Cảm nhận về bài thơ Cảnh ngày hè Facebook

Tổng hợp các bài viết thuộc chủ đề Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Facebook xem nhiều nhất, được cập nhật mới nhất ngày 26/04/2022 trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Facebook để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến thời điểm hiện tại, chủ đề này đã đạt được 3.267 lượt xem.

--- Bài mới hơn ---

  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi [Có Dàn Ý Và Bài Làm Chi Tiết]
  • Phân Tích Nét Đặc Sắc Về Nghệ Thuật Của Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Mở Bài Kết Bài Cảnh Ngày Hè Hay Nhất
  • Em Hãy Nêu Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh Ngày Hè

    Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh Ngày Hè – Thiên nhiên luôn là khởi nguồn cảm xúc bất tận trong các thi nhân. Và nhà thơ Nguyễn Trãi cũng không nằm ngoài số đó. Ông đã có một bài thơ rất nổi tiếng đó làbài Cảnh ngày hè. Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi là bài số 43 trong trùm thơ Bảo kính Cảnh giới của Quốc âm thi tập. Bài thơ Cảnh ngày hè đã cho ta thấy được vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và tấm lòng yêu nước thương dân của tác giả.

    Câu thơ đầu tiên Nguyễn Trãi đã viết:

    Rồi hóng mát, thưở ngày trường

    Từ câu thơ này đã cho ta thấy được hình ảnh của thi nhân lúc này. Với một bậc khai quốc công thần luôn có gắng tận trung, tận lực giúp vua, giúp nước; với một người thân không nhàn mà tâm cũng không nhàn như Nguyễn Trãi thì khoảng thời gian ” ngày trường” rỗi rãi đúng là khoảng thời gian đặc biệt hiếm hoi, đáng quý. Đây cũng là hoàn cảnh lí tưởng để nhà thơ đến với thiên nhiên và yêu say cảnh đẹp.

    Hòe lục đùn đùn, tán rợp trương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

    Nếu như những nhà thơ xưa khi miêu tả mùa thường chú ý tới tả cảnh hình sắc, như Nguyễn Du từng có một câu thơ tả về mùa hè như: “Dưới trăng quyên đã gọi hè – Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”. Thì Nguyễn Trãi lại khác, ông không chỉ miêu tả mùa hè qua cảnh sắc mà đồng thời qua từng cảnh sắc đó lại miêu tả rõ rệt sức sống của mùa hè. Tác giả gợi tả những hình ảnh rất đặc trưng của mùa hè như: Hoa thạch lựu, tán hòe xanh, hương sen thơm ngát. Nhà thơ cảm nhận không gian mùa hè bằng cả thị giác và khứu giác. Qua từng hình ảnh ta còn có thể cảm nhận được bước di chuyển của mùa hè. Bên cạnh đó, cảnh vật còn có sự kết hợp hài hòa giữa đường nét, màu sắc, hương thơm và trạng thái: màu lục của lá hòe làm nổi bật màu đỏ của hoa thạch lựu, ánh mặt trời buổi chiều như rắc vàng lên những tán lá hòe, hương sen thơm ngát bao trùm cảnh vật. Sự vật dường như cũng mang theo một nội lực, một sức sống mạnh mẽ, căng trào, muốn bứt phá để trổ dáng, khoe sắc, tỏa hương. Động từ “đùn đùn, phun, tiễn” khiến cho mọi vật như đang di chuyển làm nên không khí của ngày hè nhộn nhịp, tươi vui. Không chỉ vậy nhà thơ còn cảm nhận mùa hè qua cuộc sống của người dân làng chài:

    Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

    Đây chính là bức tranh về cuộc sống cuối ngày của con người đã được thi nhân thâu tóm lại. Ngày gần hết nhưng cuộc sống của con người vẫn chưa dừng lại, không mang cảm giác ảm đạm mà ngược lại còn vui tươi, hối hả. Nghệ thuật đảo ngữ: “lao xao chợ cá”, “dắng dỏi cầm ve” đã giúp nhấn mạnh không khí nhộn nhịp của chiều hè nơi làng chài. Tiếng người mua kẻ bán lao xao văng vẳng đến từ chợ cá làng chài, tiếng ve “dắng dỏi” như tiếng đàn vang dội, râm ran khiến cho không khí trong lầu rộn rã. Sức sống của thiên nhiên như hòa chung với sức sống của con người. Qua cảm nhận của tác giả, bức tranh thiên nhiên ngày hè hiện lên thật sống động. Nó có sự hài hòa giữa đường nét và màu sắc, âm thanh. Hài hòa giữa cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống của con người. Cảnh được đón nhận từ gần đến xa, từ cao đến thấp. Cấu trúc ý tứ thơ đăng đối vô cùng hài hòa. Trong bài Tự thán 4, Nguyễn Trãi tự nhận: “Non nước cùng ta đà có duyên”, thi nhân đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh: thời chiến, thời bình, lúc buồn, lúc vui, lúc bận rộn, khi thư nhàn. Nguyễn Trãi luôn căng mở mọi giác quan, rộng mở tâm hồn đề đón nhận mọi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người.

    Bài thơ không chỉ đơn thuần miêu tả về khung cảnh thiên nhiên, con người trong tiết trời mùa hè mà đó còn là những tâm tư, nỗi lòng mong muốn của nhà thơ dành cho nhân dân. Hai câu kết của bài chính là tấm lòng yêu thương nhân dân của ông. Như chúng ta đều biết Nguyễn Trãi là một người thân không nhàn mà tâm cũng không nhàn. Ngay trong chính lúc nghỉ ngơi ông cũng không ngừng suy nghĩ lo cho dân, vì dân:

    Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ, khắp đòi phương.

    Đó là một ước mong, khát vọng cao đẹp về một cuộc sống thái bình, hạnh phúc, ấm no cho muôn dân. Câu thơ cuối tuy chỉ có 6 tiếng ngắn gọn nhưng lại là câu thơ dồn nén cảm xúc của cả bài. Tứ thơ vận động từ bức tranh thiên nhiên đến bức tranh cuộc sống của con người rồi kết tụ lại ở khát vọng của nhà thơ. Qua khát vọng này ta nhận thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi đó chính là tư tưởng nhân nghĩa – điểm kết tụ của hồn thơ Ức Trai – là lí tưởng hoài bão một đời ôm ấp, canh cánh bên lòng của Nguyễn Trãi.

    Bài thơ Cảnh ngày hè với ngôn ngữ giản dị nhưng lại giàu sức biểu cảm, hình ảnh thơ gần gũi đã ghi dấu ấn trong lòng người đọc. Qua bài thơ này ta càng thêm yêu quý và cảm phục tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Trãi.

