việc quản lý tổ chức chữa bệnh trong nhân dân, chăm sóc sức khỏe trong nhân dân.

Nhìn chung, những chính sách mà Hồ Quý Ly đã ban hành là tiến bộ, thể hiện được quan điểm thực tiễn trong việc nghiên cứu, tổ chức, quản lý điều hành xã hội. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của các chính sách nhà Hồ, cũng như­ của Hồ Quý Ly là ở chỗ, ông đã không thực hiện được một cách triệt để những chính sách ấy, quyền lợi của đại bộ phận nhân dân lao động chưa được đáp ứng, ruộng đất không được phân chia cho người dân sử dụng; nông nô, nô tì chưa thật sự được giải phóng mà thực chất mới chỉ là sự đổi chủ thuần túy. Như­ vậy, ý nghĩa của những chính sách và biện pháp cải cách khá mới mẻ của Hồ Quý Ly vẫn bị giới hạn trong chừng mực nhất định.

4. Tư tưởng cải cách văn hoá, giáo dục

Những lĩnh vực thuộc kiến trúc thượng tầng cũng được Hồ Quý Ly quan tâm cải cách ngay từ lúc ông còn tham chính dưới vương triều Trần với t­ư cách một đại thần. Những tư tưởng cải cách về văn hóa, giáo dục của Hồ Quý Ly được thể hiện từ năm 1392, khi ông viết sách Minh Đạo, gồm 14 thiên. Rất tiếc, sách Minh Đạo đến nay không còn l­ưu giữ được nữa; do vậy, việc tìm hiểu tư tưởng cơ bản và đánh giá những giá trị trong tác phẩm này là điều vô cùng khó khăn.

Tuy nhiên, qua thực tiễn, người ta thấy rằng, Hồ Quý Ly đã không coi kinh điển Nho giáo là “khuôn vàng thư­ớc ngọc". Ông chủ trư­ơng xem xét, chọn lọc, phân loại để tìm ra và vận dụng những luận điểm cần thiết, những yếu tố phù hợp với thực tiễn đất nước và giải thích theo cách riêng của mình, không dập khuôn theo các Nho gia. Hồ Quý Ly cũng là người phê phán tư tưởng Nho giáo khá gay gắt. Những vấn đề mà Hồ Quý Ly phê phán có thể chưa thật thỏa đáng, nhưng qua đó, đã cho chúng ta thấy, ông là người có tinh thần độc lập dân tộc, có óc phê bình sáng tạo, thậm chí còn có phần mang tính thực dụng trong việc vận dụng kinh điển Nho giáo vào công việc cai trị đất nước. Tất cả điều đó phản ánh ý chí của người đứ­ng đầu nhà nước đương thời, không cam chịu chấp nhận những khuôn mẫu sẵn có của ý thức hệ Nho giáo, mặc dù hệ tư tưởng đó đang được người đời cho là chính thống. Đặc biệt, việc cho sử dụng chữ Nôm với ý nghĩa là chữ quốc ngữ đã thể hiện ý thức dân tộc sâu sắc của Hồ Quý Ly. Nh­ư vậy, có thể nói, những luận điểm và tư tưởng của Hồ Quý Ly đã vượt hẳn lên so với tầng lớp Nho sĩ cùng thời với ông và so với cả những Nho gia ở thế hệ sau ông nữa.

Cùng với việc đề cao chữ Nôm, tư tưởng cải cách văn hóa của Hồ Quý Ly còn đư­ợc thể hiện ở một số lĩnh vực hoạt động khác nh­ư chấn hưng lễ nhạc; sửa đổi nghi thức lễ tân; cải cách phẩm phục triều nghi; khôi phục, lập lại các nghi lễ truyền thống và quy định việc tế tự mang tính văn hóa, nhằm kích thích ý thức dân tộc trong cộng đồng.

