Các biện pháp rèn kỹ năng tạo lập văn bản viết cho học sinh Tiểu học

Home Forums > Khoa Học Xã Hội > Chuyên Ngành Giáo Dục >

Tags:

(You must log in or sign up to reply here.)

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

     I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

     Trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến giáo dục, xem giáo dục là quốc sách hàng đầu. Việc đổi mới nội dung chương trình cũng như phương pháp dạy học và giáo dục là một đòi hỏi khách quan đối với nền giáo dục nước nhà trong giai đoạn hiện nay. Đáp ứng đòi hỏi đó giáo dục chủ trương nhấn mạnh mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn diện, có đức, có tài, có khả năng thích ứng với đời sống, biết vận dụng sáng tạo những kiến thức đã học vào đời sống học tập cũng như đời sống xã hội. Người công dân được đào tạo là người công dân Việt Nam của thế kỉ XXI, thích ứng với mọi yêu cầu cấp bách trong thực tiễn cách mạng xã hội và khoa học công nghệ.

     Chương trình Tiếng Việt mới bậc Tiểu học gồm các phân môn: Tập đọc; Kể chuyện; Tập làm văn; Luyện từ và câu; Chính tả; Tập viết. Phân môn Tập làm văn là một phân môn có vai trò quan trọng trong việc dạy học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là một môn khó dạy trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học. Dạy phân môn Tập làm văn được tốt tức là người giáo viên đã thâm nhập cả chuỗi kiến thức từ các phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Chính vì thế mà phân môn Tập làm văn có tính chất tổng hợp, là kết quả lĩnh hội các kiến thức của môn Tiếng Việt. Trong chương trình Tiểu học hiện nay, mục tiêu chính của môn Tiếng Việt là hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đặc biệt ở lớp 3, phân môn Tập làm văn rèn bốn kỹ năng: nói, nghe, đọc và viết. Trong giờ tập làm văn học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn bản. Bên cạnh đó học sinh còn tập kể lại được những mẫu chuyện được nghe thầy, cô kể trên lớp. Qua từng nội dung bài dạy, phân môn Tập làm văn nhằm bồi dưỡng thái độ ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh tốt đẹp cho học sinh.

     Như vậy, Tập làm văn là một phân môn thực hành của môn Tiếng Việt ở Tiểu học, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình. Thực hiện nhiệm vụ rèn luyện kĩ năng sinh sản văn bản ở dạng nói hay viết, phân môn Tập làm văn đồng thời góp phần cùng các môn học khác rèn luyện về tư duy, phát triển ngôn ngữ và hình thành nhân cách cho học sinh.

     Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học đòi hỏi người giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh để giờ học diễn ra tự nhiên nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm, biết dẫn dắt, gợi mở đưa học sinh giải quyết các tình huống và thông qua việc xử lí các tình huống đó học sinh lĩnh hội được kiến thức bài. Qua thực tế công tác giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 3 trong trường Tiểu học và qua các tiết dự giờ, học hỏi đồng nghiệp, tôi mạnh dạn viết đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3”.

     II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

     Khi mới sinh ra, trong tiềm thức của trẻ em đều trong trắng, thơ ngây. Lớn lên dần theo thời gian, các em dần học được ngôn ngữ  từ ông bà, cha mẹ. Khi bước vào ngưỡng cửa trường Tiểu học các em đã có chút ngôn ngữ và vốn sống từ người thân. Nhưng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết cần trau dồi và phát triển như thế nào lại phần lớn nhờ sự hướng dẫn, tổ chức rèn luyện từ phía các thầy cô giáo. Cứ từng ngày từng ngày một các thầy các cô sẽ làm cho vốn từ ngữ của các em đầy dần, các em sẽ tự tin hơn trong việc giao tiếp cũng như trong tạo lập các văn bản. Để làm được điều này không chỉ ngày một, ngày hai mà cả một quá trình bền bỉ, lâu dài, kiên trì và sáng tạo.

     Lâu nay chúng ta vẫn băn khoăn trước cách nói, cách diễn đạt của các em rất nghèo nàn về từ ngữ và thiếu cảm xúc khi viết một bài tập làm văn. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung. Chính vì vậy tôi muốn đưa Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn để giúp các em “nói được lời hay” và “viết được những câu văn giàu hình ảnh, có cảm xúc đúng theo yêu cầu bài”.

     III. ĐỐI TƯỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

     * Đối tượng phạm vi nghiên cứu:

     - 55 học sinh lớp 3A8, Trường Tiểu học Vĩnh Hưng – Quận Hoàng Mai – Hà Nội (Năm học 2018 – 2019)

     IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

     Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu, đề xuất những biện pháp giúp giáo viên dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3 đạt hiệu quả hơn. Việc đổi mới phương pháp dạy của giáo viên  góp phần quan trọng trong việc  đổi mới cách học của học sinh, giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy hết khả năng tư duy ngôn ngữ của học sinh, rèn cho học sinh  kĩ năng nói – viết đoạn văn giàu hình ảnh. Tôi viết đề tài này với mong muốn qua đề tài này góp phần nâng cao chất lượng dạy của giáo viên , từ đó nâng cao chất lượng học của học sinh ở phân môn Tập làm văn.

   Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:

1 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.

2 - Phương pháp phân tích, tổng hợp.

3 - Phương pháp điều tra, khảo sát

4 - Phương pháp luyện tập, thực hành

5 - Phương pháp thực nghiệm

6- Phương pháp trao đổi, tranh luận.        

     V. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU:

     - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019.

          B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

     I. CƠ SỞ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:

     1.Cơ sở lý luận :

     Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là:“Giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.

     Trong công cuộc đổi mới hiện nay, ngành giáo dục nói chung và giáo dục Tiểu học nói riêng cũng đòi hỏi có sự đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chính vì vậy cần  phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học một cách phù hợp.

     Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh tạo lập văn bản, góp phần dạy học sinh sử dụng Tiếng việt trong đời sống sinh hoạt. Để làm được một bài văn không những học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết mà còn phải vận dụng các kỹ năng về Tiếng việt, về cuộc sống thực tiễn. Vì vậy Tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác.

      Trong quá trình dạy một tiết Tập làm văn, để đạt mục tiêu đề ra ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần phải có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế, khả năng nói và viết phải trôi chảy, lưu loát rõ ràng để người nghe hiểu được nội dung mình cần nói, cần viết. Đó chính là yêu cầu cần đạt trong việc rèn luỵên khả năng giao tiếp và góp phần đắc lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt và hình thành nhân cách con người Việt Nam.

     2.Cơ sở thực tiễn :

      Phân môn Tập làm văn lớp 3 cũng giống như phân môn Tập làm văn ở Tiểu học nói chung có nhiệm vụ rèn cho học sinh kĩ năng biết tạo lập văn bản, rèn 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Có thể nói Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn luyện tổng hợp, có tính chất tích hợp các phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản nói hoặc viết phù hợp với đề bài.

     Ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy hướng dẫn cho học sinh nói đúng, viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ đó phụ thuộc phần lớn vào việc dạy Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.

     Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt, rất nhiều học sinh không hứng thú học tiết học này một phần lớn do vốn từ còn hạn chế, khả năng diễn đạt chưa tốt, học sinh thường ngại đọc các câu chuyện cổ tích hay các tác phẩm văn học để củng cố vốn từ, mà ngược lại chỉ thích đọc truyện tranh. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập, do vốn từ còn hạn chế, khả năng tư duy ngôn ngữ và kĩ năng giao tiếp của các em còn nhiều lúng túng nên học sinh còn ngại nói vì vậy tiết học chưa đạt hiệu quả cao. Kết quả làm văn của các em chưa đáp ứng được yêu cầu.

      Với vai trò là một giáo viên đang dạy Tiểu học, trăn trở trước những khó khăn, hạn chế vừa nêu trên, bản thân tôi tự nhận thấy mình cần phải nghiên cứu, học hỏi thêm rất nhiều để mỗi giờ dạy Tập làm văn của mình ngày càng đạt hiệu quả cao, thu hút, khơi gợi được năng lực làm văn của từng học sinh.

     II.TỔNG QUAN CHƯƠNG TRÌNH DẠY TẬP LÀM VĂN LỚP 3:

     1/ Mục tiêu của phân môn Tập làm văn lớp 3:

      Để tiếp nối chương trình tập làm văn lớp 2 và chuẩn bị cho chương trình tập làm văn lớp 4 và lớp 5, phân môn tập làm văn lớp 3 có mục tiêu sau đây:

- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng nói, nghe, viết phục vụ cho việc học tập và giao tiếp. Cụ thể là:

+) Biết dùng lời nói phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp trong sinh hoạt gia đình, trong sinh hoạt tập thể. Biết giới thiệu các thành viên, các hoạt động của tổ, lớp.

+) Nghe - hiểu nội dung lời nói, ý kiến thảo luận trong các buổi sinh hoạt lớp. Nghe – hiểu và kể lại được nội dung các mẩu truyện ngắn, biết nhận xét về nhân vật trong các câu chuyện như:

Tôi cũng như bác.

Không nỡ nhìn.

Người bán quạt may mắn.

Nâng niu từng hạt giống….

