Cách viết câu phủ định trong tiếng Việt

Câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [432.68 KB, 54 trang ]

Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn, các
thầy cô trong tổ ngôn ngữ đã giúp đỡ tôi trong thời gian vừa qua. Đặc biệt tôi
xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo Th.S Đinh Thị
Lan đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo, để tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp
này.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện, đóng góp
những ý kiến hữu ích để tôi hoàn thành tốt khóa luận này.
Hà Nội, ngày 08 tháng 5 năm 2009
Sinh viên
Phạm Thị Hoa Phượng

Phạm Thị Hoa Phượng

3

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Lời cam đoan
Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả của bản thân tôi trong thời gian học
tập và nghiên cứu vừa qua, dưới sự hướng dẫn của cô giáo Th.S Đinh Thị
Lan.


Tôi xin cam đoan khóa luận về đề tài Câu phủ định và hành vi phủ
định trong tiếng Việt không trùng với bất kì khóa luận nào khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 08, tháng 5, năm 2009

Sinh viên
Phạm Thị Hoa Phượng

Phạm Thị Hoa Phượng

4

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Như ta đã biết, câu phủ định là một trong những vấn đề đã được đề cập
đến trong hầu hết các công trình nghiên cứu của Việt ngữ học. Về mặt lí luận,
đây là vấn đề thuộc về một lĩnh vực khoa học mà hầu hết các nhà nghiên cứu
đã đi đến thống nhất. Tuy nhiên phần lớn các công trình nghiên cứu mới chủ
yếu đi vào các vấn đề lí luận nói chung về câu phủ định mà chưa đi sâu
nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của hành vi phủ định trong tiếng Việt với
sự phong phú, phức tạp của nó trong thực tiễn hoạt động giao tiếp hằng ngày.
Chính vì vậy, đây vẫn còn là một vấn đề đang cần được quan tâm nghiên cứu.
Trước đây, khi chưa có sự soi sáng của Ngữ pháp văn bản và Ngữ dụng

học, câu tiếng Việt thường được xem xét, nghiên cứu dựa vào hai căn cứ sau:
+ Căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của câu
+ Căn cứ vào mục đích nói năng
Ngày nay, khi Ngữ dụng học đã phát triển rộng rãi, việc nghiên cứu, tìm
hiểu câu tiếng Việt đã có sự thay đổi. Bên cạnh những cách nghiên cứu câu
theo các tiêu chí truyền thống, người ta còn nghiên cứu, tìm hiểu, phân loại
câu theo các chức năng, công dụng thực hiện hành vi ngôn ngữ của chúng.
Các cách phân loại này chính là cách phân loại câu theo mục đích sử
dụng cụ thể, sinh động của nó trong chức năng giao tiếp.
Như vậy, muốn hiểu được nội dung ý nghĩa của câu [ theo cách phân
loại này] người đọc nhất thiết phải đặt câu trong hoàn cảnh tình huống giao
tiếp và phải dựa vào ngữ cảnh cụ thể.
Qua đây chúng ta thấy, sự phân loại này đã đem đến một hướng tiếp cận
mới về câu phủ định, về hành vi phủ định nói riêng, cũng như các hành vi
ngôn ngữ nói chung.

Phạm Thị Hoa Phượng

5

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Xuất phát từ tình hình thực tế sự chuyển hướng của ngôn ngữ học và việc
dạy học về câu nói chung cũng như câu phủ định nói riêng trong chương trình
tiếng Việt ở phổ thông hiện nay mà việc nghiên cứu, tìm hiểu về câu phủ định

và các hành vi phủ định trong tiếng Việt có ý nghĩa thiết thực đối với không
chỉ người viết mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với nghề nghiệp của bản thân
người viết.
Chính vì những lí do trên mà chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài:
Câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng Việt.
2. Lịch sử vấn đề
Có thể nói rằng, trong lĩnh vực nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, câu phủ
định không phải là loại câu hoàn toàn mới hay mới được phát hiện, mà nó là
một vấn đề đã được nghiên cứu khá lâu đời cả ở trong và ngoài nước.
Ngay trong giới Việt Ngữ học của nước ta cũng vậy, hầu như công trình
nghiên cứu nào, các nhà nghiên cứu cũng ít nhiều quan tâm đến vấn đề này.
Tuy nhiên, trong các công trình thuộc các lĩnh vực nghiên cứu khác
nhau, mỗi tác giả đều đề cập đến câu phủ định dưới một góc độ, một lĩnh vực
khác nhau tùy theo mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu riêng. Song phần lớn
các tác giả đều nhìn nhận, đánh giá câu phủ định dưới góc độ phân loại câu
theo mục đích phát ngôn, mà chưa chú ý đến chức năng thực hiện hành vi phủ
định hay chưa chú ý đến cách sử dụng chúng, đến mục đích sử dụng chúng
trong từng tình huống giao tiếp cụ thể.
Sau đây chúng tôi sẽ điểm qua một vài ý kiến bàn về câu phủ định trong
tiếng Việt.
1- Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy ban khoa học xã hội Việt
Nam, các tác giả đã đưa ra các vấn đề về câu phủ định như: Đối với câu tả hay
câu luận khi phủ định đều có dùng phụ từ phủ định trong cấu tạo phần thuyết.