    Họa Tâm

    Từ khóa tìm kiếm:

    • cảm nhận bài thơ cảnh ngày hè
    • cam nhan bài thơ cảnh ngày hè
    • cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên con người cảnh ngày hè
    • cảm nhận về bài thơ cảnh ngày hè
    • cảm của em về bài thơ cảnh ngày hè
    • Cảm nhận của em về bài thơ cảnh ngày hè

    --- Bài cũ hơn ---

  • Đề Thi Học Sinh Giỏi Về Bài Cảnh Ngày Hè[ Nguyễn Trãi] Và Tỏ Lòng [ Phạm Ngũ Lão]
  • Triết Lí Sống Nhàn Qua Bài Thơ Nhàn [Nguyễn Bỉnh Khiêm] Và Cảnh Ngày Hè [Nguyễn Trãi]
  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • --- Bài mới hơn ---

  • Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Đề Đọc Hiểu Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Nêu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Tác Giả Nguyễn Trãi
  • Cảm Nghĩ Về Bài Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Cảm Nhận Cảnh Ngày Hè Ngắn Gọn Hay Nhất
  • [Baivanhay.net] – Em hãy nêu cảm nhận của em về bài thơ cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi [ Bài làm văn của học sinh giỏi trường THPT Thanh Miện Hải Dương]

    Đề bài : Em hãy nêu cảm nhận của em về bài thơ cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi

    Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại [Chí Linh, Hải Dương] sau dời về Nhị Khê,có cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần. Sớm được thừa hưởng từ nhỏ những nét tinh túy ở cả cha và mẹ, sau lớn lên Nguyễn Trãi trở thành một vị anh hùng lối lạc của dân tộc. Không những thế, văn thơ ông để lại mang giá trị lớn, có nhiều bài thơ về đất nước,khí thế chiến đấu,lại có nhiều bai thơ giản dị đời thời. Cảnh ngày hè là một trong số những bài thơ hay, không chỉ chứa đựng những nét độc của bức tranh thiên nhiên mà còn gắn liền với tâm niệm của tác giả.

    Được rút ra từ ” Quốc âm thi tập” bài thơ “cảnh ngày hè nổi bật với những cảnh vật đời thường, những tín hiệu đặc trưng của ngày hè. Mở đầu với câu thơ đầu tiên ta dường như cảm nhận được vẻ an nhàn, êm đềm thanh thoát ” Rồi hóng mát thuở ngày trường”

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

    Bài thơ cảnh ngày hè không chỉ tạo nên khung cảnh đẹp đẽ của thiên nhiên mà còn góp phần thể hiện nỗi niềm thầm kín của tác giả về lòng yêu nước thương dân. Cùng với đó là một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm trước cảnh vật thiên nhiên, cũng từ đó mà gợi mở được những khát khao cháy bỏng của tác giả mặc dù đã lui về ở ẩn. Sống trong hoàn cảnh nào Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng mong cho đất nước thịnh vượng, nhân dân no đủ, thái bình.

    --- Bài cũ hơn ---

  • Mở Bài Kết Bài Cảnh Ngày Hè Hay Nhất
  • Phân Tích Nét Đặc Sắc Về Nghệ Thuật Của Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi [Có Dàn Ý Và Bài Làm Chi Tiết]
  • Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Đề Thi Học Sinh Giỏi Về Bài Cảnh Ngày Hè[ Nguyễn Trãi] Và Tỏ Lòng [ Phạm Ngũ Lão]
  • --- Bài mới hơn ---

  • Cảm Nhận Vẻ Đẹp Bức Tranh Thiên Nhiên Trong Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Phát Biểu Cảm Nhận Của Bản Thân Về Vẻ Đẹp Bức Tranh Thiên Nhiên Trong Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Vẻ Đẹp Thiên Nhiên Và Tâm Hồn Nguyễn Trãi Qua Bài Cảnh Ngày Hè
  • Dàn Ý Cảnh Ngày Hè Ngữ Văn 10 Ngắn Gọn Dễ Hiểu
  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Ngắn Gọn
  • Đề bài: Em Hãy Nêu Cảm Nhận Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè

    Nguyễn Trãi được biết đến là một vị anh hùng dân tộc đồng thời là thi nhân với những tác phẩm để đời. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng qua nhiều sáng tác và mỗi bài thơ đều mang tâm trạng và nỗi niềm sâu thẳm của ông.Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là bức tranh mùa hè nơi miền quê, đồng thời là lời giãi bày tâm sự của ông.

    Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi. Tập thơ gồm 254 bài và nổi bật là “Cảnh ngày hè”. Tìm hiểu bài thơ, người đọc đã được đến gần hơn với một bức tranh ngày hè sôi động, nhiều màu sắc, đồng thời qua đó thấp thoáng bóng dáng một người luôn nghĩ cho nước cho dân. Bài thơ để lại cho người đọc những ấn tượng sâu lắng nhất về cuộc sống và tâm tư đáng trân trọng của ông.

    Câu thơ đầu tiên, ta đọc sao tâm thế của tác giả có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế.

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường”

    Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi ngồi dưới bóng cây nhàn nhã hóng mát. Đối lập giữa sự tất bật, bận rộn với công việc nơi triều chính và sự rỗi rãi hiếm hoi nơi làng quê. Câu thơ là một câu lục ngôn ngắt nhịp 1/2/3, chữ “rồi” đứng riêng một nhịp vừa nhấn mạnh cảm rỗi rãi, vừa như một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Một số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi ” thường ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Ba chữ “thuở ngày giác trường”-nhịp dài nằm cuối câu càng làm cho một ngày như dài thêm, cảm giác thư thái, sự sảng khoái sung sướng như kéo dài ra. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.

    Đối lập giữa bức tranh ngày hè tràn đầy hình ảnh, màu sắc, âm thanh với chốn quan trường tù túng thiếu sinh khí. Theo Nguyễn Trãi trở về với thiên nhiên là cách tốt nhất để thanh lọc tâm hồn, hồi sinh sức sống. Bức tranh thiên nhiên trong những câu tiếp theo thực chất là quan niệm sống, bức tranh tâm hồn của Ức Trai:

    Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phùn thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

    Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Ba câu thơ có rất nhiều động từ vận động diễn tả trạng thái xô đẩy cựa quậy, sự vận động từ bên trong của sự vật muốn trào phun ra ngoài “đùn đùn”, “phun”, “tiễn”. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trải luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ “đùn đùn” vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ “rợp”. Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tòa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè.Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…

    Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:

    Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

    Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ “lao xao” đến “dắng dỏi”. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. “Lao xao” lúc này chính là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hương nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyên Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phú để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dề tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đồi đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mỹ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vần đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.

    Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vần vẹn tấm lòng son:

    Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương

    Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Hơn nữa, không phải riêng cho dân mình mà ông muốn cuộc sống đó phải “đủ khắp đòi phương” nghĩa là cho muôn dân trên mọi nơi. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình không chấp nhận Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.

    Thời gian trong bài thơ diễn ra trong một ngày nhưng hình ảnh sự vật được bao quát rất lớn có xa – gần, cao – thấp, rộng- hẹp, hiên, ao, lầu, làng, chợ; có hiện tại tương lai; có thiên nhiên con người cuộc sống; có đa âm thanh, đa đường nét, đa màu sắc; có bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm cảnh, có tình yêu đời, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống; và có cả những lời giáo huấn sâu sắc về cách sống phải luôn hướng về đời sống của muôn dân trăm họ. Bài thơ xứng đáng được người đời đánh giá cao và trân trọng.

    “Cảnh ngày hè” đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu. Quả thực, Nguyễn Trãi xứng đáng với câu thơ của vua Lê Thánh Tông “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”

    --- Bài cũ hơn ---

  • Nêu Cảm Nghĩ Của Anh [Chị] Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Tác Gia Nguyễn Trãi
  • Lập Dàn Ý Và Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ “cảnh Ngày Hè” Nguyễn Trãi Lớp 10 Hay Đầy Đủ
  • Đồng Chí Ngô Văn Tuấn Phó Bí Thư Tỉnh Ủy Làm Việc Với Trường Chính Trị Tỉnh
  • Hai Bài Thơ Chúc Tết Năm Sửu Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
  • --- Bài mới hơn ---

  • Đề Đọc Hiểu Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Nêu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Tác Giả Nguyễn Trãi
  • Cảm Nghĩ Về Bài Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Cảm Nhận Cảnh Ngày Hè Ngắn Gọn Hay Nhất
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi

    Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như ” Bình ngô đại cáo” của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì ” Cảnh ngày hè” là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Bài thơ đã thể hiện tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của nhà thơ.