+) Biết viết đơn, viết tờ khai theo mẫu, viết một bức thư ngắn để báo tin tức, để hỏi thăm người thân hoặc kể lại một việc đã làm, biết kể lại nội dung một bức tranh đã xem, một văn bản đã học.

- Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.

     2/ Nội dung chương trình dạy học Tập làm văn lớp 3:

      Về cấu trúc phân môn Tập làm văn trong sách giáo khoa Tiếng việt 3 có 54 bài tập. Số lượng bài tập ít hơn so với sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 đối với phân môn Tập làm văn nhưng nội dung có hệ thống cao hơn lớp 2. Mỗi bài học được trình bày từ 1 đến 2 bài tập - gồm bài tập rèn luyện kỹ năng nói và bài tập rèn kỹ năng thực hành viết. Trong đó bài tập rèn kỹ năng nói chiếm hơn 70% nhất là kiểu bài “Nghe - kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết về một chủ đề”. Đối với hai dạng bài này thì nội dung được phân bổ như sau:

a) Dạng bài: “Kể hay nói, viết” về một chủ đề gồm có 16 bài tập như:

+) Nói về Đội Thiếu Niên Tiền Phong Hồ Chí Minh.

+) Nói về thành thị hoặc nông thôn.

+) Nói về quê hương.

+) Nói, viết về cảnh đẹp đất nước.

+) Nói về một ngày hội...

b) Dạng bài: “Nghe -Kể lại chuyện” gồm có 10 bài tập như :

+) Nghe - kể: Dại gì mà đổi.

+) Nghe - kể: Không nỡ nhìn.

+) Nghe - kể: Tôi cũng như bác.

+) Nghe - kể: Giấu cày...

Nhưng năm học 2011-2012, áp dụng chương trình giảm tải của Bộ Giáo dục và Đào tạo (áp dụng từ ngày 19/9/2011) thì đã cắt bỏ một số bài tập không yêu cầu học sinh làm đó là:

+) Nghe - kể: Tôi có đọc đâu (TLV tuần 11).

+) Nghe - kể: Tôi cũng như bác (TLV tuần 14).

+) Nghe - kể: Giấu cày (TLV tuần 15).

+) Nghe - kể: Kéo cây lúa lên (TLV tuần 16).

Như vậy dạng bài này trong chương trình Tập làm văn Lớp 3 dạy 6 bài tập còn lại. Nội dung kiến thức và yêu cầu rèn luyện kỹ năng ở phân môn Tập làm văn lớp 3 khá khó, nhiều bài tập mang tính thực hành từ thực tế xung quanh các em như:

+) Kể về gia đình mình.

+) Nói, viết về thành thị hoặc nông thôn.

     Qua đó học sinh hình thành được các kỹ năng tạo lập văn bản (từ chỗ nói theo những câu hỏi gợi ý hoặc kể về gia đình, người thân đến viết một văn bản trọn vẹn). Muốn dạy Tập làm văn cho học sinh có hiệu quả, giáo viên cần nắm rõ mục tiêu, nội dung bài học, lựa chọn và phối hợp các phương pháp dạy học; các hình thức dạy học sao cho phù hợp với yêu cầu của từng bài. Có như thế mới nâng cao được chất lượng giờ học, bồi dưỡng được những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp cho học sinh. Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ đưa ra một số kinh nghiệm nhỏ giới hạn trong việc vận dụng phương pháp và hình thức dạy học phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả cho học sinh khi học các dạng bài: “Nghe - kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết về một chủ đề” trong phân môn Tập làm văn lớp 3 ở trường Tiểu học hiện tôi đang giảng dạy.

     III. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC TẬP LÀM VĂN LỚP 3

     1. Ưu điểm:

Giáo viên:

+) Đã có ý thức lập kế hoạch dạy học, đảm bảo mục tiêu của mỗi tiết học, phương pháp dạy theo đặc trưng của phân môn tập làm văn.

+) Trau dồi tiếp thu học hỏi các tiết dạy của đồng nghiệp trong tổ khối để vận dụng vào giảng dạy phân môn tập làm văn.

+) Có sự chuẩn bị cho tiết dạy như: tranh ảnh minh họa, giáo án điện tử,…phù hợp cho tiết dạy.

Học sinh:

+) Biết dựa vào gợi ý để viết được bài văn theo đúng yêu cầu.

+) Có kĩ năng nói, viết một bài văn.

     2. Nhược điểm:

Giáo viên:

+) Trong tiết học, giáo viên quá chú trọng vào khâu truyền thụ kiến thức, xem nhẹ việc thực hành rèn luyện kĩ năng nói - viết cho học sinh theo các đối tượng khác nhau.

+) Khi tổ chức các hoạt động trong giờ học, giáo viên chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm. Hình thức tổ chức dạy còn nghèo do giáo viên chưa thực sự đầu tư vào chất lượng của bài soạn.

 +) Giáo viên chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng các phương pháp dạy học và hình thức dạy học khác nhau vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo một quy trình áp đặt rập khuôn, chưa chú trọng sửa lỗi cho học sinh trong quá trình nói – viết.

Học sinh:

+) Học sinh lớp 3 các em vẫn đang ở lứa tuổi tò mò, ham học hỏi hay bắt chước nhưng lại chóng chán, nhanh quên, ngại tìm hiểu những văn bản dài và khó như tập làm văn, các em còn học thụ động, bắt buộc, trong giờ học còn tỏ ra uể oải,  mệt mỏi không thích học môn Tập làm văn.

+) Việc tổ chức học tập trên lớp của giáo viên chưa phát huy được vốn ngôn ngữ vốn có của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin trong học tập.

+) Khả năng tự tin nói trước lớp của các em không tốt, nhiều em còn thiếu tự tin, ngại nói trước lớp. Nhiều học sinh không tự tin giơ tay phát biểu trong giờ học, nếu được cô gọi thì miễn cưỡng đứng lên trả lời. Còn nhiều học sinh lại không dám sáng tạo khi viết văn thường dập khuôn vào gợi ý mẫu nên bài viết thiếu sự mềm mại và hay.

+) Học sinh không được rèn luyện nói trước lớp thường xuyên nên khi bạn nói cũng không tập trung nghe. Vì vậy khả năng phân tích nhận xét đánh giá bài bạn còn yếu chưa nói gì đến việc chữa lỗi giúp nhau.

+) Vốn từ ngữ, vốn sống, vốn hiểu biết của các em hạn hẹp, chưa kể đến một số bài nội dung chưa gần gũi với học sinh như: lễ hội, buổi biểu diễn nghệ thuật, buổi thi đấu thể thao…

+) Khả năng viết của học sinh còn hạn chế do học sinh mới chỉ dừng ở mức độ trả lời câu hỏi gợi ý, chưa có ý tưởng phong phú, sáng tạo. Do vậy bài của các em còn sơ sài, chưa biết sử dụng các hình ảnh so sánh hay nhân hóa để câu văn sinh động, gần gũi. Trong tiết “Nghe - kể lại chuyện” nhiều em còn chưa kể lại được chuyện mặc dầu chuyện đó ngắn, tình tiết ít. Khi “Kể hay nói, viết về một chủ đề” nào đó theo các gợi ý ở sách giáo khoa thì các em diễn đạt còn lúng túng, vẫn còn học sinh yếu không nói (viết) được bài hoặc nói (viết) rất chậm.

  - Tập làm văn là một phân môn khá khó trong môn Tiếng Việt lớp 3. Giáo viên muốn dạy tốt phân môn này cần có thời gian chuẩn bị bài trước khi lên lớp thật kĩ, để đưa ra được các hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi mở cho học sinh, cuốn hút học sinh vào các hoạt động. Học sinh cũng cần có sự chuẩn bị, xem trước bài để hạn chế sự lúng túng, sơ sài và lủng củng trong cách diễn đạt. Nhưng thực tế cho thấy, còn rất nhiều học sinh cảm thấy không hứng thú với tiết học này, còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc diễn đạt rõ nghĩa, thoát ý và lủng củng.

    Đầu năm học 2018-2019 qua các bài kiểm tra khảo sát tôi thấy học sinh còn gặp nhiều khó khăn khi viết văn. Diễn đạt bài văn còn thiếu ý chưa tập trung đi vào đúng yêu cầu của đề bài.

*Kết quả thu được của lớp tôi trong đầu năm học 2018 - 2019 như sau:

Nội dung khảo sát với 55 học sinh

Kết quả đạt được

Đầu năm học

SL

%

Biết viết câu, dùng từ hợp lí

27

49,1

Biết nói, viết thành câu

36

65,4

Biết dùng từ, câu văn có hình ảnh

15

27,3

Biết trình bày đoạn văn

47

85,4

      Qua bài kiểm tra của học sinh, tôi rút ra được một số những ưu điểm, nhược điểm sau:

*Ưu điểm:

- Bài viết của học sinh nắm được yêu cầu của đề bài, trình bày đoạn văn đúng hình thức.

- Nội dung bài viết rõ ràng, đúng ý, học sinh diễn đạt văn phù hợp với đề bài.

- Một số học sinh đã biết sử dụng từ, câu văn hay giàu cảm xúc khi viết văn tả cảnh đẹp.

*Nhược điểm:

Bài viết của học sinh còn gặp những hạn chế sau:

- Một số bài ý văn còn nghèo, bài viết sơ sài.