Phạm Thị Hoa Phượng

6

Khoa: Ngữ Văn



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

2- Nguyễn Đức Dân trong công trình nghiên cứu của mình đã kết hợp
logic với cú pháp và ngữ nghĩa để khảo sát câu phủ định. Trong cuốn Logicngữ nghĩa- cú pháp, ông đã đi vào vấn đề câu phủ định bác bỏ, ông đã nhấn
mạnh và phân tích khá kĩ khi xem xét việc dùng từ kèm phủ định trong câu
phủ định. Bên cạnh đó, dựa vào chức năng ngữ nghĩa cụ thể, tác giả đã phân
loại các toán tử logic- tình thái. Ông quan niệm toán tử phủ định có mức độ,
mục đích và ý nghĩa khác nhau [phủ định dứt khoát, phủ định thuyết phục,
phủ định bác bỏ].
3- Tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt [tập hai]
đã dành hẳn một chương để bàn về vấn đề câu phủ định. Ông đặc biệt chú ý
đến vấn đề câu phủ định đích thực [có chứa những phương tiện phủ định và
mang nội dung phủ định]. Cũng qua đây tác giả đã phân loại hiện tượng phủ
định theo quan điểm ngữ pháp. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra vấn đề về
câu phủ định miêu tả và câu phủ định bác bỏ.
4- Ngoài ra, trong cuốn Câu tiếng Việt và nội dung dạy- học câu ở
trường phổ thông tiến sĩ Nguyễn Thị Thìn cũng đề cập đến vấn đề câu phủ
định bác bỏ thực hiện hành vi bác bỏ bằng phương thức phủ định tính chân lí,
tính đúng đắn của mệnh đề trong câu. Nội dung của mệnh đề sau phản ánh ý
kiến trái ngược với ý kiến trước đó của người đối thoại.
Trong khóa luận này, trên cơ sở tiếp thu vận dụng những vấn đè lí luận
mà các nhà nghiên cứu đã nêu ra, dưới ánh sáng của quan điểm nghiên cứu
mới - quan điểm của Ngữ dụng học, chúng tôi chỉ tập trung xem xét và miêu
tả về hành vi phủ định và cách biểu hiện của hành vi phủ định trong tiếng Việt
qua một số ngữ liệu thực tế từ các tác phẩm văn chương và hoạt động giao
tiếp hằng ngày.
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu

3.1. Nhiệm vụ

Phạm Thị Hoa Phượng

7

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Thực hiện đề tài Câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng Việt,
người viết xác định cho mình những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu lí luận ngôn ngữ học để nắm
được những kiến thức, những hiểu biết chính xác, hệ thống và cập nhật về câu
phủ định và hành vi phủ định trong tiếng Việt.
- Trên cơ sở nắm vững những vấn đề lí luận về câu phủ định và hành vi
phủ định, tiến hành khảo sát, thống kê và phân loại những biểu hiện cụ thể
của hành vi phủ định trong một số tác phẩm văn chương và trong thực tiễn
hoạt động giao tiếp.
- Phân tích, bình giá các ngữ liệu, rút ra những nhận xét, kết luận về
những dạng biểu hiện của hành vi phủ định để thấy được sự phong phú, đa
dạng và hiệu quả giao tiếp cụ thể của chúng.
3.2. Mục đích
- Củng cố, bổ sung và hệ thống hóa những kiến thức lí luận về ngôn
ngữ học nói chung và vấn đề câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng
Việt nói riêng.
- Vận dụng những kiến thức lí luận đã được cung cấp vào việc tìm

hiểu, nghiên cứu, khám phá một vấn đề cụ thể trong ngôn ngữ học hiện đại đó
là tìm hiểu những cách biểu hiện của hành vi phủ định trong thực tế.
- Tập dượt làm quen với các phương pháp nghiên cứu khoa học và rèn
luyện kĩ năng viết một bài nghiên cứu khoa học thuộc chuyên ngành ngôn
ngữ học làm hành trang tri thức cho nghề nghiệp trong tương lai.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Đề tài Câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng Việt là một
vấn đề khá rộng và phức tạp. Do đó, chúng tôi không có tham vọng đi khảo
sát hết các vấn đề có liên quan đến câu phủ định và hành vi phủ định mà chỉ
đi sâu tìm hiểu một số các biểu hiện của hành vi phủ định trong hoạt động

Phạm Thị Hoa Phượng

8

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

giao tiếp tiếng Việt để từ đó rút ra những nhận xét và kết luận cần thiết về các
dạng thức cụ thể của hành vi này.
- Đối tượng khảo sát của chúng tôi chủ yếu là trên cơ sở của các ngữ liệu
thống kê từ một số tác phẩm văn học và thực tiễn hoạt động giao tiếp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:
1] Phương pháp hệ thống và khái quát hóa vấn đề

2] Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại
3] Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp
4] Phương pháp phân tích ngôn ngữ
6. Bố cục khóa luận
Khóa luận có bố cục như sau:
- Mở đầu
- Nội dung
+ Chương 1: Cơ sở lý luận
+ Chương 2: Các cách biểu hiện của hành vi phủ định trong tiếng Việt
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo

Phạm Thị Hoa Phượng

9

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận
1.1.Câu phủ định và sự phân loại câu phủ định
1.1.1. Câu phủ định
Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều ý kiến
khác nhau trực tiếp hoặc gián tiếp bàn về vấn đề câu phủ định trong tiếng
Việt. Tất cả những ý kiến đó đã được chúng tôi đề cập và tập hợp lại trong

phần lịch sử vấn đề. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến một quan niệm của một
tác giả đó là tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt [tập
hai]. Chúng tôi xem đó như chỗ dựa, như một cơ sở cần thiết cho việc tìm
hiểu xem xét vấn đề mà khóa luận này đặt ra.
Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt [tập hai] Diệp Quang Ban đã dành
hẳn một chương [chương 4] để bàn về câu phủ định. Đứng trên quan điểm
ngữ pháp tác giả đã đưa ra khái niệm về câu phủ định như sau: Câu phủ định
là câu xác nhận sự vắng mặt của sự vật hiện tượng hay sự kiện, xác nhận sự
vắng mặt của đối tượng trong hiện thực hoặc trong tưởng tượng bằng những
phương tiện hình thức xác định.
1.1.2. Phân loại câu phủ định
Khi bàn về câu phủ định, các nhà nghiên cứu đã có rất nhiều cách
phân loại khác nhau, sau đây chúng tôi sẽ đi vào khảo sát từng cách phân loại
cụ thể:
1.1.2.1 Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt tác giả Diệp Quang Ban đã chia
câu phủ định thành ba dạng như sau:
- Câu phủ định đích thực
- Câu phủ định giả
- Câu phủ định lâm thời