    ” Rồi hóng mát thuở ngày trường

    ………………………………

    Dân giàu đủ khắp đòi phương “

    Mở đầu, bài thơ đến với ta với những hình ảnh về thiên nhiên rực rỡ.

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường

    Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương “

    Từ ” rồi” mở đầu câu thơ phải chăng nói đến tâm trạng ” bất đắc chí” của nhà thơ. Câu thơ đầu chỉ vỏn vẹn với sáu từ nhưng đã khá đầy đủ về thời gian, hoàn cảnh, tâm trạng của nhà thơ. Đây chính là sự phá cách đầy sáng tạo của Nguyễn Trãi, ông đã Việt hóa thơ Đường luật vốn mỗi câu có đủ bảy từ. Lại thêm sự mới lạ với cách ngắt nhịp: một, hai, ba kết hợp với thanh bằng ở cuối câu làm câu thơ nghe như tiếng thở dài nhưng lại không giống lời than thở. Xem bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Trãi, trước hết ta thấy hình ảnh một con người ngồi đó – Câu mở đầu hóng mát ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi. Phải chăng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng vẫn hòa mình cùng thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên đã hiện ra trước mắt ông thật rực rỡ

    Ba câu thơ tiếp theo, dưới ngòi bút đầy tài năng của Nguyễn Trãi, một bức tranh thiên nhiên thật sống động và đầy màu sắc đã đến với chúng ta một cách chân thật nhất. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau, tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Mở đầu câu thơ là hình ảnh cây Hòe – một loại cây đặc trưng ở vùng Bắc Bộ, rất dễ bắt gặp ở mọi nơi. Tính từ” đùn đùn ” kết hợp với động từ mạnh ” giương” đã góp phần diễn tả sự sum xuê, nẩy nở, làm cho cây hòe như có hồn hơn, làm bức tranh như sống động hơn. Bên cạnh đó, không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khứu giác. Nhịp thơ ¾ kết hợp với động từ mạnh” phun ” làm cảnh vật dường như nổi bật hơn nhưng lại không chói chang, oi nồng mà mát dịu, tinh tế. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, ” lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông đã miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.

    Và ” Cảnh ngày hè” trong thơ Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện trong những màu sắc của thiên nhiên tươi đẹp mà còn qua nhịp sống sinh đẹp của nhân dân.

    ” Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Hai từ láy “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với nhau đã thể hiện những âm thanh của làng chài quen thuộc- lao xao của chợ cá, rộn rã của tiếng ve. Ở đây, Nguyễn Trãi đã ngắm nhìn cuộc sống, cảm nhận cuộc sống với một tâm hồn rộng mở một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Tiếng lao xao, tiếng ve phải chăng là tiếng lòng ông, tiếng lòng của một vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, tiếng lòng của một người yêu thiên nhiên tha thiết. Thiên nhiên, cảnh vật ở vào thời điểm cuối ngày nhưng sự sống thì không dừng lại. Cũng như Nguyễn Trãi, mặc dù đã lui về ở ẩn nhưng lòng ông lúc nào cũng có một tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước tha thiết.

    Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ, qua đó, thể hiện hết phần nào về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Ở đây, tác giả đã mượn điển tích để nói lên khát vọng của mình. Câu thơ cuối sáu chữ ngắn gọn, nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài – tác giả khát khao đem tài trí thực hành tư tưởng yêu nước, thương dân, và đó cũng chính là tưởng chủ đạo của bài thơ. Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước. Không có một lòng yêu quê hương, đất nước sâu đậm, ông không thể có một ước muốn như vậy. Không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể cảm nhận được hết vẻ đẹp mùa hè nơi một làng chài quê hương thanh bình. Và, không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể viết nên bài thơ ” Cảnh ngày hè” làm xúc động lòng người như vậy.

    Bài thơ tả cảnh ngày hè cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yên nhân dân, đất nước. Việt hóa thơ Đường luật, sáng tạo thơ thất ngôn xen lục ngôn, vận dụng hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh của cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống của con người, hệ thống ngôn ngữ giản dị tinh tế xen lẫn từ Hán và điển tích chính là nhửng nét nghệ thuật đặc trưng cho ” Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi.

    Bài thơ “Cảnh ngày hè” đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.

    --- Bài cũ hơn ---

  • Em Hãy Nêu Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Mở Bài Kết Bài Cảnh Ngày Hè Hay Nhất
  • Phân Tích Nét Đặc Sắc Về Nghệ Thuật Của Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi [Có Dàn Ý Và Bài Làm Chi Tiết]
  • Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • --- Bài mới hơn ---

  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi.
  • Cảm Nhận Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Giáo Án Ngữ Văn 10 Tiết 48: Cảnh Ngày Hè [ Bảo Kính Cảnh Giới
  • Bình Giảng Về Bức Tranh Thiên Nhiên Mùa Hè Trong Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Phân Tích Bức Tranh Mùa Hè Trong Bài Thơ “cảnh Ngày Hè”
  • Trung tâm gia sư quận 5 cho rằng Nguyễn Trãi là một bậc thi nhân nổi tiếng của văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng. Ông có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ cả về số lượng lẫn về nội dung muốn truyền tải. Trong số đó nổi tiếng nhất phải kể đến là hai tập thơ “Ức Trait hi tập” được viết bằng chữ Hán và “Quốc âm thi tập” được viết bằng chữ Nôm. Quốc Âm thi tập là tập thơ chữ Nôm đầu tiên của nước ta và cũng là tác phẩm mở đường cho dòng thơ chữ Nôm của các tác giả sau này. Tập thơ này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn số lượng, và bài thơ “Cảnh ngày hè” được sem là một bài thơ đặc sắc tả cảnh mang đậm phong cách sáng tác của nhà thơ Nguyễn Trãi.

    “Cảnh ngày hè” là bài thơ thứ 43 thuộc phần “báo kính cảnh giới”, ở phần vô đề của Quốc Âm thi tập. Bài thơ này được tác giả sáng tác khi ông không được triều đình trọng dụng nên đã cáo lão về quê, sống với cảnh yên bình nơi thôn dã.

    ” Rồi hóng mát thuở ngày trường

    Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

    Trung tâm gia sư quận 7 nhận thấy Ở khổ thơ này, tác giả đã miêu tả những cảnh sắc nổi bật của đất trời lúc vào hè, có sự kết hợp giữa các màu sắc: xanh lục, đỏ, hồng,.. đều là những màu sắc tươi sáng, mang đến sự rực rỡ cho mùa hè, và mọi vật dường như đẹp đẽ hơn dưới ánh nắng hè, khiến cho màu sắc vạn vật tươi mới mà không hề gây sự chói lóa khó chịu cho người thưởng cảnh. Tác giả sử dụng những động từ đặc sắc: đùn đùn, hiên, tiễn, dường như muốn nói với chúng ta rằng trạng thái của cảnh vật lúc này vẫn tràn đầy sức sống, dù cho có một vài thứ đã gần như đến ngày tàn lụi. Tác giả đón nhận cảnh vật xung quanh mình bằng sự tinh tế của toàn bộ các giác quan và tâm thế thư thái của người chuyên tâm ngắm cảnh, thì mới có thể thấy được những chuyển động của những cảnh vật tưởng chừng như ít khi thay đổi. Nhịp thơ ¾ nhấn mạnh trạng thái của cảnh vật, làm rõ nên những đặc điểm của vật.

    ” Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu Tịch Dương

    Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi bốn phương”

    Trung tâm gia sư quận 9 nhận thấy nếu như bốn câu thơ đầu tiên tác giả chuyên tâm tả cảnh vật với những thay đổi của nó, thì bốn câu thơ cuối này tác giả đã chuyển hẳn sang sự thay đổi của con người và tâm trạng của mình. Ở đây đã bắt đầu có sự xuất hiện bóng dáng con người với những hoạt động thường ngày của họ, tác giả sử dụng từ láy “lao xao” để miêu tả một cảnh chợ chiều, chỉ với một từ láy mà chúng ta có thể tưởng tượng ra cảnh của một cái chợ với các hoạt động trao đổi, mua bán giữa những người dân nơi đây, và dễ nhận ra tác giả đang viết về một cuộc sống thanh bình nơi thôn quê.

    Tác giả tiếp tục sử dụng giác quan của mình để nghe tiếng ve kêu, một đặc trưng không thể không nhắc đến của mùa hè. Nguyễn Trãi là nhà thơ của thiên nhiên cho nên tấm lòng của ông bao giờ cũng rộng mở để đón chào những gì tinh túy và xinh đẹp nhất của cảnh vật. Ngoài ra, ta còn thấy ông là một con người có lòng yêu thương dân như chính bản thân mình, ông vui với những cảnh bình dị mà thanh bình nơi thôn quê, và ông cũng chỉ có một ước mong rằng ở đâu cũng có thể hạnh phúc và yên bình như thế. Nhịp thơ chuyển qua nhịp 4/3 khiến cho mọi thứ dường như rộn ràng, gấp rút hơn, Nguyễn Trãi khao khát thể hiện tình cảm của mình đối với vạn vật, với nhân dân, ông là một người trọng tình trọng nghĩa. Bài thơ có sự hòa quyện tuyệt đối giữa tả cảnh và tả tình.

    Trung tâm gia sư quận 10 nhận thấy qua cái nhìn tinh tế của mình tác giả đã cho người đọc nhìn thấy được một cảnh ngày hè hài hòa với đủ các cung bậc màu sắc và âm thanh, cũng như tình yêu nước, thương dân luôn tồn tại trong lòng tác giả.

    Tham khảo từ khóa tìm kiếm bài viết từ google :

    cảm nhận về bài thơ cảnh ngày hè

    dàn ý cảm nhận về bài thơ cảnh ngày hè

    cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong cảnh ngày hè

    cảm nhận cảnh ngày hè ngữ văn 10 nâng cao

    bài thơ cảnh ngày hè ngữ văn 10

    cảm nhận bài thơ cảnh ngày hè ngắn gọn

    đoạn văn cảm nghĩ về bài thơ cảnh ngày hè

    nhận định về bài thơ cảnh ngày hè

    cảm nhận về nhàn và cảnh ngày hè

    Các bài viết khác…

    --- Bài cũ hơn ---

  • Cảm Nhận Cảnh Ngày Hè Ngắn Gọn Hay Nhất
  • Cảm Nghĩ Về Bài Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Nêu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Tác Giả Nguyễn Trãi
  • Đề Đọc Hiểu Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • --- Bài mới hơn ---

  • Đọc Hiểu Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Phân Tích Bài Cảnh Ngày Hè Của Đại Thi Hào Dân Tộc Nguyễn Trãi
  • Ôn Tập Học Kì 1 Văn 10: Nghị Luận Văn Học Cảnh Ngày Hè
  • Top 10 Bài Văn Mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi Lớp 10 Chọn Lọc
  • Cảm Nhận Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi

    Trong thi ca trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhà thơ, một nhà văn hóa, một nhà tư tưởng được xếp vào bậc kỳ tài. Ông không chỉ có nhiều tác phẩm văn thơ độc đáo, đặc sắc mà còn là người đặt nền móng và mở đường cho thi ca tiếng Việt. Nổi bật trong những bài thơ Nôm của ông là thi phẩm “Cảnh ngày hè” trong tập “Bảo kính cảnh giới”. Bài thơ không chỉ bày tỏ tâm hồn của Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu nhân dân, yêu non sông đất nước mà bên cạnh đó còn bộc lộ tâm tư, nỗi lòng mong mỏi cho sự hưng vượng của nhân dân, đất nước.

    “Cảnh ngày hè” được Nguyễn Trãi sáng tác vào lúc sinh thời sống ẩn giật tại chốn thôn quê Côn Sơn. Cuộc sống thanh bình, yên ả ở nơi làng mạc vào những ngày mùa hạ đã giúp ông cảm nhận được trọn vẹn nhịp sống của thiên nhiên, cảnh vật, con người, từ đó sáng tác nên bài thơ. Bức tranh “Cảnh ngày hè” đầu tiên được người thi nhân cảm nhận khi đang ngồi phiêu lãng trước những cơn gió và ông đã vẽ lên một cảnh hè đậm chất thôn quê Bắc bộ:

    Rồi hóng mát thuở ngày trường,

    Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

    Nguyễn Trãi trong lúc rỗi rãi giữa ngày hè dài ngồi hóng mát dưới cơn gió mùa hạ và ngắm cảnh thiên nhiên, cây cỏ để cảm nhận về sức sống của mùa hè. Hình ảnh đầu tiên mà Nguyễn Trãi thấy là một cây hòe đại thụ mang sức sống mãnh liệt với tán cây xanh dang rộng che lấp cả một khoảng trời. Cùng với đó từ láy “đùn đùn” được tác giả đặt vào giữa câu tạo cho mỗi người đọc chúng ta cảm giác về sự nảy nở, sinh sôi liên tiếp của sắc xanh hòe thụ đồng thời đánh vào tri giác, tâm tưởng của mỗi chúng ta để rồi chìm đắm trong sự thanh mát, tươi tắn như đang được che chắn bởi tán xanh cây hòe. Trái ngược hoàn toàn với cảm giác đó, thi nhân lập tức ấn tượng với một sắc đỏ rực rỡ của loài hoa thạch lựu trước hiên nhà. Trong dân gian, hoa thạch lựu vốn được mọi người ưa trồng nên trước hiên nhà Nguyễn Trãi có những bông hoa lựu rực đỏ cũng là điều dễ hiểu. Nhưng hoa thạch lựu cũng là loài hoa được xuất hiện khá nhiều trong thơ văn như Nguyễ Du cũng đã từng viết:”Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.”. Chắc có lẽ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du hay tất cả mọi người đều yêu mến loài hoa lựu bởi nó là loài hoa duy nhất mà ta biết dù cho có phai tàn thì cánh của nó cũng sẽ tự thu lại vào cuống của mình. Một loài hoa mạnh mẽ và kiên cường đến lạ lùng. Và cuối cùng, một loài hoa đặc trưng của mùa hè Việt quốc đó là “liên hoa” mà Nguyễn Trãi đã cảm nhận được không chỉ bằng nhãn tinh mà còn bằng cả khứu giác. Tinh tế, thanh nhã như hương thơm bay ra từ đài sen khiến thi nhân không thể nào bỏ qua nổi, cùng với đó màu hồng của liên hoa cũng khiến con người ta thỏa mãn thị giác, thanh tịnh tâm hồn. Bằng cả thị giác, thính giác và cảm quan tri giác của mình, Nguyễn Trãi làm sống dậy trên những dòng thơ một không gian ngày hè sinh động, tươi đẹp nhất. Nhà thơ như đã hòa quyện cả tâm hồn mình cùng với thiên nhiên, cây cỏ, hương thơm để cảm nhận ngày hè, thế mới thấy cái tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và yêu chính con người, đất nước, quê hương của thi nhân.