- Diễn đạt còn vụng, lủng củng, từ ngữ lặp lại nhàm chán, còn sử dụng văn nói trong bài viết, diễn đạt chưa rõ nghĩa, chưa thoát ý.

- Từ ngữ dùng không chọn lọc, không có hình ảnh hay và sáng tạo trong bài văn.

- Vốn sống thực tế về nội dung liên quan đến bài viết rất hạn hẹp, không phong phú…

- Ngoài ra còn một số lỗi về chính tả.

Chính với những ưu điểm, nhược điểm trên của học sinh nên tôi và đồng nghiệp trong tổ khối rất băn khoăn trước kết quả dạy của giáo viên và chất lượng của học sinh, chúng tôi quyết định tìm hiểu để tìm ra nguyên nhân và hướng khắc phục cho tồn tại của học sinh.

     IV.CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 3:

     Trong một tiết Tập làm văn giáo viên không chỉ áp dụng duy nhất một phương pháp dạy học mà cần phải vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp với nhiều hình thức tổ chức khác nhau nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh để cuối cùng đạt được mục đích đó là học sinh hiểu bài và làm được bài.

      Sau đây là những biện pháp mà tôi đã vận dụng trong các tiết Tập làm văn của lớp mình :

Biện pháp 1 . Biện pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong các giờ học.

1.1: Biện pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong việc tích lũy vốn từ và lồng ghép kiến thức ở các phân môn khác để nói và viết tập làm văn .

Với thể loại nói - viết trong phân môn Tập làm văn lớp 3, học sinh được rèn luyện kĩ năng nói dựa trên những gợi ý ở sách giáo khoa và viết một đoạn văn ngắn khoảng 5 đến 6 câu với các chủ đề:

+) Nói về quê hương.

+) Nói về gia đình.

+) Nói về người lao động.

+) Kể về buổi biểu diễn nghệ thuật.

+) Kể vể lễ hội.

+) Kể về trận thi đấu thể thao.

+) Bảo vệ môi trường…

      Do khả năng tư duy của học sinh còn hạn chế, óc quan sát, trí tưởng tượng không phong phú lại chưa có vốn sống, vốn hiểu biết nhiều nên đa số các em chỉ biết trình bày đoạn văn một cách hạn hẹp theo nội dung đã gợi ý trong sách giáo khoa và của giáo viên đưa ra. Từ đó bài văn nói - viết nghèo nàn về ý, gò ép, thiếu sự hồn nhiên, sáng tạo. Ở lớp 3 mỗi một chủ điểm đều được học trong 2 tuần và có từ 1-2 tiết Tập làm văn là rèn kĩ năng nói - viết về một đề bài theo chủ điểm được học. Vì vậy, dạy Tập làm văn không được tách rời kiến thức với các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện có trong chủ điểm đó. Thông qua kiến thức của bài Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu… giáo viên cần dạy cho học sinh biết cách tích lũy vốn kiến thức, vốn từ ngữ, vốn hiểu biết, để vận dụng vào các bài Tập làm văn. Có thể nói mỗi bài Tập làm văn của một chủ điểm là tổng hợp hệ thống kiến thức của các phân môn từ: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả, của môn Tiếng Việt trong chủ điểm đó.

Ví dụ : Ở tuần 22 – chủ điểm Sáng tạo, tiết Tập làm văn có bài tập :

+)Bài 1 : Hãy kể về một người lao động trí óc mà em biết.

+)Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành một đoạn văn từ 7 đến 10 câu

- Tôi đã định hướng cho học sinh ngay khi dạy bài Tập đọc trong chủ điểm sáng tạo đó là bài: “Nhà bác học và bà cụ” để học sinh hiểu được nhà bác học

Ê – đi – xơn là một nhà bác học đại tài, ông là người nghiên cứu và phát minh ra rất nhiều công trình khoa học vĩ đại cho nhân loại, là người có tấm lòng yêu thương mọi người và luôn mong muốn mang đến những điều tốt nhất cho con người.

Ví dụ: Tôi đưa ra câu hỏi cho học sinh: Nhà bác học Ê- đi- xơn hoạt động trong lĩnh vực gì và công việc của ông thế nào? Học sinh dựa vào nội dung của bài tập đọc để trả lời câu hỏi. Sau đó tôi sẽ chốt lại nội dung cụ thể để học sinh nắm được.

- Không chỉ có vậy, ngay trong tiết Luyện từ và câu tôi cũng đã giúp học sinh hệ thống được các từ ngữ nói về chủ điểm “Sáng tạo” như những từ ngữ chỉ trí thức: bác sĩ, dược sĩ, nhà văn, nhà bác học,…và từ ngữ chỉ hoạt động của trí thức: nghiên cứu, chế tạo thuốc, khám bệnh,…mà các em có thể định hướng và vận dụng vốn từ ngữ vào nói, viết bài tập làm văn.

Ví dụ:

Chỉ trí thức

Hoạt động của trí thức

bác sĩ, dược sĩ, giáo viên, nhà văn, nhà bác học, kĩ sữ,…

khám bệnh, chế tạo thuốc, nghiên cứu khoa học,…

- Việc sử dụng và mở rộng vốn từ của học sinh cũng còn nhiều hạn chế, các em chưa chú ý cách sử dụng từ thế nào để diễn đạt được thoát ý và câu văn có hình ảnh hay. Có một số từ do được nghe và nói trong sinh hoạt hằng ngày thành quen thuộc, học sinh vẫn còn  sử dụng trong bài văn của mình.

Ví dụ: Trong bài Tập làm văn tuần 22 : “Nói, viết  về người lao động trí óc”, có học sinh viết: “Người lao động trí óc mà em kể là bác em. Bác là người làm nghề chữa bệnh ở bệnh viện. Bác toàn mặc áo màu trắng khi làm việc”.

- Để tránh tình trạng sử dụng từ ngữ như vậy nên năm nay ngay trong bài Tập đọc:“Ông tổ nghề thêu”;“Bàn tay cô giáo”;“Người trí thức yêu nước”;

“Nhà bác học và bà cụ”; hay trong các bài tập của phân môn Chính tả tuần 21, 22; bài Luyện từ và câu tuần 22, tôi đã cho học sinh tìm các từ ngữ chỉ trí thức và chỉ hoạt động của trí thức nhằm giúp các em tích lũy được vốn từ ngữ khi nói và viết về một người lao động trí óc. Sau khi học sinh học xong các tiết: Tập đọc; Luyện từ và câu bài: “Mở rộng vốn từ sáng tạo”; Chính tả, Kể chuyện,…thì học sinh đã có thêm vốn từ để chuẩn bị cho bài nói, viết về người lao động trí óc. Sau khi có sự chuẩn bị kĩ lưỡng cho tiết học thì học sinh đã thay đổi trong cách viết văn của mình.

Ví dụ: Bài văn của học sinh viết như sau:

“Bác Lan là một người lao động trí óc thầm lặng mà em kính trọng nhất. Năm nay bác đã ngoài 40 tuổi. Bác có dáng người dong dỏng cao và nước da trắng hồng. Hàng ngày bác làm việc ở bệnh viện Thanh Nhàn từ 6 giờ sáng cho đến 7 giờ tối bác mới về. Công việc của bác là khám và chữa bệnh cho các bệnh nhân. Bác luôn tận tình hỏi han bệnh nhân nhẹ nhàng và kĩ lưỡng để tìm ra phác đồ điều trị cho bệnh nhân nhanh khỏi bệnh. Khi tan làm về nhà bác Lan lại là một người phụ nữ đảm đang luôn chăm lo đến bữa ăn, giấc ngủ cho mọi người trong nhà rất chu đáo. Đêm đêm khi cả nhà ngủ bác lại ngồi hàng giờ trên máy tính và nghiên cứu sách vở để học hỏi các phương pháp chữa bệnh tiên tiến ở trên thế giới. Nhờ sự tận tâm với nghề mà bác đã cống hiến rất nhiều công trình nghiên cứu cho ngành Y để phục vụ đời sống của con người. Em rất tự hào về bác Lan và mong muốn mai sau sẽ học thật giỏi để trở thành một bác sĩ giỏi như bác.”

- Như vậy, để khắc phục được những hạn chế trên, giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt để từ đó giúp các em trang bị vốn kiến thức cơ bản cần thiết cho mỗi tiết học. Khi dạy các phân môn: Tập đọc, Chính tả, Tập viết Luyện từ và câu có nội dung phù hợp tiết Tập làm văn sắp học. Giáo viên cần dặn dò hướng dẫn học sinh quan sát tìm hiểu kĩ đối tượng cần nói đến và ghi chép cụ thể bằng hình ảnh, hoạt động ấy vào sổ tay. Với những sự việc hoặc hoạt động các em không được chứng kiến hoặc tham gia, giáo viên khuyến khích các em quan sát qua tranh ảnh, sách báo, trên tivi,…hoặc hỏi những người thân hay trao đổi với bạn bè. Khi được trang bị những kiến thức cơ bản như thế, học sinh sẽ có thói quen ghi nhớ và vận dụng kiến thức, vốn sống, vốn từ ngữ…vào các bài Tập làm văn . Các em có những ý tưởng độc lập, có thể trình bày được bài văn chân thực, sinh động và sáng tạo.