Phạm Thị Hoa Phượng

10

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp




Trường ĐHSPHN2

Câu phủ định đích thực: là câu có chứa các phương tiện phủ định

và mang nội dung phủ định
Ví dụ: Tối hôm qua, tôi không đi chơi.


Câu phủ định giả: là câu có chứa những phương tiện phủ định

nhưng không mang nội dung phủ định
Ví dụ: Anh ấy mà còn không tốt ư?


Câu phủ định lâm thời: là câu không chứa những phương tiện

phủ định nhưng có nội dung phủ định
Ví dụ: Cô bé ấy mà xinh!
1.1.2.2 Ngoài cách phân loại trên, các nhà nghiên cứu khác đã căn cứ vào
cách thức biểu hiện ý nghĩa phủ định, vị trí các từ phủ định trong câu để chia
câu phủ định ra làm hai loại: Câu phủ định toàn bộ và câu phủ định bộ phận.
- Câu phủ định toàn bộ: là câu chứa phụ từ chỉ ý nghĩa phủ định đứng
trước vị ngữ hoặc đứng trước nòng cốt câu:
Ví dụ: Nó không đi học.
Ở ví dụ này, ta thấy phụ từ phủ định không đứng trước vị ngữ của
câu đi học, nó đã phủ định toàn bộ nội dung thông tin của câu này.
- Câu phủ định bộ phận: là câu trong đó có các phụ từ phủ định đứng
trước một bộ phận, một thành phần phụ nào đó trong câu như: Từ phủ định
đứng trước thành phần phụ trạng ngữ của câu hoặc định tố, bổ tố của các cụm

danh từ, động tính từ đảm nhiệm các thành phần trong câu.
Ví dụ: Nó/ học bài không thuộc.
Từ phủ định chỉ phủ định vào bổ tố chỉ kết quả của vị từ trung tâm.
1.1.2.3 Trong logic người ta căn cứ vào đối tượng F được bàn tới trong câu
mà chia câu phủ định ra làm hai loại. Ở cuốn Logic - Ngữ nghĩa - Cú pháp

Phạm Thị Hoa Phượng

11

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Nguyễn Đức Dân đã chia câu phủ định thành câu phủ định chung và câu phủ
định riêng.
- Câu phủ định chung: là câu phủ định vào đặc trưng thuộc tính của
toàn bộ các sự vật, hiện tượng được nêu ở trong câu
Ví dụ: Ở lớp tôi, mọi người đều không biết khiêu vũ.
Đây là câu phủ định chung hay câu phủ định tuyệt đối vì sự phủ định
ở đây được thực hiện với mọi người, mọi yếu tố.
- Câu phủ định riêng: là câu phủ định miêu tả một hoặc một số phần tử
của một tập hợp không có một thuộc tính nào đó.
Ví dụ: Ở khoa tôi năm nay, một số người / không đi Huế.
Đây là câu phủ định riêng vì chỉ có một số người trong tập hợp
mọi người là không đi Huế ở khoa tôi năm nay.
1.1.2.4 Ngoài ra, người ta còn phân loại câu phủ định thành câu phủ định

miêu tả và câu phủ định bác bỏ.
- Câu phủ định miêu tả: là câu phủ định dùng trong hành động ngôn
ngữ miêu tả sự vật, hiện tượng, sự kiện.
Ví dụ: Trên trời không một vì sao.
Đây là câu phủ định miêu tả xác nhận sự vắng mặt của hiện tượng sao.
- Câu phủ định bác bỏ: là câu được dùng trong đối đáp cải chính, để
bác bỏ ý kiến, nhận định của người khác hoặc dùng trong quá trình suy nghĩ
để tự bác bỏ ý kiến, điều cảm nghĩ của chính bản thân mình [ Diệp Quang
Ban- Ngữ pháp tiếng Việt- tập hai- Trang 248]
Ví dụ A: Cô bé ấy xinh nhỉ!
B: Cô bé ấy không xinh.
Đây được coi là câu phủ định bác bỏ vì lời đáp của B đã phủ định lại
ý kiến của A.

Phạm Thị Hoa Phượng

12

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Trên đây là những vấn đề cơ bản về câu phủ định và sự phân loại câu
phủ định trong tiếng Việt.
1.2. Hành vi ngôn ngữ và hành vi phủ định trong tiếngViệt
1.2.1. Hành vi ngôn ngữ
1.2.1.1 Khái niệm