    Nếu cảnh vật thiên nhiên mang tới cho nhà thơ những cảm giác thanh dịu, êm đềm thì hình ảnh những con người, làng mạc, khung cảnh chợ chiều lại khiến thi nhân thấy náo nhiệt, sôi động biết chừng nào:

    Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

    Hai câu thơ 5, 6 Nguyễn Trãi đều sử dụng biện pháp đảo ngữ tạo nên những hình ảnh mang ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Chợ cá tại các làng chài lưới vốn dĩ là những hình ảnh quen thuộc tại các làng quê ven biển Việt Nam nhưng qua câu thơ của Nguyễn Trãi khi ông đảo từ láy “lao xao” lên đầu câu cùng với việc sắp xếp dồn hai từ “cá” chồng lên “ngư” khiến chúng ta cảm thấy khung cảnh chợ sao mà rộn ràng, náo nhiệt với bao nhiêu con người làm vang rộn cả một góc trời giữa buổi sớm mai. Thêm nữa, tiếng “đàn ve” cất lên vào buổi hoàng hôn inh ỏi, vang dội. Những âm thanh đó là đặc điểm riêng của mùa hè mà ai cũng biết, vậy nhưng ở câu thơ của Nguyễ Trãi tiếng ve không chỉ âm vang trong những lùm cây mà nó còn dồn dập đánh mạnh vào không gian chiều tàn như muốn lôi kéo mặt trời kia đang sắp lặn xuống sau núi kia lưu lại thêm một chút với cuộc đời. Qua cả hai câu thơ, thi nhân quan sát, cảm nhận từ khi sáng sớm khi chợ cá mới bắt đầu lao xao cho tới khi chiều tà tiếng ve vẫn còn inh ỏi khiến chúng ta thấy được những hình ảnh bình dị vốn rất thân quen mà có thể bấy lâu nay đã chẳng còn quan tâm nó. Nguyễn Trãi quả thực là một con người yêu nước thương dân dẫu rằng có là về ở ẩn ông vẫn âm thầm quan sát những công việc bán buôn của nhân dân lao động và vẫn quan tâm tới tình cảm, tâm hồn của mỗi con người.

    Cuối cùng của bài thơ, tác giả viết lên những lời tâm sự, nỗi trăn trở, mong mỏi của mình về vận mệnh và sự hưng vượng của đất nước:

    Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương.

    Vua Đường Nghiêu và vua Ngu Thuấn theo thần thoại của Trung Quốc, đó là những đời vua hưng vượng, thanh bình, nhân dân ấm no, hạnh phúc, không có chiến tranh, lao dịch, khổ sai và là một xã hội lí tưởng. Nguyễn Trãi mong muốn có được chiếc đàn của vua Ngu Thuấn để đàn một khúc Nam Phong cho dân chúng thanh bình, hạnh phúc, hưng vượng muôn nơi như triều đại của hai vị vua trong thần thoại đó. Nguyễn Trãi cũng chỉ là một con người bình thương nhưng ông mang tấm lòng của một vị thánh nhân, ông luôn lo nghĩ cho nhân dân, cho cuộc đời, cho sự hưng vượng của quốc gia mà không màng tới bản thân. Đồng thời, qua câu thơ này ông muốn ca ngợi những vị vua anh minh, sáng suốt cùng với triều thần thanh khiết nghiêm minh từ đó mong mỏi triều đại lúc bấy giờ cũng sẽ nhìn tầm gương sáng đó mà noi theo.

    Nguyễn Trãi bằng tài năng xuất chúng, tình yêu văn chương, cùng khả năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt bình dị và các hình ảnh quen thuộc đã viết lên bài thơ “Cảnh ngày hè”. Qua đó, thi nhân khắc họa được một mùa hè chân thực, sinh động, cùng với những hiện tượng, cảnh vật quen thuộc từ đó bộc lộ tình yêu thiên nhiên tha thiết. Hơn thế nữa, bài thơ cũng bãy tỏ nỗi niềm yêu nước thương dân, lo lắng cho hưng vượng của quốc gia và thể hiện tấm lòng trung quân ái quốc, một lòng với gấm vóc non sông.

    Đỗ Dũng

    Từ khóa tìm kiếm

    • cảm nhận của e về bài cảnh ngày hè
    • cảm nhận của em về bài thơ cảnh ngày hè
    • cảm nhận về bài nhan
    • cảm nhận bài thơ cảnh ngày hè của nguyễn trãi
    • cảm nhận của em về bài thơ cảnh ngày hè củ
    • nêu cảm nghĩ của em về bài cảnh ngày hè
    • Cảm nhận của em về bài thơ cảnh ngày hè của
    • cảm nhận của e về cảnh ngày hè
    • cảm nhận bài thơ cảnh ngày hè
    • cảm nhận bài theo cảnh ngày hè

    --- Bài cũ hơn ---

  • Phân Tích Bài Thơ “cảnh Ngày Hè” Của Nguyễn Trãi
  • Phân Tích Bức Tranh Mùa Hè Trong Bài Thơ “cảnh Ngày Hè”
  • Bình Giảng Về Bức Tranh Thiên Nhiên Mùa Hè Trong Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Giáo Án Ngữ Văn 10 Tiết 48: Cảnh Ngày Hè [ Bảo Kính Cảnh Giới
  • Cảm Nhận Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • --- Bài mới hơn ---

  • Giáo Án Ngữ Văn 10 Tiết 48: Cảnh Ngày Hè [ Bảo Kính Cảnh Giới
  • Bình Giảng Về Bức Tranh Thiên Nhiên Mùa Hè Trong Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Phân Tích Bức Tranh Mùa Hè Trong Bài Thơ “cảnh Ngày Hè”
  • Phân Tích Bài Thơ “cảnh Ngày Hè” Của Nguyễn Trãi
  • Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi Rất Hay
  • Đề bài: Cảm nhận bài thơ Cảnh ngày hè.

    Cảm nhận bài thơ Cảnh Ngày Hè – Nguyễn Trãi là một nhà thơ lớn không chỉ của riêng văn học trung đại mà còn cả nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại rất nhiều bài thơ hay và giá trị. Một trong số đó chính là bài thơ Cảnh Ngày Hè.