     1. 2 . Biện pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong việc tìm hiểu nội dung đề bài:

     Ở mỗi đề bài Tập làm văn , giáo viên cần cho học sinh tự xác định rõ yêu cầu các bài tập. Việc nắm vững yêu cầu giúp học sinh khi thực hành đi đúng hướng, không bị lạc đề. Bên cạnh việc nắm vững yêu cầu, giáo viên còn cần giúp học sinh nắm vững hệ thống câu hỏi gợi ý. Các câu hỏi gợi ý này sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn; học sinh dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu; từ đó giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc đủ ý, đúng từ, đúng ngữ pháp. Giúp học sinh nắm vững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình bày ý trùng lặp, chồng chéo, không có sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn.

Ví dụ: Tuần 26:“Kể về một ngày hội mà em biết” tôi cho học sinh xác định rõ yêu cầu của đề bài là kể về ngày hội. Sau đó tôi định hướng cho học sinh tìm hiểu các câu hỏi gợi ý bằng cách hỏi học sinh:

- Con định kể về hội gì?

- Hội đó được tổ chức ở đâu? Vào dịp nào?

- Con được đi xem hội với ai?

- Không khí chuẩn bị của hội thế nào?

- Mọi người đi xem hội thế nào? ví dụ như : Quần áo, nét mặt, biểu cảm…khi đi xem hội.

- Hội có những hoạt động gì?

- Có những trò chơi nào được tổ chức? ví dụ như: chơi cờ người, đấu vật, kéo co, nhảy múa, hát quan họ…

- Cảm nghĩ của con sau khi được xem hội thế nào?

Biện pháp 2 : Biện pháp hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn:

 - Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh khác nhau nên đa số bài văn của học sinh lớp 3 có ý tưởng chưa phong phú, sáng tạo, các em thường trình bày hạn hẹp trong khuôn khổ nhất định. Giáo viên cần giúp các em tìm ý để thực hành một bài văn nói- viết hoàn chỉnh về nội dung với những ý tưởng trong sáng giàu hình ảnh và ngây thơ chân thật. Để thực hiện được điều đó, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh một cách chặt chẽ  từ sự liên tưởng về các sự vật, các hoạt động. Từ đó học sinh dễ dàng tìm ý và diễn đạt bài văn rõ ràng, mạch lạc hơn.

  1. Hướng dẫn học sinh biết hồi tưởng:

- Trong một tiết Tập làm văn với một đề tài nào đó, học sinh có thể quên một số hình ảnh, sự việc… mà các em đã quan sát hoặc tìm hiểu qua thực tế. Giáo viên khơi gợi cho học sinh nhớ lại bằng những câu hỏi nhỏ,hình ảnh thực tế có liên quan đến yêu cầu bài tập, phù hợp với thực tế và trình độ học sinh để các em dễ dàng diễn đạt được đúng yêu cầu của đề tài.

- Ví dụ: Ở tuần 22 bài “Kể về một người lao động trí óc”, giáo viên gợi ý người đó làm nghề gì? Bao nhiêu tuổi? Công việc em thường thấy là gì?

  1. Hướng dẫn học sinh tưởng tượng, liên tưởng dựa trên kết quả đã quan sát:

- Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn đạt nội dung bằng những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính xác theo các gợi ý; bài làm như thế tuy đủ ý nhưng không có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy, với từng đề bài giáo viên nên có những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh liên tưởng, tưởng tượng thêm những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học sinh biết trình bày bài văn giàu hình ảnh, sinh động, sáng tạo.

Ví dụ: Ở tuần 29 : Kể lại một trận thi đấu thể thao

- Xem ảnh chụp buổi thi chạy đó, có học sinh nói:“Các vận động viên bắt đầu xuất phát với các bước chạy khỏe khoắn.” Cũng có học sinh khác nói:“Khi gần tới đích, các vận động viên dồn sức vào các bước chạy cuối cùng để cán đích.”

- Như vậy, cùng một tấm ảnh chụp nhưng mỗi học sinh lại có các cách liên tưởng khác nhau. Trí tưởng tượng ở học sinh lớp 3 rất hồn nhiên ngây thơ và ngộ nghĩnh, hơn nữa các em cũng đã được học về phép so sánh, nhân hóa cho nên cách liên tưởng của các em rất thú vị. Ngoài ra giáo viên có thể đưa thêm một số hình ảnh về các môn thi đấu thể thao khác để học sinh có thể tưởng tượng và viết được đúng yêu cầu, rõ ràng các ý của bài văn viết về một buổi thi đấu thể thao.

- Với phương pháp hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn giúp học sinh nắm được mục đích yêu cầu của bài, chủ động trao đổi với bạn, tích cực giơ tay trình bày khi nói, viết bài cũng mạch lạc, rõ ràng hơn.

Biện pháp 3 . Biện pháp rèn kĩ năng diễn đạt khi nói và viết cho học sinh:

a) Rèn kĩ năng nói cho học sinh:

- Do tâm lí lứa tuổi của học sinh lớp 3 và khả năng sử dụng từ ngữ, khả năng giao tiếp của các em trước đám đông chưa được tự tin, mạch lạc, còn nhiều sai sót về kĩ năng nói như: nói nhỏ, ấp úng, ngọng, nói lặp từ, nói ê a…Các ý văn rời rạc, không thoát ý khiến cho người nghe cảm thấy khó chịu, không hiểu được nội dung văn bản. Vì vậy tôi yêu cầu học sinh trình bày bài nói theo các bước sau:

+ Bước 1: Nói dưới hình thức trả lời theo các câu hỏi gợi ý (dành cho những học sinh trung bình)

+ Bước 2: Nói gộp từ 2 – 3 câu hỏi một lúc, có liên kết các câu với nhau

(dành cho học sinh khá)

+ Bước 3: Nói thành bài văn (dành cho học sinh giỏi)

- Khi học sinh nói tôi nhắc các em khác tập trung theo dõi, lắng nghe, tôn trọng người nói để cho bạn trình bày không bị mất bình tĩnh, nói được liền mạch, học sinh có thể theo dõi được lời nói của bạn trên cơ sở đó các em phát hiện ra những lỗi sai để sửa giúp bạn. Ngoài ra khi bạn nói thì các em có thể học tập những câu văn hay, sáng tạo để vận dụng vào bài làm của mình.

b)  Rèn kĩ năng viết cho học sinh:

- Nói được là sẽ viết được. Tuy nhiên giữa nói và viết một văn bản cũng có sự khác nhau. Khi nói, học sinh có thể được phép ê  a, sử dụng các từ :“à, ờ, thì, là, mà…”nhưng khi viết không cho phép học sinh sử dụng các từ như vậy, mỗi câu văn cần phải rõ ý, đủ thành phần chính của câu. Ngoài ra, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách trình bày một bài viết, cách dùng từ ngữ, viết câu chính xác, các ý diễn đạt có thứ tự hợp lý. Giáo viên cần phải khuyến khích, động viên, ghi nhận những học sinh có ý tưởng hay, bài viết sáng tạo để khen ngợi và nhân rộng đối với học sinh khác. Ngoài việc chú ý về nội dung , khi viết cũng cần chú ý tới hình thức trình bày, nhắc nhở học sinh về chữ viết, lỗi chính tả. Một bài văn viết tốt phải đảm bảo cả hai tiêu chí: nội dung và hình thức.

Biện pháp 4. Tìm hiểu nội dung câu chuyện và kể lại trong dạng bài Nghe – kể ở phân môn Tập làm văn Lớp 3:

- Đây là một dạng đề khá khó trong chương trình tập làm văn lớp 3. Ngữ liệu  học tập của dạng đề này phần lớn là các chuyện vui nên năm học này Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình giảm tải nhằm bỏ bớt một số bài tập không yêu cầu học sinh thực hành (Phần này đã được nêu ở trên). Trong sách giáo viên, hầu hết các tiết dạy dạng đề này được triển khai theo cùng một hướng như sau:

 +) Giáo viên kể chuyện 2 hoặc 3 lần.

 +) Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý chi tiết để học sinh làm điểm tựa nhớ lại nội dung chuyện.

 +) Một vài học sinh kể: Học sinh kể theo nhóm; Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp.

 - Để hoạt động của tiết học dạng đề trên đa dạng hơn, học sinh vui và tích cực học hơn, giờ học có hiệu quả hơn nhất là những học sinh trung bình và yếu. Tôi xin đề nghị thêm một số phương án dạy học như sau:

  Cách 1:

  - Cho học sinh xem tranh và đoán nội dung chuyện. Giáo viên ghi vài điều cơ bản (nhân vật, một vài sự kiện) mà học sinh đoán được lên bảng (cho học sinh làm việc toàn lớp hay nhóm).

 - Học sinh nghe giáo viên kể chuyện hai lần.

 - Học sinh đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung mình đã đoán để điều chỉnh những điều đã đươc ghi trên lớp (cho học sinh làm vào phiếu học tập).

 - Học sinh trao đổi về một vài điều thú vị trong chuyện hay ý nghĩa của chuyện.

 - Học sinh kể lại chuyện theo cặp (theo nhóm)

 - Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể)

 - Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung.

 Ví dụ: Nghe kể lại câu chuyện: Dại gì mà đổi  (BT1-TV3 - tập 1- tr36)

 - Nội dung câu chuyện trong SGV – TV3 – tập 1 - tr103

 1.Chuẩn bị

- Tranh vẽ ở SGK phóng to

- Phiếu bài tập: Em hãy xem tranh và đoán thử xem nội dung chuyện theo bảng sau và điều chỉnh lại khi nghe chuyện.