Từ trước đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu bàn đến vấn đề
hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt. Đây là một khái niệm đã được nhiều nhà
nghiên cứu tìm tòi, khám phá như GS.TS Nguyễn Đức Dân; GS.TS Đỗ Hữu
Châu; TS Nguyễn Thị ThìnỞ đây chúng tôi chỉ đề cập đến một quan niệm
của một tác giả đó là tác giả Nguyễn Đức Dân trong cuốn Logic và tiếng
Việt. Chúng tôi xem đó là chỗ dựa, như một cơ sở cần thiết cho việc tìm
hiểu, xem xét vấn đề mà khóa luận này đặt ra.
Cuốn Logic và tiếng Việt đã dành hẳn mục III để bàn về khái niệm
hành vi ngôn ngữ. Lí thuyết hành vi ngôn ngữ cũng còn gọi là lí thuyết hành
động lời nói. Người xây dụng nền móng cho lí thuyết hành vi ngôn ngữ là
J.L.Austin với công trình được công bố sau khi ông qua đời: How to do
things with words[ Từ ngữ làm nên sự vật thế nào?], bản dịch tiếng Pháp của
NXB Seuil: Quand dire, cest faire][X.Austin 1962][ khi nói tức là làm].Phát
triển lí thuyết này phải kể tới J.Searle với công trình Speech acts[ các hành
vi ngôn ngữ].
Như vậy, khi thực hiện một phát ngôn trong một tình huống giao tiếp cụ
thể, qua cung cách phát ngôn và cấu trúc của nó, người nói đã thực hiện
những hành vi ngôn ngữ nhất định và người nghe cảm nhận được điều này.
Điều này có nghĩa là khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động, chúng ta
thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ.Hành động
ngôn ngữ giống như các loại hành động khác của con người ở chỗ: Nó gây ra
biến đổi ít nhiều ở đối tượng tiếp nhận.

Phạm Thị Hoa Phượng

13

Khoa: Ngữ Văn



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Khi thực hiện một phát ngôn nào đó, theo Austin, người ta thực hiện
đồng thời ba hành vi: Tạo lời, mượn lời và tại lời
- Hành vi tạo lời: Khi nói một điều gì đó, chúng ta đã dùng các yếu tố
ngôn ngữ, từ ngữ âm, từ vựng tới ngữ pháp, kết hợp lại và tạo ra chuỗi âm
thanh làm nên lời nói.Vậy là chúng ta đã thực hiện một hành vi tạo lời.
- Hành vi mượn lời: Đây là hành vi mượn các phương tiện ngôn ngữ
[các phát ngôn] để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ ở người nghe hay người
đọc.
Ví dụ phát ngôn: Ngày mai trời sẽ mưa lớn.
Trước phát ngôn này, mỗi người sẽ có phản ứng khác nhau như lo lắng,
mừng vui, dễ chịu, khó chịu tùy theo công việc của từng người.
- Hành vi tại lời: Là hành vi thực hiện ngay từ khi nói và bằng chính
sự nói ra câu nói đó.
Ví dụ: Cháu mời bác vào nhà uống nước.
Trong phát ngôn này, người nói thực hiện ngay bằng chính câu nói đó
một hành vi ở lời trực tiếp là mời người lớn tuổi vào nhà uống nước.
1.2.1.2 Phân loại hành vi ngôn ngữ
Vấn đề hành vi ngôn ngữ đã được rất nhiều các nhà ngôn ngữ quan
tâm, tìm hiểu. Tùy theo từng tiêu chí phân loại cụ thể mà chúng ta có thể xác
định được những loại, những dạng hành vi ngôn ngữ khác nhau. Theo cách
phân loại của Searle, ông đã đưa ra bốn tiêu chí phân loại như sau:
- Đích ở lời [ cái hướng tới, nó là một bộ phận trong hiệu lực ở lời ].
Mỗi một hành vi sẽ có đích riêng.
- Hướng khớp ghép lời với hiện thực mà lời đề cập đến: Thí dụ trong
miêu tả hay trần thuật thì có hướng khớp ghép lời phù hợp với hiện thực
nghĩa là lời có sau, hiện thực có trước.


Phạm Thị Hoa Phượng

14

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

- Trạng thái tâm lý được thể hiện: Thí dụ hứa hẹn thể hiện ý định của
người nói thực hiện cái gì đó.
Nội dung mệnh đề [lõi miêu tả]: Thí dụ người nghe thực hiện một
hành động nào đó là đặc trưng của mệnh đề sai bảo.
- Sử dụng bốn tiêu chí trên Searle phân lập được năm nhóm hành vi
ngôn ngữ đó là:
- Thứ nhất, nhóm tái hiện, biểu hiện [nhóm khẳng định]
- Thứ hai, nhóm điều khiển [hành vi mệnh lệnh, yêu cầu, hỏi, cho
phép, đề nghị, thách thức].
- Thứ ba, nhóm cam kết [hành vi hứa hẹn, tặng, biếu, cam đoan, bảo
đảm].
- Thứ tư, nhóm biểu cảm [hành vi xin lỗi, chúc mừng, cảm ơn].
- Thứ năm, nhóm tuyên bố [hành vi tuyên bố, từ chức, khai trừ, kết
tội, bổ nhiệm].
1.2.2. Hành vi phủ định trong tiếng Việt
1.2.2.1. Khái niệm hành vi phủ định
Hành vi phủ định là hành vi ngôn ngữ mang ý nghĩa phủ định, phủ nhận,
bác bỏ hiệu lực giao tiếp, nội dung thông tin trong hành vi ngôn ngữ trước đó.

Đây là loại hành vi mà chúng ta thường gặp trong hoạt động giao tiếp với
những biểu hiện rất phong phú và đa dạng. Có thể nói rằng bản chất của hành
vi phủ định trong giao tiếp là phủ định để phản bác, bác bỏ lại nội dung phát
ngôn của người đi trước không thừa nhận hiệu lực ở lời, hiệu lực thông tin ở
hành vi ngôn ngữ trước đó.
Tùy thuộc vào từng tình huống giao tiếp và dựa vào ngữ cảnh cụ thể mà
người ta chia thành hai loại hành vi phủ định đó là: hành vi phủ định trực tiếp
và hành vi phủ định gián tiếp.