    Bài thơ được trích trong tập thơ chữ Nôm Quốc âm thi tập. Tập thơ gồm 254 bài thơ và bài thơ Cảnh Ngày Hè là bài số 43 chứa chan những khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân. Bài thơ được sáng tác trong khoảng thời gian Nguyễn Trãi về ở ẩn tại Côn Sơn. Là bức tranh mùa hè của miền qua và đồng thời nói lên tâm trạng, giãi bày nỗi niềm, tâm sự của chính tác giả. Điều này được thể hiện ở ngay câu thơ đầu:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường”

    Vì tâm hồn còn vướng bận nên Nguyễn Trãi quan niệm trở về với thiên nhiên là cách tốt nhất để thanh lọc tâm hồn:

    “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

    Có thể nói cảnh ngày hè trong con mắt của nhà thơ trở nên rực rỡ, nhiều hình ảnh, nhiều màu sắc. Qua tâm hồn, tình cảm của ông thì nó trở nên đầy sức sống trái ngược với chốn quan trường thiếu sinh khí. Câu thơ mặc dù miêu tả cảnh nhưng trong cảnh lại có sự vận động của cảnh vật. Điều này được thể hiện qua những từ như: “Đùn đùn”, “phun”, “tiễn”. Có thể thấy sức sống của cảnh vật như trỗi dậy, từ những cảnh vật không thể di chuyển được nhưng lại có sự vận động và được miêu tả một cách tinh tế đem lại nhiều xúc cảm cho người đọc. Cây hòe thì những tán lá “đùn đùn” lan rộng, tỏa bóng mát cho những ngày hè nắng chói chang. Rồi những cây thạc lựu “phun” thức đỏ. Đây là một loài cây không thể không nhắc đến vào những ngày hè, một trong những loại cây tượng trưng cho mùa hè. Màu đỏ của thạch lựu như hòa chung với nắng hè khiến nó càng trở nên chói chang, gay gắt với cùng tông màu nóng. Bên cạnh đó khi nói về làng quê, nói về tâm hồn thanh thản không thể không nhắc tới một loài hoa, đó chính là hoa sen. Nguyễn Trãi đã sử dụng tên gọi cổ của loài sen đó chính là “hồng liên”, ở đây sen không chỉ có một bông mà đó là cả một ao sen. Mùa hè là mùa sen nở chính vì thế “tiễn” không phải là sự chia ly, tiễn biệt mà ngụ ý để nói hương thơm ngào ngạt của sen đang lan tỏa khắp không gian, bay theo từng cơn gió mùa hạ trên hồ. Tất cả hội tụ lại như một khung cảnh rộng lớn của một khu vườn nào đó, có ao, có cây muôn màu muôn vẻ dưới con mắt của một thi sĩ đa sầu, đa cảm.

    Không chỉ cảm nhận cảnh vật bằng thị giác mà Nguyễn Trãi còn cảm nhận bằng thính giác qua việc lắng nghe những âm thanh của thiên nhiên:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Có thể thấy thiên nhiên không hề tĩnh lặng, hoang sơ mà thậm chí rất sôi động. Hình ảnh “chợ” được nhắc đến như một hình ảnh biểu trưng cho cuộc sống thái bình nơi thôn dã. Những chợ phiên họp để phục vụ nhu cầu cho người dân, chợ càng đông vui thì chứng tỏ đất nước càng thái bình, dân ấm no mà trái lại nếu chợ tiêu điều hoang vắng nghĩa là đất nước có chiến loạn hoặc nhân dân nghèo khổ. Tiếng ve là dặc trưng của mùa hè, gắn với “lầu tịch dương” giống như một bản nhạc mạnh mẽ, rạo rực vào buổi chiều tà. Qua đó cho thấy thiên nhiên trở nên sống động mà bản thân Nguyễn Trãi cũng đang háo hức muốn hòa cùng với thiên nhiên ấy.

    Mặc dù lánh đời, mặc dù có những rung động trước thiên nhiên, cảnh vật nhưng trong thâm tâm ông vẫn giữ những mong mỏi lớn lao vẫn còn dở dang:

    “Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Nguyễn Trãi có sử dụng đến điển tích, điển cố về vua Nghiêu, vua Thuấn, thời đại thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có khúc đàn “Nam Phong” gảy lên ngợi ca sự giàu đủ, ấm no của nhân dân. Cho nên nhà thơ mới mượn nó để mong sao nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

    Bài thơ Cảnh Ngày Hè không chỉ khắc hoạn nét đẹp, vui tươi và sinh động của thiên nhiên trong ngày hè mà còn nói lên nỗi niềm, sự khắc khoải của Nguyễn Trãi. Mặc dù đã về chốn thôn dã ở ẩn, lánh đời nhưng vẫn canh cánh nỗi lo cho nhân dân,

    Mai Du

    --- Bài cũ hơn ---

  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi.
  • Cảm Nhận Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Cảm Nhận Cảnh Ngày Hè Ngắn Gọn Hay Nhất
  • Cảm Nghĩ Về Bài Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Nêu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Tác Giả Nguyễn Trãi
  • --- Bài mới hơn ---

  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Triết Lí Sống Nhàn Qua Bài Thơ Nhàn [Nguyễn Bỉnh Khiêm] Và Cảnh Ngày Hè [Nguyễn Trãi]
  • Đề Thi Học Sinh Giỏi Về Bài Cảnh Ngày Hè[ Nguyễn Trãi] Và Tỏ Lòng [ Phạm Ngũ Lão]
  • Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi [Có Dàn Ý Và Bài Làm Chi Tiết]
  • Cảm nhận về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Bài làm 1

    Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như ” Bình ngô đại cáo” của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì ” Cảnh ngày hè” là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Bài thơ đã thể hiện tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của nhà thơ.

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường

    ………………………………

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Mở đầu, bài thơ đến với ta với những hình ảnh về thiên nhiên rực rỡ.

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường

    Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”​

    Từ ” rồi” mở đầu câu thơ phải chăng nói đến tâm trạng ” bất đắc chí” của nhà thơ. Câu thơ đầu chỉ vỏn vẹn với sáu từ nhưng đã khá đầy đủ về thời gian, hoàn cảnh, tâm trạng của nhà thơ. Đây chính là sự phá cách đầy sáng tạo của Nguyễn Trãi, ông đã Việt hóa thơ Đường luật vốn mỗi câu có đủ bảy từ. Lại thêm sự mới lạ với cách ngắt nhịp: một, hai, ba kết hợp với thanh bằng ở cuối câu làm câu thơ nghe như tiếng thở dài nhưng lại không giống lời than thở. Xem bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Trãi, trước hết ta thấy hình ảnh một con người ngồi đó – Câu mở đầu hóng mát ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi. Phải chăng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng vẫn hòa mình cùng thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên đã hiện ra trước mắt ông thật rực rỡ.

    Ba câu thơ tiếp theo, dưới ngòi bút đầy tài năng của Nguyễn Trãi, một bức tranh thiên nhiên thật sống động và đầy màu sắc đã đến với chúng ta một cách chân thật nhất. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau, tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Mở đầu câu thơ là hình ảnh cây Hòe – một loại cây đặc trưng ở vùng Bắc Bộ, rất dễ bắt gặp ở mọi nơi. Tính từ” đùn đùn ” kết hợp với động từ mạnh ” giương” đã góp phần diễn tả sự sum xuê, nẩy nở, làm cho cây hòe như có hồn hơn, làm bức tranh như sống động hơn. Bên cạnh đó, không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khứu giác. Nhịp thơ ¾ kết hợp với động từ mạnh” phun ” làm cảnh vật dường như nổi bật hơn nhưng lại không chói chang, oi nồng mà mát dịu, tinh tế. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, ” lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông đã miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.

    Và ” Cảnh ngày hè” trong thơ Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện trong những màu sắc của thiên nhiên tươi đẹp mà còn qua nhịp sống sinh đẹp của nhân dân.