Câu hỏi gợi ý

a. Thử đoán nội dung

b. Điều chỉnh nội dung khi nghe kể

Câu chuyện có mấy nhân vật

.................................

................................

Họ đang làm gì?

..................................

................................

Người mẹ đã nói với con điều gì? người con  trả lời mẹ ra sao?

..................................

……………………...

................................

……………………

 Kết quả câu chuyện như thế nào?

..................................

................................

  2. Cách tiến hành:

   - Giáo viên treo tranh vẽ trên bảng, chia nhóm học sinh và phát phiếu học tập cho các nhóm, cho học sinh đọc yêu cầu của bài tập ghi trên phiếu và tiến hành làm bài tập a.

- Giáo viên theo dõi và gọi đại diện các nhóm nêu một số ý và giáo viên ghi lên bảng.

- Giáo viên kể chuyện 2 lần (nội dung chuyện có trong SGV) học sinh đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung mình đã đoán để điều chỉnh ở phần b của bài tập.

  Ví dụ:

Câu hỏi gợi ý

a. Thử đoán nội dung

b. Điều chỉnh nội dung khi nghe kể

Câu chuyện có mấy nhân vật

Chuyện có hai nhân vật

Chuyện có hai nhân vật

Họ đang làm gì?

Họ đang nói chuyện với nhau

Người mẹ dọa sẽ đổi cậu bé để lấy một đưa con ngoan về nuôi.

Người mẹ đã nói với con điều gì? người con  trả lời mẹ ra sao?

Người mẹ nói với con phải ngoan, nghe lời mẹ.  Người con  ngồi im lặng.

Người mẹ nói sẽ đối con để lấy đứa con ngoan về nuôi. Người con trả lời với mẹ là mẹ chẳng bao giờ đổi được đâu vì không ai dại gì mà đổi đứa con ngoan lấy đưa con nghịch ngợm cả.

Kết quả câu chuyện như thế nào?

Người con không nghe lời mẹ

Dại gì mà đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch.

- Giáo viên bao quát lớp, kèm cặp thêm cho học sinh trung bình và yếu

- Cho học sinh trao đổi về một điều thú vị trong truyện hay nêu ý nghĩa chuyện: câu chuyện buồn cười ở chỗ nào? (Chuyện buồn cười vì cậu bé nghịch ngợm mới 4 tuổi cũng biết rằng không ai muốn đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm.) Giáo viên chốt lại nội dung: Không ai dại gì mà đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm cả.

- Cho học sinh kể lại chuyện theo nhóm.

- Đại diện nhóm kể lại trước lớp. Học sinh nhận xét bổ sung, giáo viên nhận xét chung.

Cách 2: Giáo viên kể một phần đầu của câu chuyện sau đó đặt câu hỏi đề nghị học sinh đoán sự kiện gì có thể xảy ra tiếp theo. Giáo viên ghi một vài ý học sinh đoán lên bảng.

- Học sinh nghe giáo viên kể tiếp rồi trao đổi đối chiếu điêu được nghe với điều đã đoán để điều chỉnh phần được ghi trên bảng.

- Giáo viên kể lại chuyện 2 lần đề nghị học sinh nêu thêm một số tình tiết nữa phần đầu của truyện (ở hoạt động này giáo viên có thể dùng thẻ từ ghi các sự kiện thể hiện trong phần đầu của ttruyện và học sinh chọn đưa vào dàn ý đã có trên bảng).

- Học sinh trao đổi về ý nghĩa hoặc một vài chi tiết thú vị trong chuyện.

- Học sinh kể lại chuyện (theo nhóm hay cặp)

- Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp.

- Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung và nhận xét chung.

Ví dụ minh hoạ: Nghe kể lại chuyện: Dại gì mà đổi. (BT1-TV3 - tập 1- tr36)

  Nội dung câu chuyện trong SGV – TV3 – tập 1 - tr103

1.Chuẩn bị: Tranh vẽ ở SGK phóng to

2.Cách tiến hành:

- Giáo viên treo tranh vẽ lên bảng

- Giáo viên kể phần đầu của chuyện kết hợp chỉ tranh: “Có một cậu bé 4 tuổi nhưng rất nghịch ngợm. Một hôm, mẹ cậu doạ sẻ đổi cậu để lấy một đứa trẻ ngoan về nuôi.”

- Giáo viên hỏi: Các em thử đoán xem cậu bé trả lời như thế nào?

- Giáo viên ghi một vài ý học sinh đoán lên bảng:

Ví dụ :

+ Cậu bé òa khóc.

+ Cậu bé hét lên.

+ Cậu bé mừng rỡ.

+ Cậu bé không đồng ý đổi.

- Giáo viên kể tiếp câu chuyện và cho học sinh đối chiếu điều được nghe với điều đã đoán để điều chỉnh phần ghi ở bảng.

- Giáo viên kể chuyện lần 2, đề nghị học sinh nêu lên một số tình tiết nửa phần đầu của chuyện. Giáo viên có thể đưa lên một số thẻ từ ghi một số tình tiết của chuyện.

Ví dụ: 

+ Mẹ sẽ chẳng đổi được đâu!

+ Vì sao thế?

+ Chẳng ai muốn đổi đứa con ngoan để lấy đứa con nghịch.

- Học sinh trao đổi về ý nghĩa hoặc một vài chi tiết thú vị của chuyện

- Học sinh kể lại chuyện (theo nhóm hay cặp) kết hợp câu hỏi  gợi ý ở SGK.

- Đại diện vài nhóm học sinh kể trước lớp.

- Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung.

  Cách 3:

- Giáo viên kể chuyện lần 1 kết hợp hướng dẫn học sinh nắm các nhân vật có trong chuyện.

- Giáo viên kể lần 2, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện trong các khung  còn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu (có thể cho học sinh làm việc theo nhóm hay theo cặp đôi) có thể đánh số hay vẽ mũi tên. Giáo viên có thể để trống tất cả các ô hoặc viết sẵn ý trong một vài ô. Các ô khác học sinh nghe rồi hoàn thành. Sơ đồ trình tự câu chuyện  như sau:

     Sau khi hoàn thành sơ đồ trình tự câu chuỵện, học sinh trao đổi sửa chữa.

- Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện theo nhóm (hay cặp).

- Đại diện nhóm kể lại trước lớp.

- Học sinh trao đổi ý nghĩa câu chuyện, cả lớp theo dõi nhận xét, giáo viên bổ sung nhận xét chung.

Ví dụ minh hoạ: Nghe - kể lại chuyện: Không nỡ nhìn.(BT1- SGK - TV3 - Tập 1 - Tr.61)

  - Nội dung câu chuyện trong SGV – TV3 – tập 1 - tr103

1.Chuẩn bị :

- Tranh vẽ ở sách giáo khoa phóng to

- Phiếu học tập: Sơ đồ trình tự câu chuyện

2.Cách tiến hành:

- Giáo viên kể chuyện lần 1 và hỏi học sinh: Câu chuyện có mấy nhân vật?

Ở đâu?

- Học sinh sẽ trả lời:

+ Câu chuyện có hai nhân vật.

+ Chuyện xảy ra trên chuyến xe buýt.

- Giáo viên kể chuyện lần hai, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện trong khung còn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu học tập.(Học sinh hoạt động theo nhóm 4)

 Ví dụ:

- Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện trong nhóm.

- Gọi đại diện các nhóm  kể chuyện trước lớp.

- Cả lớp theo dõi nhận xét diễn biến của chuyện, giáo viên bổ sung.

- Cho học sinh trao đổi về tính khôi hài của chuyện: Anh thanh niên trên chuyến xe buýt không biết nhường chổ cho người già, phụ nữ mà lại che mặt và giải thích rất buồn cười là không nở nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng.

- Cho học sinh liên hệ thực tế bản thân: Nếu gặp người như anh thanh niên trên chuyến xe đó thì em sẽ làm gì?

- Giáo viên nhận xét chung .

Cách 4: Giáo viên kể chuyện một lần và đề nghị học sinh cho biết: câu chuyện có mấy nhân vật? giáo viên phác hoạ hình các nhân vật đó lên bảng (bằng cách vẽ ô tròn và trên đó ghi tên nhân vật)

Ví dụ: Nghe kể lại chuyện “Người bán quạt may mắn”

- Học sinh nghe giáo viên kể chuyện lần 2 rồi viết xung quanh nhân vật một số từ hay cụm từ thể hiện hành động hay suy nghĩ của nhân vật (xây dựng mạng câu chuyện). Nếu học sinh có khó khăn thì giáo viên đặt một số gợi ý.

- Học sinh trao đổi điều chỉnh mạng câu chuyện (theo nhóm). Một số học sinh nhìn mạng câu chuyện rồi kể lại chuyện trước lớp.

- Học sinh dựa vào mạng câu chuyện để kể lại chuyện theo cặp (hay nhóm).

Học sinh thảo luận theo ý nghĩa của chuyện.

Ví dụ minh hoạ: Nghe kể lại chuyện: Người bán quạt may mắn (BT1-TV3 -Tập 2-Tr56)

- Nội dung câu chuyện ở sách giáo viên TV3- Tập 2.