Phạm Thị Hoa Phượng

15

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

- Hành vi phủ định trực tiếp đó là những hành vi ngôn ngữ có chứa các
từ phủ định và nhằm mục đích phủ định, phủ nhận.
- Hành vi phủ định gián tiếp đó là những hành vi ngôn ngữ không chứa
các yếu tố phủ định nhưng lại mang ý nghĩa phủ định bác bỏ.
1.2.2.2. Các loại hành vi phủ định
Hành vi phủ định trong hoạt động giao tiếp rất phong phú và đa dạng,
người ta có thể dùng hành vi phủ định để thực hiện chức năng phủ định bác
bỏ.Như trên đã nói có hai loại hành vi phủ định là hành vi phủ định trực tiếp
và hành vi phủ định gián tiếp.
+ Hành vi phủ định trực tiếp: Là hành vi thể hiện bằng câu ngữ vi

tường minh với sự xuất hiện của các từ: Phủ định, phủ nhận.Và các câu ngữ vi
nguyên cấp với sự xuất hiện của các phụ từ phủ định: Không, chẳng, chăng,
chưa, không hề, chẳng hề, chưa hề, không phải, chẳng phải, chưa phải.
+ Hành vi phủ định gián tiếp là hành vi thể hiện bằng câu ngữ vi
nguyên cấp không xuất hiện các phụ từ phủ định. Trong cuốn Logic và tiếng
Việt GS.TS Nguyễn Đức Dân đã chia hành vi phủ định ra thành nhiều loại
với các từ, tổ hợp từ tiêu biểu như sau:
Hành vi phủ định gián tiếp của những câu dùng từ phiếm định: Nào, gì,
đâu, bao.
Hành vi phủ định gián tiếp của những câu dùng sao, mà.
Ngoài ra còn rất nhiều hành vi phủ định gián tiếp khác trong hoạt động
giao tiếp dùng các từ: Có, còn, thôi, làm gì,thì có, việc gì, thế nào, gì có
Trên đây là những vấn đề lí thuyết cơ bản về câu phủ định và hành vi
phủ định trong tiếng Việt. Trong khuôn khổ của khóa luận này, chúng tôi sẽ
tiến hành khảo sát cụ thể qua những trường hợp tiêu biểu để từ đó có những
kết luận cần thiết và cách sử dụng hiệu quả câu phủ định trong thực tế giao
tiếp hằng ngày.

Phạm Thị Hoa Phượng

16

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Chương 2


Các cách biểu hiện của hành vi phủ định trong tiếngViệt
2.1. Hành vi phủ định trực tiếp
2.1.1. Hành vi phủ định trực tiếp được thể hiện bằng phát ngôn ngữ vi
tường minh với sự xuất hiện của các từ: Phủ định, phủ nhận
Đối với câu thể hiện hành vi phủ định trực tiếp chứa các từ: Phủ định,
phủ nhận thì chủ ngữ của câu xuất hiện ở ngôi thứ nhất và trong câu không có
các hư từ
- Phủ định: Bác bỏ sự tồn tại, sự cần thiết của cái gì, trái với khẳng định
Ví dụ:

A: Anh có ý kiến gì về lời buộc tội của cô ta không?
B: Tôi hoàn toàn phủ định lời cô ta nói.

- Phủ nhận: Không thừa nhận là đúng, là có thật
Ví dụ: A: Họ nghi ngờ anh ăn cắp máy vi tính của công ti M.
B: Tôi phủ nhận thông tin đó.
Các từ phủ định, phủ nhận xuất hiện trong câu ngữ vi tường minh thể
hiện hành vi phủ định trực tiếp thường xuất hiện ít trong thực tiễn giao tiếp.
Nó chỉ xuất hiện trong các cuộc tranh luận, tranh cãi. Với chức năng này, nó
thực hiện hành vi phủ định phản bác, bác bỏ vào hành vi ngôn ngữ trước đó.
Ví dụ: A: Cậu ta nói anh đã đánh cậu ta bị thương.
B: Tôi hoàn toàn phủ nhận điều cậu ta nói.
2.1.2. Hành vi phủ định trực tiếp được thể hiện bằng phát ngôn ngữ vi
nguyên cấp với sự xuất hiện của các phụ từ phủ định: Không, chẳng, chưa,
chăng
2.1.2.1. Hành vi phủ định trực tiếp với sự xuất hiện của phụ từ phủ định
không
a]. Bản chất từ loại


Phạm Thị Hoa Phượng

17

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Các nhà nghiên cứu ngữ pháp xưa nay cho rằng: Không là một phụ
từ, một danh từ hay là một tính từ. Nhưng tùy thuộc vào từng cách kết hợp từ
trong từng tình huống giao tiếp cụ thể mà không có thể tồn tại với chức
năng khác nhau. Tuy nhiên trong giới hạn của khóa luận này chúng tôi khảo
sát từ không mang ý nghĩa phủ định. Trong trường hợp này không có tư
cách là một phụ từ.
Ví dụ: 1- không một bóng người.
2- Tôi không làm việc đó.
b] Chức năng phủ định
- Không có khả năng tham gia các hành vi phủ định miêu tả và phủ
định bác bỏ
Ví dụ: Hành vi phủ định miêu tả: Hôm nay trời không nắng.
Hành vi phủ định bác bỏ: Tôi không làm việc đó.
- Không có khả năng tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn và phủ định bộ
phận trong câu
Ví dụ: Tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn: Buổi tối, nó không đi chơi.
Tạo ý nghĩa phủ định bộ phận: Tôi học bài không thuộc.
- Không trong các dạng thức kết hợp tạo cho câu những sắc thái tình
cảm khác nhau.