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Hai từ láy “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với nhau đã thể hiện những âm thanh của làng chài quen thuộc- lao xao của chợ cá, rộn rã của tiếng ve. Ở đây, Nguyễn Trãi đã ngắm nhìn cuộc sống, cảm nhận cuộc sống với một tâm hồn rộng mở một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Tiếng lao xao, tiếng ve phải chăng là tiếng lòng ông, tiếng lòng của một vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, tiếng lòng của một người yêu thiên nhiên tha thiết. Thiên nhiên, cảnh vật ở vào thời điểm cuối ngày nhưng sự sống thì không dừng lại. Cũng như Nguyễn Trãi, mặc dù đã lui về ở ẩn nhưng lòng ông lúc nào cũng có một tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước tha thiết.

    Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ, qua đó, thể hiện hết phần nào về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Ở đây, tác giả đã mượn điển tích để nói lên khát vọng của mình. Câu thơ cuối sáu chữ ngắn gọn, nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài – tác giả khát khao đem tài trí thực hành tư tưởng yêu nước, thương dân, và đó cũng chính là tưởng chủ đạo của bài thơ. Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước. Không có một lòng yêu quê hương, đất nước sâu đậm, ông không thể có một ước muốn như vậy. Không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể cảm nhận được hết vẻ đẹp mùa hè nơi một làng chài quê hương thanh bình. Và, không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể viết nên bài thơ ” Cảnh ngày hè” làm xúc động lòng người như vậy.

    Bài thơ tả cảnh ngày hè cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yên nhân dân, đất nước. Việt hóa thơ Đường luật, sáng tạo thơ thất ngôn xen lục ngôn, vận dụng hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh của cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống của con người, hệ thống ngôn ngữ giản dị tinh tế xen lẫn từ Hán và điển tích chính là nhửng nét nghệ thuật đặc trưng cho ” Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi.

    Bài thơ “Cảnh ngày hè” đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.

    Nguyễn Trãi là vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tài năng kiệt xuất của ông không chĩ được khẳng định trong lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn được khẳng định qua sự nghiệp văn chương đồ sộ với những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà.

    Lí tưởng mà Nguyễn Trãi ôm ấp lá giúp vua làm cho đất nước thái bình, nhân dân thịnh vượng. Lí tưởng cao đẹp ấy là nguồn động viên mạnh mẽ khiến ông vượt qua mọi thử thách, gian nan trên đường đời. Lúc được nhà vua tin dùng cũng như khi thất sủng, nỗi niềm lo nước, thương dân luôn canh cánh bên lòng ông. Giông bão cuộc đời không thể dập tắt nổi ngọn lửa nhiệt tình trong tâm hồn người chí sĩ tài đức vẹn toàn ấy.

    Bài thơ Cảnh ngày hè được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về nghỉ ở Côn Sơn. Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập ngựa xe và chốn cửa quyền hiểm hóc để về với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi thôn dã, bầu bạn cùng dân cày cuốc, cùng mây nước, chim muông, hoa cỏ hữu tình. Trong những tháng ngày dài nhàn nhã “bất đắc dĩ ấy, nhà thơ có lúc thấy vui trước cảnh vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi vào những vần thơ tả cảnh một thoáng khát vọng mong cho dân giàu, nước mạnh. Bài thơ phản ánh tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước.

    Bài thơ mở đầu bẵng câu lục ngôn nêu rõ hoàn cảnh của nhà thơ lúc đó:

    Rỗi / hóng mát / thuở ngày trường.

    Lẽ ra câu thơ phải bảy chữ mới đúng là thể thất ngôn bát cú quen thuộc, song Nguyễn Trãi đã lược đi một chữ. Đây cũng là một cách tân táo bạo, mới mẻ trong thơ Nôm nước ta thuở ấy. Nhịp thơ 1/2/3, chậm rãi phản ánh tư thế ung dung, tự tại vốn có của tác giả.

    Chữ Rỗi tách riêng thành một nhịp thể hiện cảm nhận của tác giả về tình cảnh của mình. Rỗi là từ cổ, cổ nghĩa là nhàn nhã, không vướng bận điều gì. Cuộc đời Nguyễn Trãi thường không mấy lúc được thảnh thơi. Đây là lúc ông được sống ung dung, được thỏa ước nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng yêu mến.

    Không có việc gì quan trọng, cần kíp để làm cả, chỉ có mỗi “việc” là hóng mát. Ngày trường là ngày dài. Đây là cảm giác tâm lí về thời gian của người đang sống trong cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người ưa suy nghĩ, hành động như Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng rõ hơn bao giờ hết. Giữa lúc xây dựng lội non sông sau chiến tranh, việc dân việc nước bời bời mà ông bị bắt buộc phải hóng mát hết ngày này qua ngày khác thì quả là trớ trêu, Bởi vậy, ông rơi vào cảnh thân nhàn mà tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi trước tình cảnh trớ trêu ấy.

    Chỉ có vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư của cảnh vật mới có thể tạm xua đi những áng mây buồn vướng vít trong tâm hồn ông. Ông mở lòng đón nhận thiên nhiên và thấy vui trước cảnh:

    Hòe lục đùn đùn tản rợp giương.

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

    Chi vài nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn thi sĩ.

    Ba câu thơ nổi đến ba loại cây: hòe, lựu, sen nhưng chẳng lẽ tác giả chỉ nói đến cây? Dường như có cả con người lồng trong đó, hết sức kín đáo. Các từ đùn đùn, [dồn dập tuôn ra] giương [toả rộng ra], phun, tiễn [ngát, nức] gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Câu thơ thứ hai ngắt nhịp 4/3. Hai câu thơ tiếp theo đổi nhịp thành 3/4, tạo thêm cho cảnh vật vẻ sinh động, rộn ràng. Giữa cảnh với người có nét tương đồng nào chăng? Đời người anh hùng cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ [màu đỏ] của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của tấm lòng sắt son với dân với nước?! Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lí tưởng chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình, vì nhân dân hạnh phúc?! Rõ ràng ở đây, cảnh và người có những nét tương đồng và đều đẹp đẽ, hài hòa.

    Ở bốn câu thơ trên, nhà thơ mới nhắc đến màu sắc, hương thơm, cây cỏ; ở hai câu thơ tiếp theo còn có thêm mùi vị, âm thanh, hình ảnh con người và cảnh vật:

    Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

    Dắng hỏi cầm ve lầu tịch dương.

    Từ tượng thanh Lao xao đặt trước hình ảnh chợ cá làm nổi bật không khí nhộn nhịp của làng ngư phủ. Lao xao tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy hòa vào tiếng ve kêu dắng đỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, báo hiệu chấm dứt một ngày hè nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều tà thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ lúc này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.

    Cỏ cậy, hoa lá, con người đẩy sức sống khơi dậy trong lòng nhà thơ cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng và những suy nghĩ chân thành, tâm huyết nhất. Đó là tình yêu cuộc sống, yêu con người và trách nhiệm đối với dân với nước. Nguyễn Trãi luôn tâm niệm lấy dân làm gốc [dân vi bản, dân vi quý] cho nên trước thiên nhiên tươi xanh, trước những con người cần cù, lam lũ, lòng ông lại dấy lên khát vọng mãnh liệt:

    Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

    Dân giàu đủ khắp đòi phương.

    Ông ước gì lúc này có được trong tay cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nổi lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ. Ẩn giấu đằng sau lời ước mong ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quyền thần tham bạo ở triều đình đương thời không còn nghĩ đến dân, đến nước. Theo ông, với cảnh nước non tươi đẹp cùng nhân dân chất phác, siêng năng, cuộc sống lẽ ra phải được trở lại ấm no, hạnh phúc từ lâu.