     1. Chuẩn bị:

+)Phiếu bài tập xây dựng mạng câu chuyện :

    2. Cách tiến hành:

- Giáo viên kể lần một và hỏi học sinh: câu chuyện có mấy nhân vật? Học sinh trả lời, giáo viên treo bảng phụ có ghi mạng câu chuyện lên bảng.

- Giáo viên kể lần 2 rồi yêu cầu học sinh xây dựng mạng câu chuyện theo nhóm. Nếu học sinh có khó khăn giáo viên nêu câu hỏi gợi ý như sau:

   + Bà lão bán quạt gặp ai và phàn nàn điều gì?

   + Ông Vương Hi Chi viết chữ vào những chiếc quạt để làm gì?

   + Vì sao mọi người đua nhau đến mua quạt?

    - Học sinh thảo luận rồi điều chỉnh mạng câu chuyện, có thể như sau:

- Gọi một vài học sinh nhìn mạng kể lại chuyện cho cả lớp nghe. Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung và động viên khuyến khích các em là chính.

- Học sinh dựa vào mạng câu chuyện để kể lại theo nhóm, giáo viên kèm cặp giúp đỡ học sinh trung bình và yếu.

- Đại diện nhóm kể trước lớp. Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung. Giáo viên hỏi học sinh: Qua câu chuyện này, em biết gì về Vương Hi Chi? (Giáo viên nói thêm: Vương Hi Chi là một người có tài và nhân hậu, biết cách giúp đỡ người nghèo khổ).

- Cả lớp và giáo viên bình chọn bạn kể chuyện hay nhất, hiểu câu chuyện nhất.

     * Một số lưu ý khi dạy dạng bài trên:

- Có rất nhiều cách để tiến hành giờ học dạy dạng bài “Nghe - kể lại chuyện”. Giáo viên có thể tuỳ vào tình hình của lớp, trình độ học sinh để chọn cách dạy phù hợp nhất.

- Cho dù dạy theo cách nào, giáo viên cũng phải có sự chuẩn bị bài trước (Tranh ảnh phục vụ nội dung chuyện hoặc xây dựng mạch câu chuyện: Phiếu bài tập) để giờ học sinh động, gây hứng thú học tập cho học sinh hơn.

- Chú ý giao việc cho học sinh rõ ràng đặc biệt là khi hoạt động nhóm và nên theo dõi kèm cặp thêm cho học sinh trung bình và yếu, tạo cho các niềm tin, mạnh dạn hơn trong học tập.

Biện pháp 5. Tập cho học sinh cách kể hay, nói, viết về một chủ đề ở phân môn Tập làm văn Lớp 3:

*Mục đích: Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt bằng lời nói (viết) về một chủ đề nào đó: Nói viết về thành thị hoặc nông thôn; Kể về gia đình ; Kể về một buổi thi đấu thể thao...

   Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý ở mỗi đề, chúng ta có thể thấy dạng đề này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tưòng thuật, thuyết minh và phát biểu cảm nghĩ. Trong sách giáo viên, các kiểu đề này chủ yếu được tiến hành theo một trình tự như sau:

- Giáo viên giới thiệu bài

- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài:

+ Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập

+ Giáo viên cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ thống câu hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.

+ Một hoc sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét

- Học sinh tập nói theo tổ (nhóm).

- Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét.

- Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết.

   Theo tôi khi dạy dạng đề này ngoài phương án được nêu trên trong sách giáo viên, giáo viên có thể sử dụng mạng ý nghĩa để giúp học sinh tìm kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng tạo cho các em sự mạnh dạn tự tin trong học tập.

  Sử dụng “Mạng ý nghĩa” là như sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện pháp dạy học cụ thể - Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như những ý tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học trong SGK.

*Tiến trình thực hiện phương pháp mạng ý nghĩa:

 Hoạt động 1 : Tìm hiểu đề:

- Học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong trí nhớ đồng thời biết đối tượng đó là ai? Là gì? ở đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ đề. Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là chúng.

- Để thực hiện hoạt động này giáo viên có thể sử dụng một trong các bước sau:

+) GV trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị học sinh nhắm măt nghĩ về đối tượng,

+) Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề hay đề tài.

+) Kể một mẫu chuyện nhỏ kết hợp đặt câu hỏi hướng học sinh đến đề tài.

+) Dùng tranh ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học sinh tự sưu tầm.

+) Cho học sinh tô màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên cung cấp) liên quan đến đề tài.

+) Sử dụng mô hình (khung ngôi nhà, khung ngôi trường ...). Trên nền khung giáo viên hướng dẫn  học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào .

+) Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ các bài làm của học sinh.

  Hoạt động 2: Tìm ý:

- Học sinh tập trung động não nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến đối tượng ấy. Khi tiến hành hoạt động này giáo viên cần sử dụng  một trong các bước sau:

+) Sử dụng hệ thống câu hỏi để kích thích và định hướng cho học sinh phát triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh nghiệm riêng của các em.

Ví dụ: Đối với văn miêu tả, câu hỏi có thể được triển khai theo hướng mở sau: Em thấy gì? Em nghe gì? Em nghĩ gì? Em cảm thấy gì?...

+) Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng (khung mạng ý nghĩa có thể được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo nội dung từng bài: Bông hoa, chùm bong bóng, mạng nhện, một cây với những cành lá...

+) Đối với học sinh lớp lớn đã quen với việc sử dụng mạng, giáo viên nên để các em tự nghĩ và viết ra các ý mà không cần đưa một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh.

+) Học sinh viết các ý dưới dạng từ hay cụm từ xung quanh chủ đề. Giáo viên tuyệt đối tránh viết chốt lại một số từ về đề bài. Cần xoá đi những ý đã được ghi lên bảng trong giai đoạn làm mẫu nghĩa là khi học sinh làm việc cá nhân trong phiếu học tập thì trên bảng chỉ còn lại khung mạng trống.

 Hoạt động 3: Lập dàn ý: Sắp xếp ý đã có trong mạng.

- Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được, lưu ý trình tự chung của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tích chất mở (đoạn văn miêu tả thì lưu ý những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu tả chi tiết, cụ thể thì nói sau).

- Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.

- Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp để cả lớp theo dõi việc làm mẫu của một số học sinh. Ngoài khung mạng làm mẫu, giáo viên vẽ sẵn trên bảng các mạng tương tự và che chúng lại. Sau khi học sinh đã tìm ý và hình thành mạng ý nghĩa trong phiếu bài tập, giáo viên cho một số em lên thể hiện  lại ý của mình vào các khung mạng trên bảng.

 Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới dạng nói hay viết:

- Nếu là bài tập nói, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đôi là tốt nhất.

- Nếu là bài tập viết, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ ngữ xoay quanh mạng ít nhất một câu.

- Hình thành và phát triển “môi trường tư liệu ở lớp học” để giúp học sinh có điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi tìm ý và ý thành bài:

+) Thu nhập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước.

+) Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày.

+) Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu nhập danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo khoa.

+) Tập cho học sinh có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử dụng từ hay trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu.

  Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét:

- Nếu là bài nói, cho vài nhóm học sinh thể hiện lại trước lớp rồi tổ chức trao đổi nhận xét và rút kinh nghiệm về cách nói phù hợp với yêu cầu của nội dung và thể loại của đề bài .

- Nếu là bài viết: Tổ chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình theo hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa)

  Hoạt động 6: Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hoàn chỉnh.

Ví dụ minh họa:

+)Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Tr92)

1.Chuẩn bị: Phiếu học tập

a.Hoàn thành bảng dưới đây:

Tên bài đọc

Quê hương là...

Chi tiết làm em xúc động nhất

Giọng quê hương

......................................

......................................

...................................................................................

Quê hương

.....................................

.....................................

..........................................

…………………………..

Đất quý, đất yêu

.....................................

.....................................

...................................................................................

Vẽ quê hương

.....................................

.....................................

....................................................................................

Chõ bánh khúc của dì tôi

.....................................

.....................................

....................................................................................

b. Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý.

  Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:

+ Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.

+ Là nơi mình sinh ra và lớn lên.

+ Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ,  có thể nếm.

+ Là cái gì đó mà khi xa mình thấy nhớ thương.

c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:

      Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?

2. Cách tiến hành:

 Hoạt động 1 : Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý tưởng để nói. Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)

- GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ sung hoàn thành bài tập.

Hoạt động 2: HS tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà mình đang nghĩ tới.

- GV treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để kích thích học sinh hồi tưởng.

- HS làm vào giấy nháp; GV đồng thời gọi hai em làm vào bìa phụ ghi vào khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưu ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ)

 Ví dụ:                    

                      ngôi nhà                  vườn bách thú                thành phố

                      con sông                      Quê hương em              cây đa, giếng nước       

                     nông thôn                  đường phố                 nhà cao tầng

  Hoạt động 3: HS đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, GV hướng dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.

-  GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý HS trung bình và yếu để giúp các em điều chỉnh.

 Hoạt động 4: HS nhìn mạng của mình và nói: Cho hai em nói mẫu trước lớp.

 Ví dụ :

+) Em sinh ra và lớp lên ở nông thôn. Quê hương em thật là đẹp. Ở đó có cây đa cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà em là con sông quê hương. Em rất thích tắm mình dưới con sông ấy khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình.