+ Không ở dạng rút gọn trong hội thoại hồi đáp thực hiện chức
năng phủ định bác bỏ dứt khoát, thẳng thắn phát ngôn đi trước.
Ví dụ: A: Chị ơi! Cho em đi chơi với.
B: Không.
+Không trong các dạng kết kợp khác thường mang sác thái trung hòa
trong việc thể hiện tình cảm.
Ví dụ: 1- Nó không đi chơi ở những chốn đó.
2- Bài hát này không hay.

Phạm Thị Hoa Phượng

18

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Nếu muốn tạo sắc thái nhấn mạnh có thể thêm từ hề đằng sau.
Ví dụ: Tôi không hề làm việc đó.
c] Khả năng kết hợp và dạng thức phủ định
- Phụ từ phủ định không có thể đứng một mình làm thành câu đặc
biệt dùng khi cần bắc bỏ bằng cách phủ định một sự kiện, một tình huống,
một ý kiến. Trong trường hợp này nó không phải là dạng rút gọn của một câu
hay của một cụm từ tương ứng và nó cũng không phải là một bộ phận của một
câu nào đó lân cận tách ra với tư cách biến thể dưới bậc của câu.
Ví dụ: Đức bảo nó:
- Thì tội gì mà khổ thân Cứ ở nhà này.

- Không.
- Thế thì tôi đi với mợ
Nó sợ hãi
- Không
[Nam Cao]
- Phụ từ phủ định không còn có khẳ năng kết hợp phong phú trong
câu.
+ Không đứng trước vị ngữ trung tâm của câu, tạo ý nghĩa phủ định
hoàn toàn cho câu.
Mô hình:

C- z - V

Ví dụ: 1- Anh ấy không ở nhà giờ này.
2- Tôi không có quyển sách đó.
+ Không đứng đầu bộ phận chủ ngữ, phủ định vào chủ ngữ của
câu,tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn cho sự kiện được nêu trong câu.
Mô hình:

z -C-V
Ví dụ: Không một bóng người qua đây.

Phạm Thị Hoa Phượng

19

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐHSPHN2

+ Không có thể đứng trước thành phần trạng ngữ của câu và phủ
định thành phần đó để tạo câu mang nghĩa phủ định bộ phận.
Mô hình:

z- T- C- V

Ví dụ: Không ngày nào, nó đi học muộn.
+ Không có thể đứng trước bổ tố của động, tính từ vị ngữ phủ định
vào nội dung được nêu ở bổ tố, tạo khuôn hình câu phủ định bộ phận.
Mô hình:

C- V- z- B

Ví dụ: 1- Anh đọc không rõ.
2- Bông hoa này không đẹp
+ Không có thể đứng trước định tố của danh từ, phủ định vào nội
dung của định tố để tạo câu phủ định định tố.
Mô hình:

C- z- Đ- V

Ví dụ: Quyển sách không bìa thế mà quý đấy.
+ Ngoài ra, không còn có khẳ năng kết hợp với động từ tình thái
phải để tạo thành một tình thái từ mang nghĩa phủ định với sắc thái phủ
định cao hơn không.
Ví dụ: Không phải ông giám đốc cho mời anh mà tôi mời anh đến
có việc.

2.1.2.2. Hành vi phủ định trực tiếp với sự xuất hiện của phụ từ phủ định
chẳng
a] Bản chất từ loại
- Phụ từ chẳng là một phụ từ biểu thị ý phủ định với sắc thái nhấn
mạnh. Nó mang tính dứt khoát hơn không.
Ví dụ: 1- Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
2 Một người làm chẳng nổi

Phạm Thị Hoa Phượng

20

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

- Bản chất từ loại của từ chẳng cũng được các tác giả trong cuốn
Từ điển tiếng Việt [Viện ngôn ngữ học] thống nhất
1. Chẳng là một phụ từ
2. Chẳng là một trợ từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm
về sắc thái nghĩa của từ hoặc tổ hợp từ đứng liền sau.
Ví dụ: Có xe, chẳng tội gì phải đi bộ
Như vậy, chẳng vừa là phụ từ phủ định vừa là trợ từ tùy thuộc vào
từng hoàn cảnh sử dụng nhất định. Tuy nhiên, trong giới hạn của khóa luận
này, chúng tôi khảo sát chẳng mang nghĩa phủ định. Trong trường hợp này
nó có tư cách là một phụ từ.

Ví dụ: Nếu vậy, tôi chẳng cần bạn giúp nữa.
b] Chức năng phủ định
- Chẳng cũng giống với không có khả năng tham gia tạo ý nghĩa
phủ định hoàn toàn và ý nghĩa phủ định bộ phận trong câu.
Ví dụ: Tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn: Cây kia chẳng có quả.
Tạo ý nghĩa phủ định bộ phận: Một người làm chẳng nổi.
- Chẳng biểu thị ý phủ định được nhấn mạnh dứt khoát hơn
không.Đồng thời ngoài ý nghĩa thể hiện một thái độ phủ định kiên quyết,
Chẳng còn bộc lộ một sắc thái đánh giá chủ quan của bản thân người nói.
Ví dụ: A: Cô nghĩ tôi là ai chứ?
B: Anh chẳng là gì hết!
Câu trả lời của B với phụ từ chẳng thể hiện một thái độ bực tức,
quyết liệt, phủ định hoàn toàn câu nói của A.
- Chẳng khi đi với phải tạo thành tổ hợp từ mang ý nghĩa phủ định
để thanh minh, bác bỏ lại phát ngôn đi trước.
Ví dụ: A: Con đánh em khóc đấy à?
B: Chẳng phải con đánh em [mà nó bị ngã].