Riêng về lĩnh vực giáo dục, Hồ Quý Ly đã có những quan điểm và biện pháp cải cách được xem là táo bạo và sắc sảo. Trước hết, ông chủ trương xây dựng một nền giáo dục có tính thực tiễn, gắn bó hơn với cuộc sống, thúc đẩy sự sáng tạo, như hạ thấp vai trò Khổng Tử, đề cao Chu Công, phê phán các danh Nho là những người "học thì rộng nhưng tài thì kém, không quan thiết đến sự tình, chỉ chuyên nghề lấy cắp vặt của người x­ưa". Tiếp đó, Hồ Quý Ly lại tiến thêm một bước trong cải cách giáo dục khi vào năm 1396, cùng với việc dịch Kinh Thi bằng hình thức làm sách Thi Nghĩa, ông còn định ra phép thi cử mới, bỏ lối thi cũ chỉ ám tả cổ văn, và đưa ra quy định cụ thể cả về nội dung lẫn hình thức cho mỗi kỳ thi. Năm 1403, Hồ Quý Ly quy định tiếp, thí sinh phải thi thêm một kỳ thi nữa là thi viết và làm tính. Chỉ hai việc: bỏ hẳn lối viết ám tả cổ văn và đ­ưa tính [toán học] vào nội dung thi cũng đã làm cho người học phải suy nghĩ, phát triển t­ư duy khoa học tốt hơn; giảm hình thức học vẹt, sao chép sách vở x­a một cách máy móc; tạo điều kiện cho tầng lớp Nho sĩ mới khả năng sáng tạo, gắn bó hơn với đời sống thực tế. Có lẽ, chính vì những cải cách về giáo dục với nội dung thực tế, sáng tạo cùng với những quy định cụ thể, chặt chẽ trong thi cử, nên phần đông những tri thức đư­ợc đào tạo trong thời kỳ Hồ Quý Ly cầm quyền đều là những người có tài, có chí lớn, luôn có chí hướng giúp dân, giúp nước. Bên cạnh đó, Hồ Quý Ly cũng có một cái nhìn đúng đắn và sâu sắc về vai trò người làm công tác giáo dục. Ông bổ nhiệm những người thi đỗ thái học sinh [tiến sĩ] khóa đầu tiên dưới triều Hồ vào việc trông coi giáo dục. Hồ Quý Ly cũng biết trọng dụng, cất nhắc những Nho sĩ thi đỗ dưới triều Trần, mà chưa được lưu ý sử dụng, chẳng hạn nh­ư Nguyễn Phi Khanh [thân phụ của Nguyễn Trãi].

Một việc làm rất đáng trân trọng và được đánh giá cao trong cải cách giáo dục của Hồ Quý Ly là ông đã đề xướng chính sách khuyến học. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho mở tr­ường ở các châu, phủ thuộc các lộ Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Đông, gồm hầu hết miền đồng bằng và duyên hải vùng Bắc Bộ ngày nay. Các châu, phủ đều có quan giáo thụ trông coi. Như­ vậy, có thể thấy, Hồ Quý Ly là một nhà cải cách toàn diện, một nhà cải cách giáo dục có tư tưởng tiến bộ, và là con người hành động, dám nghĩ, dám làm vì sự nghiệp của đất nước và độc lập của dân tộc. Tóm lại, về văn hóa và giáo dục, tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly, nhìn chung, là táo bạo và tích cực.

Có thể khẳng định rằng, trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, thì tư tưởng canh tân, cải cách luôn có một vị trí đặc biệt, được hình thành và phát triển do yêu cầu của lịch sử. Trong hệ tư tưởng cải cách ấy, tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly có vị trí rất đặc biệt trong lịch sử nước ta thời kỳ trung đại mở đầu cho bước phát triển mới của một nhà nước chính trị trung ư­ơng tập quyền và tiếp tục được hoàn thiện trong các giai đoạn sau của lịch sử Việt Nam. Tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly ­được coi là táo bạo, có nhiều mặt tích cực, song cũng có nhiều điểm hạn chế. Tuy nhiên, trải qua sáu thế kỷ, nội dung và tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly vẫn được lịch sử ghi nhận là tiến bộ, có ý nghĩa cho đời sau. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly và rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử từ sự nghiệp cải cách của ông có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và bổ ích đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh của Đảng ta hiện nay. Đó chính là những bài học về sự kết hợp giữa nhiệm vụ chiến lư­ợc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về thực hiện chính sách thân dân, về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước, về giáo dục, đào tạo nhân tài phải gắn với thực tiễn cuộc sống, với nhân dân, và bài học về tính tất yếu khách quan của sự đổi mới.

[*] Tiến sĩ triết học, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Makerting.



Bình luận

Video liên quan

Chủ Đề