 +) Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em thường được bố mẹ dẫn đi xem vườn bách thú, được ngồi trên lưng chú voi con. Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này.

- Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.

Hoạt động 5 : Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc biệt lưu ý giúp học sinh yếu.

Hoạt động 6: HS nói thể hiện trước lớp:

- GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp ( không nhìn mạng ý nghĩa). Nếu là học sinh yếu, GV cho học sinh nhìn mạng để nói.

- Tổ chức cho HS thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến khích HS tự tìm đặt  thêm  câu hỏi mở rộng. GV nhận xét chung.

+)Ví dụ 2: Dạy bài : Kể về gia đình (BT1-TV3 -tập1- tr 28)

   Đối với bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh kỹ năng nói: Kể được một cách đơn giản về gia đình mình với một người bạn mới quen.

1.Chuẩn bị : Bảng phụ: Gia đình em có những ai? Làm công việc gì?Tính tình như thế nào? Tình cảm của em đối với gia đình?

2.Cách tiến hành :

 Hoạt động 1:

- Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể về gia đình mình cho bạn mới quen biết.

- Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình mình và viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến gia đình mình.

- Giáo viên treo bảng phụ lên bảng. Học sinh đọc thầm và hồi tưởng.

- Học sinh làm vào giấy nháp. Giáo viên gọi đồng thời hai em làm vào bảng phụ, ghi vào khung chủ đề cụm từ “gia đình mình” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của mình có được xung quanh chủ đề đó.

  Hoạt động 2: Học sinh đánh số thứ tự của mình vừa tìm được theo thứ tự 1,2,3...

 - Giáo viên bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp các em điều chỉnh.

  Hoạt động 3: Học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình và nói

 - Giáo viên gọi 2 em đại diện kể về gia đình mình trước lớp.

  Ví dụ: Gia đình tớ có 5 người : Bố mẹ tớ, anh Thắng, chị Hà và tớ. Bố tớ là công nhân nhà máy dệt. Mẹ tớ làm nhân viên bán hàng tại siêu thị. Anh Thắng, chị Hà đều là học sinh. Mẹ tớ rất hiền. Những lúc nhàn rỗi, mẹ tớ thường kể chuyện cho tớ nghe. Lúc nào về nhà, bố  cũng mua quà cho anh em chúng tớ. Gia đình tớ rất hạnh phúc.

- Cả lớp nhận xét,giáo viên sữa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu sai).

- Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp 3, chúng ta sử dụng bản đồ tư duy thay cho sơ đồ mạng ý nghĩa. Bản đồ tư duy là một phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để dạy tập làm văn, người giáo viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ ngữ phục vụ theo yêu cầu của từng chủ đề, đề bài. Giáo viên thiết kế bản đồ tư duy cần phải đảm bảo đúng kiến thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm mĩ để qua đó học sinh tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao hơn.

 -Ví dụ khi dạy đề bài: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Tr92), các bước đi như đã trình bày ở trên, giáo viên sử dụng bản đồ tư duy như sau thay cho việc sử dụng mạng ý nghĩa:

 Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu (các từ ngữ phục vụ cho đề bài) để hoàn thành bài nói về quê hương dễ dàng hơn.

Ví dụ 1: Quê hương em ở thành phố. Ở nơi đây có nhiều nhà cao tầng, xe cộ đông đúc, náo nhiệt. Những ngày nghỉ, em thường được bố mẹ dẫn đi xem công viên, đi siêu thị ăn kem thật là thích. Em rất yêu quê hương của mình.

Ví dụ 2: Nông thôn là nơi em sinh ra và lớn lên. Quê hương em thật là đẹp. Ở nơi đây có  những con đò chạy trên những dòng sông. Đầu làng có giếng nước trong veo, cây đa cổ thụ tỏa bóng che mát cả một vùng. Những ngày hè nóng nực, em thường được bố mẹ dẫn đi tắm mát dưới dòng sông. Em yêu quý nơi này biết bao.

 Hoặc khi dạy bài: Kể về gia đình (BT1-TV3 - tậpI - tr 28), giáo viên thực hiện các bước như sau:

 - Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể về gia đình mình cho bạn mới quen biết.

- Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình mình và viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến gia đình mình.

- Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh biết một số từ ngữ liên quan đến gia đình. Học sinh nhìn bản đồ tư duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng.

- Học sinh ghi vào giấy nháp về gia đình mình.

- Giáo viên gọi một vài em kể về gia đình mình cho cả lớp nghe.

- Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.

     * Lưu ý: Học sinh lớp 3 tư duy chưa nhanh, suy nghĩ để tìm ra các từ ngữ phục vụ cho đề bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ được bản đồ tư duy hoàn chỉnh. Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, giáo viên nên chuẩn bị bản đồ tư duy hoặc sơ đồ mạng ý nghĩa áp dụng vào giảng dạy. Đối với những học sinh khá giỏi, giáo viên cũng có thể hướng dẫn các em vẽ bản đồ tư duy trong một số bài học nhưng không yêu cầu quá cao đối với học sinh. Nếu học sinh vẽ được bản đồ tư duy phục vụ cho bài học thì giáo viên cần định lượng thời gian phù hợp để các em hoàn thành, tránh tình trạng lạm dụng vẽ rồi không đạt yêu cầu đề bài nêu ra.

     Biện pháp 6. Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá:

- Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá cũng là một trong những yêu cầu đặt ra cho giáo dục Tiểu học hiện nay. Việc chữa bài của học sinh không chỉ có duy nhất giáo viên làm mà cần để cho học sinh được tự kiểm tra, đánh giá cho nhau. Thông qua việc kiểm tra đánh giá bài của bạn, các em sẽ phát hiện ra những sai sót để sửa chữa, đồng thời phát hiện ra những từ, những ý, những câu hay của bạn để học hỏi. Để làm tốt khâu này , giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thể để học sinh có cơ sở lắng nghe và nhận xét bài của bạn. Từ nhận xét, học sinh có thể tự chữa lỗi hoặc giúp bạn chữa lỗi theo các hướng sau đây:

     a. Hướng dẫn phát hiện và sửa lỗi về từ:

- Trường hợp học sinh dùng từ chưa chính xác như các từ ngữ chưa phù hợp, nghĩa của từ chưa hay hoặc từ thông dụng địa phương…

Ví dụ : “Sáng sớm, mọi người ùa nhau ra đường đi làm, đi học” GV giúp HS thấy được dùng từ “ùa” ở đây là không phù hợp với ngữ cảnh, sau đó cho HS tìm ra từ hợp lý hơn để thay thế.

     b. Hướng dẫn phát hiện và sửa lỗi về câu:

- Học sinh nói viết câu chưa hay chưa đủ ý, giáo viên cần hướng dẫn học sinh sửa chữa bổ sung ý vào cho đúng; câu văn dài dòng ý chưa rõ ràng mạch lạc cần cho học sinh sửa sai lược bỏ ý dư, ý trùng lặp. Giáo viên khuyến khích học sinh tự sửa câu văn chưa hay của mình bằng những câu văn hay của bạn.

Ví dụ : “Trận thi đấu em kể là trận thi đấu bóng đá. Trận thi đấu diễn ra tại sân vận động Mỹ Đình vào tối chủ nhật tuần trước. Trận đấu giữa hai đội là Thái Lan và Việt Nam” Giáo viên hướng dẫn học sinh lược bớt từ hoặc dùng từ phù hợp để thay thế cho từ “trận thi đấu” để tránh lặp từ quá nhiều trong bài.

     c. Hướng dẫn phát hiện lỗi về hình thức một đoạn văn :

  - Với mỗi chủ đề của bài Tập làm văn, nếu học sinh trình bày đủ nội dung theo gợi ý đã cho thì bài văn của các em đạt yêu cầu về nội dung, còn về hình thức, một số em còn tự do xuống dòng, chưa đúng yêu cầu về hình thức của 1 đoạn văn, điều này giáo viên cũng rất cần lưu tâm .

     d. Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi về sự chặt chẽ liên kết trong đoạn văn

Ví dụ : Với gợi ý Kể về trận thi đấu thể thao, từng gợi ý phần mở đoạn có rời rạc, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh liên kết các ý với nhau, khi kể không theo trình tự từng ý nhưng vẫn đảm bảo nội dung và làm cho phần mở đầu đoạn sinh động, lôi cuốn người đọc hơn. Hoặc hướng dẫn học sinh dùng những câu mở đầu đoạn văn để nói hoặc kể một cách sáng tạo.

- Khi kể về một việc làm một hoạt động nào đó, giáo viên cần khuyến khích học

sinh sử dụng những từ liên kết câu thể hiện trình tự diễn biến của sự việc như: “đầu tiên”; “kế tiếp”; “sau đó”; “cuối cùng” để đoạn văn gắn kết chặt chẽ liên tục từng ý với nhau. Do đặc điểm lứa tuổi và trình độ từng đối tượng học sinh không đồng đều nhau nên các em chưa hiểu nhiều về từ, câu liên kết trong đoạn văn viết; vì vậy giáo viên cần hướng dẫn bằng những gợi ý giản đơn dễ hiểu, có thể cho học sinh khá giỏi làm mẫu để giúp các em trình bày tốt hơn đoạn văn viết của mình.