Phạm Thị Hoa Phượng

21

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Ở ví dụ trên, câu trả lời của người con đã bác bỏ lại câu hỏi của mẹ

về việc mình đánh em, đồng thời cũng là thanh minh, phủ định lại hành vi
có tính chất phỏng đoán áp đặt của mẹ. Thực chất của hành vi thanh minh,
chối cãi là để bác bỏ điều giả định phỏng đoán của A nhằm thuyết phục người
nghe.
c] Khả năng kết hợp và dạng thức phủ định
- Phụ từ phủ định chẳng đứng đầu bộ phận vị ngữ với tư cách là phụ
ngữ của từ làm thành tố chính ở vị ngữ ấy và phủ định vào vị ngữ của câu, tạo
ý nghĩa phủ định hoàn toàn cho câu.

Mô hình:

C- z V

Ví dụ: Nam chẳng bỏ học bao giờ.
- Phụ từ phủ định chẳng có thể đứng trước chủ ngữ của câu phủ định
vào chủ ngữ, tạo câu phủ định toàn bộ
Mô hình:

z- C-V

Ví dụ: Chẳng ai đến đây.
- Cũng giống với không, chẳng cũng có thể đứng trước thành phần
phụ trạng ngữ của câu, phủ định vào trạng ngữ tạo ý nghĩa phủ định bộ phận
cho câu.
Mô hình: z- T- C- V
Ví dụ: Chẳng ngày nào, tôi ngủ sớm.
- Chẳng có thể đứng trước bổ tố trong cụm động, tính từ để phủ định vào
các bổ tố đó tạo ý nghĩa phủ định bộ phận cho câu.
Mô hình: C- V- z- B
Ví dụ: Nó học chẳng thuộc bài

- Chẳng khi đứng đầu câu kết hợp với phải tạo tổ hợp tình thái từ
mang nghĩa phủ định ở mức độ cao.
z[phải]- C- V

Phạm Thị Hoa Phượng

22

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

Mô hình:
Ví dụ: Chẳng phải người đứng đằng kia tìm bạn, mà người lúc nãy
kia.
Ví dụ: Chẳng phải quyển sách này của tôi [mà là của bạn kia].
-Chẳng còn xuất hiện và phủ định ở câu đặc biệt.
Ví dụ: Trong nhà chẳng có người nào cả.
2.1.2.3. Hành vi phủ định trực tiếp với sự xuất hiện của phụ từ chưa
a] Bản chất từ loại
Chưa được coi là một phụ từ biểu thị ý phủ định đối với điều mà vào
thời điểm nói ra câu nói đó nó không có hoặc không xảy ra [nhưng tương lai
có thể xảy ra]
Ví dụ:
1. Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường.
2. Chưa ai đến cả.
3. Chưa bao giờ như lần này.

b] Chức năng phủ định.
- Chưa có khả năng tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn hoặc phủ định bộ
phận trong câu.Khác với không và chẳng, chưa biểu thị ý nghĩa phủ
định gắn với ý nghĩa thời gian.Nghĩa là nó biểu thị ý nghĩa phủ định có giới
hạn trong khoảng thời gian quá khứ cho tới thời điểm nói.
Ví dụ:
Tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn: Tôi chưa đến Pháp lần nào.
Tạo ý nghĩa phủ định bộ phận: Nó làm bài tập chưa bao giờ đúng.
- Chưa khi đứng một mình để biểu thị ý nghĩa phủ định trong câu
thường mang sắc thái tình cảm trung hòa.
Ví dụ: 1- Tôi chưa đến thành phố Hồ Chí Minh lần nào.
2- Mẹ tôi chưa mua sách cho tôi.

Phạm Thị Hoa Phượng

23

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

- Chưa kết hợp với hề tạo nên sắc thái nhấn mạnh. Nó như một sự
cam đoan của người nói và cũng là để thanh minh cho việc làm của mình.
Ví dụ: A: Cậu đã lật tung giá sách của tớ đúng không?
B: Tớ chưa hề động đến giá sách của cậu.
Câu trả lời của B đã thanh minh cho việc làm của mình là chưa hề
động đến giá sách cũng là để bác bỏ câu hỏi mang tính chất áp đặt của A về

việc làm của mình.
-Chưa kết hợp với phải tạo tổ hợp từ mang ý nghĩa phủ định bác bỏ.
Ví dụ: A: Cậu làm xong báo cáo chưa?
B: Tớ chưa phải làm.
c] Khả năng kết hợp và dạng thức phủ định
- Chưa đứng đầu bộ phận vị ngữ của câu và phủ định bộ phận vị ngữ đó,
tạo dạng thức câu phủ định hoàn toàn.
Mô hình: C- z- V
Ví dụ: 1- Tôi chưa thấy cơn gió nào to như thế.
2- Nam chưa làm bài tập về nhà.
- Chưa có thể đứng trước chủ ngữ để phủ định vào chủ ngữ của câu,
tạo ý nghĩa phủ định toàn bộ cho câu.
Mô hình:

z- C- V

Ví dụ: Chưa người nào làm bài tập về nhà.
- Chưa cũng có thể đứng trước thành phần phụ của câu hoặc thành tố
phụ trong các cụm từ làm chủ ngữ hoặc vị ngữ để phủ định vào các thành
phần, thành tố phụ đó tạo dạng thức phủ định bộ phận cho câu.
+ Chưa đứng trước thành phần trạng ngữ của câu và phủ định vào
thành phần đó.
Mô hình: z- T- C-V
Ví dụ: Chưa gặp anh, nó rất nóng lòng.

Phạm Thị Hoa Phượng

24

Khoa: Ngữ Văn



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

+ Chưa phủ định vào bổ tố chỉ kết quả của vị từ trung tâm.
Mô hình: C- V- z- B
Ví dụ: Nam làm chưa xong bài tập đã đi chơi.
+ Chưa có thể đứng trước định tố của danh từ phủ định vào nội dung
của định tố tạo câu phủ định định tố.
Mô hình: C- z- Đ- V
Ví dụ: Quyển sách chưa bọc bìa rất hay.
- Chưa cũng có thể đứng một mình tạo dạng thức câu rút gọn để thể hiện
ý phủ định trong hội thoại.

Mô hình:

z

Ví dụ: A: Cậu làm bài tập toán rồi à?
B: Chưa.
Như vậy câu trả lời của B đã phủ nhận điều được nêu trong câu mà
cho đến một lúc nào đó tại thời điểm nói không có hoặc không xảy ra
Ngoài ra người ta còn sử dụng phụ từ chăng để thực hiện hành vi
phủ định trực tiếp nhưng số lượng ít. Chăng cũng là phụ từ biểu thị ý phủ
định như chẳng, không nhưng chăng không được sử dụng rộng rãi như
chẳng, không
Ví dụ: 1. Nghe lỏm câu được câu chăng [có câu nghe được có câu
không]

2. Có chăng chỉ một mình anh ta biết
2.2. Hành vi phủ định gián tiếp
2.2.1. Tình hình khảo sát, thống kê
Căn cứ vào bản chất và chức năng của các từ, tổ hợp từ mang nghĩa phủ
định chúng tôi tiến hành khảo sát các tác phẩm văn học như:

Phạm Thị Hoa Phượng

25

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

1.Tuyển tập Nam Cao [tập 1, 2], Nxb Văn học, Hà Nội, 1999
2.Tuyển tập Vũ Trọng Phụng [tập 1, 2] Nxb Hà Nội, 1997
Qua quá trình khảo sát,chúng tôi thu được khoảng trên 100 phiếu điều
tra có chứa các từ, tổ hợp từ mang nghĩa phủ định và tổng hợp các phiếu điều
tra thông qua bảng sau:
Những hành vi phủ định
có chứa các từ mang nghĩa

Những hành vi phủ
Tổng

phủ định


định có chứa các tổ hợp từ

Tổng

mang nghĩa phủ định

Đâu

20

Làm gì

6

Nào

14

Thì có

5



8

Quái gì

7




7

Việc gì

4

Còn

2

Thế nào

6

Cóc

4

Chịu thôi

1



5

Gì có


1

Mặc

1

Thôi

2
Nhận xét:

Qua kết quả khảo sát, thống kê, chúng tôi nhận thấy các hành vi phủ
định được hai nhà văn Nam Cao và Vũ Trọng Phụng sử dụng trong các tác
phẩm văn học nghệ thuật rất phong phú và đa dạng. Căn cứ vào các dạng thức
biểu hiện sự phủ định của các hành vi phủ định, chúng tôi phân chia chúng
thành ba loại sau:
- Hành vi phủ định gián tiếp có chứa các phụ từ mang ý nghĩa phủ định.

Phạm Thị Hoa Phượng

26

Khoa: Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSPHN2

- Hành vi phủ định gián tiếp có chứa các tổ hợp từ [kết hợp từ] mang ý

nghĩa phủ định.
- Hành vi phủ định gián tiếp có chứa các trợ từ mang ý nghĩa phủ định.
Qua thực tế thống kê và khảo sát các ngữ liệu thu được, chúng tôi thấy
các dạng thức biểu hiện của hành vi phủ định trong các tác phẩm văn học của
các nhà văn rất phong phú và đa dạng. Hành vi phủ định có thể được thể hiện
bằng nhiều từ và tổ hợp từ khác nhau. Mỗi từ hoặc tổ hợp từ được sử dụng
trong các phát ngôn ngoài ý nghĩa phủ định còn mang những sắc thái biểu thị
tình cảm, thái độ, dụng ý khác nhau của người nói. Nhờ những ý nghĩa biểu
thái đó mà các hành vi phủ định trong tiếng Việt thường có giá trị biểu đạt cao
và góp phần quan trọng tạo nên tính chất thẩm mỹ, tính chất nghệ thuật trong
việc sử dụng ngôn từ trong tác phẩm văn học nghệ thuật. Chính bởi những ý
nghĩa biểu thái cụ thể của mình mà tần số xuất hiện của các dạng thức hành vi
phủ định cũng hết sức khác nhau. Thông qua việc khảo sát, phân tích các ví
dụ cụ thể, chúng ta có thể tìm hiểu vai trò của các hành vi phủ định qua từng
dạng thức biểu hiện của nó.
2.2.2. Các cách biểu hiện cụ thể của hành vi phủ định gián tiếp trong tiếng Việt
Dựa trên cơ sở sự phân loại cau phủ định, hành vi phủ định ở phần cơ sở
lý luận, phần này chúng tôi sẽ đi vào một số dạng thức cơ bản của hành vi phủ
định trong tiếng Việt như sau
2.2.2.1. Hành vi phủ định gián tiếp với sự xuất hiện của các từ mang ý
nghĩa phủ định
Như trên chúng tôi đã nói, hành vi phủ định là hành vi ngôn ngữ hết sức
phổ biến, thông dụng và sự biểu hiện của nó cũng hết sức phức tạp, phong
phú.Bởi vậy trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp,chúng tôi không
có tham vọng khảo sát và miêu tả tất cả các từ ngữ được nêu trong bảng kết
quả khảo sát, thống kê và các dạng thức xuất hiện của nó. Ở đây, chúng tôi

Phạm Thị Hoa Phượng

27


Khoa: Ngữ Văn


Video liên quan

Chủ Đề