- Trong việc hướng dẫn học sinh sửa chữa bài viết, giáo viên cần đưa ra tiêu chí đánh giá cụ thể giúp học sinh phát hiện những đoạn văn hay, ý tưởng phong phú sáng tạo đồng thời phát hiện những hạn chế còn vấp phải trong bài viết. Từ đó học sinh có sự suy nghĩ đểsửa chữa cách diễn đạt ý tưởng trong bài viết của mình một cách hợp lí và sáng tạo.

Biện pháp 7 . Phối kết hợp với các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường để thực hiện tốt việc dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 3:

- Với việc phối kết hợp với các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường là việc cần thiết trong dạy và học phân môn Tập làm văn Lớp 3. Nhằm giúp các em có thêm vốn hiểu biết thực tế để vận dụng linh hoạt vào viết văn theo đúng yêu cầu của đề bài.

+) Đối với công tác Đội của nhà trường: Giáo viên tổng phụ trách sẽ tổ chức cho học sinh tham gia các tiết hoạt động tập thể theo các chủ đề như: tìm hiểu về các lễ hội và hoạt động có trong lễ hội; Các buổi biểu diễn văn nghệ chào mừng các ngày lễ như: ngày khai giảng, ngày 20/11, ngày 8/3,....Tất cả những hoạt động trong tiết hoạt động tập thể mà các em được quan sát,tìm hiểu thực tế cuộc sống sẽ là tư liệu để học sinh có thể vận dụng vào viết bài văn theo đề bài như: Kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật mà em được xem, Kể về một ngày hội mà em biết,...

+) Với môn Thể dục: Giáo viên bộ môn sẽ cho học sinh được học hỏi, quan sát và tham gia thi đấu các môn thể thao như: bóng bàn, võ thuật, nhảy dây, bóng rổ, bóng đá,...để từ đó hình thành cho học sinh có sự hiểu biết về các môn thể thao và biết vận dụng linh hoạt vào viết bài văn theo đề bài: Viết về một trận thi đấu thể thao. Chính nhờ sự quan sát thực tế một trận thi đấu thể thao qua tiết thể dục thì học sinh mới có thể viết được linh hoạt về một trận thi đấu thể thao mà mình đã được xem.

     V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:

     - Qua quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài và vận dụng các biện pháp mới trong việc dạy học phân môn Tập làm văn ở lớp 3A8 của tôi và phổ biến cùng các đồng nghiệp thực hiện trong toàn khối, chúng tôi nhận được kết quả rất khả quan. Qua các tiết dự giờ của đồng nghiệp trong khối dạy về Tập làm văn, tôi thấy khả năng nói của các em tiến bộ vượt trội. Nhiều em giơ tay xin được nói trước lớp, kĩ năng diễn đạt cũng tốt hơn, lỗi về từ, câu không nhiều, các em cũng rất mạnh dạn khi nhận xét và chỉ ra lỗi sai của bạn. Qua các đợt kiểm tra viết, bài viết của các em có chất lượng cao hơn, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn rõ ràng mạch lạc và giàu hình ảnh. Bản thân tôi không thấy mệt, căng thẳng khi dạy tiết tập làm văn nói - viết cho học sinh.

     * Kết quả thu được của lớp tôi trong năm 2018 - 2019 như sau:

Nội dung khảo sát với 55 học sinh

Kết quả đạt được 

GKI

CKI

GKII

SL

%

SL

%

SL

%

Biết viết câu, dùng từ hợp lí

32

58,1

40

72,7

42

76,3

Biết nói, viết thành câu

42

76,3

50

90,9

54

98,1

Biết dùng từ, câu văn có hình ảnh

20

36,3

30

54,5

39

70,9

Biết trình bày đoạn văn

50

90,9

53

96,3

54

98,1

Bài viết đạt điểm 10,9

39

70,9

43

78,1

47

85,4

     - Khi thực hiện theo phương pháp này, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi rất thích học phân môn Tập làm văn. Giờ học Tập làm văn đã trở nên nhẹ nhàng và cuốn hút học sinh tích cực hoạt động hơn. Những học sinh yếu kém, ít nhiều cũng biết làm được một bài văn và ngày càng tiến bộ hơn.Với những kinh nghiệm đã áp dụng ở lớp mình, tôi cảm thấy phương pháp này đã thực sự đạt hiệu quả.

     VI. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

     - Để nâng cao hiệu quả các giờ học Tập làm văn lớp 3 đặc biệt là với các dạng bài tập: “Nghe - kể lại chuyện”; “Kể hay nói, viết về một chủ đề”, theo tôi người giáo viên phải có trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy. Người giáo viên phải tìm ra những biện pháp thích hợp, tác động đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của bản thân mình. Qua đó các em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ học tập đúng đắn, người giáo viên cần lưu ý một số việc sau:

+) Nắm vững nội dung chương trình  môn Tiếng việt lớp 3, đặc biệt là các bài dạy Tập làm văn có trong chương trình để từ đó xâu chuỗi được các kiến thức cần cung cấp cho học sinh qua các giờ dạy.

+) Chuẩn bị kỹ bài dạy và xác định đúng trọng tâm của bài.

+) Trong từng tiết học cần vận dụng nhiều phương pháp và hình thức dạy học khác nhau, khắc sâu kiến thức bài giảng giúp mỗi học sinh đều hiểu và làm bài tập được ngay tại lớp.

+) Đối với các bài tập:“Nghe - kể lại chuyện”, giáo viên cần trau dồi giọng kể của mình, đảm bảo âm lượng vừa đủ, kể đúng ngữ điệu, biết nhấn giọng khi cần thiết đặc biệt là những câu chuyện có nhiều câu hội thoại.

+) Đối với mỗi dạng bài tập, giáo viên cần xác định đối tượng học sinh yếu và tìm nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không theo kịp bài để có biện pháp giúp đỡ kịp thời giúp các em có điều kiện và niềm tin học tiếp các bài học sau.

 +) Động viên khen thưởng kịp thời để gây hứng thú học tập cho học sinh.

 +) Việc tìm hiểu những khó khăn của học sinh và tìm ra được hướng để khắc phục những vướng mắc khi lĩnh hội tri thức mới là một điều không thể thiếu trong quá trình dạy học. Với việc tìm hiểu thực trạng dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 3, cùng với những giải pháp được đưa ra đã cho tôi một kết quả học tập của học sinh rất khả quan. Tìm hiểu những biện pháp phù hợp với từng nội dung bài học là yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi giáo viên khi lên lớp. Với đề tài này tôi mong góp một phần nhỏ bé vào trong kho tàng kinh nghiệm giảng dạy Tập làm văn trong môn Tiếng Việt lớp 3 nói riêng và trong cả bậc tiểu học nói chung.

- Qua việc thực hiện các giải pháp trên, tôi rút ra bài học sau:

+) Dạy học Tập làm văn giáo viên nên dạy theo phương pháp tích hợp các phân môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả,... Biết kết hợp mối quan hệ chặt chẽ về yêu cầu kiến thức phân môn Tập làm văn của các khối lớp.

+) Trong giảng dạy giáo viên có đầu tư nghiên cứu chuyên sâu nội dung bài dạy, phối hợp tổ chức linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng đổi mới.

+) Giáo viên có ý thức tự học, tham khảo các tài liệu, tạp chí, văn bản có liên quan đến chuyên môn và các dạng bài khó.

+) Động viên, khuyến khích học sinh tự học, tự tìm tòi; tận tâm sửa chữa sai sót trong từng bài văn cho học sinh.

+) Rèn cho học sinh có thói quen đọc sách báo, truyện phù hợp với lứa tuổi, tập ghi chép sổ tay những từ ngữ, câu văn hay các em đọc được ở sách báo và truyện.

+) Giúp học sinh tự tin, mạnh dạn phát biểu trong các hoạt động học tập, có kĩ năng trong giao tiếp ứng xử.

  • Hình thành cho các em thói quen học tập, làm việc một cách khoa học.

     K ẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

     I. KẾT LUẬN

     - Đề tài là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong giảng dạy phân môn Tập làm văn, giúp giáo viên từng bước nâng cao trình độ học sinh trong lớp học; giúp học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các em hoàn thành nhiệm vụ học tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn.

     - Việc sử dụng và hướng dẫn cụ thể thêm những cách viết đoạn văn ngắn  trên đã giúp cho học sinh dễ dàng sáng tạo, diễn đạt ý của mình. Trước đây, chúng ta còn bị gò ép trong việc dạy theo phân phối chương trình và thời khóa biểu đã được định sẵn nên việc phân bố bài học đôi khi còn rời rạc, còn hạn chế thời gian. Qua việc thực hiện đề tài này, tôi mong rằng bản thân mỗi giáo viên chúng ta khi đánh giá học sinh, chúng ta cần đánh giá trên nền tảng về sự nhận thức, tư duy của học sinh 8-9 tuổi, không nên đặt yêu cầu quá cao khiến cho học sinh cảm giác chán nản và cuối cùng là học bài mẫu, mất dần sự sáng tạo của các em. Hãy hướng dẫn các em học Tập làm văn đúng với tên gọi của phân môn này là “Tập” cho các em  làm văn.

     II. KHUYẾN NGHỊ:

      1. Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng nhiều biện pháp, phương pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh.

     2. Đối với tổ chuyên môn của nhà trường: cần có các buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.