    Vậy là dẫu hòa hợp đến hết mình với thiên nhiên, Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nỗi niềm dân nước, ông tìm thấy ở thiên nhiên cỏ hoa xinh tươi kia một nguồn thi hứng, nguồn động viên, an ủi và khích lệ đáng quý đối với bản thân. Điều đó góp phần tạo nên cốt cách của Nguyễn Trãi, bậc trượng phu – chính nhân quân tử – hiên ngang như cây tùng, cây bách trước giông bão cuộc đời.

    Cảnh ngày hè là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trãi về hình thức thơ. Câu thất ngôn xen lục ngôn, các vế đối rất Chỉnh, cách sử dụng từ láy rất tài tình. Để tăng sức biểu hiện của các tính từ và động từ, tác giả đem chúng đặt ở đầu câu. Đây là bài thơ tả cảnh ngày hè tràn đầy sức sống. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh sắc đặc trưng của mùa hè, mà còn là “tức cảnh sinh tình”. Cảnh ở đây thể hiện niềm vui sống, háo hức, tươi tắn, trẻ trung của tâm hồn nhà thơ Và niềm ao ước của Nguyễn Trãi về hạnh phúc cho dân chúng muôn phương.

    Cảm nhận về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Bài làm 2

    Cảnh ngày hè là bài thơ đặc trưng nhất cho nội dung và nghệ thuật của Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ phác họa lên một bức tranh ngày hè với vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc. Thể hiện tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của nhà thơ. Bài thơ bình dị, tự nhiên, câu thơ lục ngôn xen thất ngôn, từ ngữ có sức miêu tả sinh động…

    Rất nhiều tác phẩm thể hiện tài năng đa dạng, phong phú của Nguyễn Trãi, trong đó tập thơ chữ Nôm Quốc âm thi tập là tập thơ đáng chú ý. Được sáng tác không liên tục từ thời trẻ, hồi chưa đỗ đạt, lưu lạc cho đến lúc ông làm quan to, công thành danh toại và khi về già bị biếm trích, ở ẩn Côn Sơn… Có thể nói rằng tập thơ mang chứa không biết bao nhiêu nỗi lòng, tâm sự của Nguyễn Trãi. Dẫu vậy, khép lại Quốc âm thi tập nổi bật hơn cả, đó vẫn là một tình yêu nồng đượm tha thiết với thiên nhiên, đất nước thể hiện triết lý sống mà suốt đời tác giả luôn theo đuổi.

    Ông luôn coi trọng đến sự ấm no, hạnh phúc của người dân, tâm niệm của ông được thể hiện trog từng câu chữ. Điểm đáng chú ý ở bài thơ trước hết thể hiện sự sáng tạo của tác giả trong việc sử dụng và cách tân thể thơ thất ngôn bát cú Trung Quốc. Việc giữ lại số lượng câu chữ của thể thơ này nhưng xen thơ sáu chữ ở câu một và câu tám thể hiện sự sáng tạo, ý thức trân trọng đối với ngôn ngữ và văn hóa dân tộc,chính là tấm lòng với đất nước, quê hương. Nguyễn Trãi suốt đời đau đáu một hoài bão lớn: làm gì để “yên dân”, người dân lầm than khổ cực được yên vui, an lành, no ấm, hạnh phúc trong “nền thái bình muôn thuở”. Đáng tiếc, quan lộ của Nguyễn Trãi không mấy yên ổn, nên ông không có đủ cơ hội đem tất cả chí hướng và tài năng của mình cống hiến cho nước, cho dân. Khi đã không còn được trọng dụng, đã lui về bầu bạn cùng thiên nhiên trong sạch và tràn đầy sức sống, lòng Nguyễn Trãi vẫn không nguôi hướng về cuộc đời sôi động còn bao nỗi cay đắng, bất công, vẫn thiết tha mong muốn lại được mang tài trí của mình ra giúp đời giúp nước

    Mở đầu, như thường lệ của kết cấu thể thơ thất ngôn bát cú, Nguyễn Trãi giới thiệu tâm cảnh sáng tác của mình:

    “Rỗi, hóng mát thuở ngày trường”

    Trong cảnh đất nước đang rơi vào cảnh lầm than, mục nát, một vị quan chính trong triều như Nguyễn Trãi lại nhàn hạ, rảnh rỗi đến lạ thường. Rõ ràng với con người ông, bài thơ chắc chắn ra đời trong hoàn cảnh đau đớn nhất của Nguyễn Trãi, hoàn cảnh của một giai đoạn mà Nguyễn Trãi bắt buộc phải cáo quan về ở ẩn ở Côn Sơn. Khác với Nguyễn Du về sau, Nguyễn Trãi là con người sinh ra để hành động. Thế mà lúc này, con người hành động ấy phải nói:

    “Rỗi, hóng mát thuở ngày trường… “

    Chỉ bằng một câu thơ đơn giản, nhà thơ đã bày tở được tâm trạng bế tắc, một tâm tư trĩu nặng với dân với nước của ông.Thế nhưng nhìn ở khía cạnh tinh thần, Nguyễn Trãi không phải là kẻ bi quan, yếm thế. Nghị lực, niềm tin đã được mài dũa từ thời kì nếm mật, nằm gai đã giúp ông vượt lên hoàn cảnh, số phận. Ông vẫn nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Vẻ đẹp của người dân đáng lẽ là sung túc, ấm no hơn nữa trong buổi thái bình. Vẻ đẹp ấy giúp chúng ta khẳng định rằng, ông không chỉ là một nhà quân sự, một bậc khai quốc công thần, ông còn là một nghệ sĩ lớn. Người nghệ sĩ ấy đã vượt lên những nỗi buồn để tái dựng một bức tranh mùa hè đầy màu sắc, đầy những thức vị điển hình. Hình ảnh cây hòe tán rợp trương, hình ảnh lửa lựu lập lòe đơm bông [Kiều]. Trong:

    “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”

    Một loài hoa đẹp sen hồng, tiêu biểu của mùa hè, tỏa hương…được chú ý trong tâm trạng phẫn uất của tác giả, tất cả tạo nên một bức tranh mùa hè đầy màu sắc, thể hiện khả năng cảm nhận thấu đáo của người nghệ sĩ khi họa bút. Ở đây, khi họa bút rất nhiều giác quan được vận dụng. Từ thị giác [sắc màu, hình ảnh] đến khứu giác [hương hoa], thính giác [âm thanh]:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Tất cả làm nên một khúc cầm đầy những cung bậc về một mùa hè trong cảm nhận của người nghệ sĩ. Thế nhưng, riêng đối với nhân cách của Nguyễn Trãi, sẽ rất phiến diện khi ta chỉ dừng lại ở đó trong Cảnh tình mùa hè. Vượt lên trên tất cả là tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha của ông. Cảnh đẹp đã mở ra trong lòng Nguyễn Trãi một nỗi day dứt, một ước vọng:

    “Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Ông coi thiên nhiên, con người là những người bạn, mang lại niềm vui cho ông, nhưng hơn thế ông còn khao khát hành động để giúp đời giúp nước. Niềm khao khát ấy thể hiện ở ước mơ có được cây đàn của vua Thuấn để ca ngợi cảnh thái bình, hay nói đúng hơn, đó là ước mơ: làm sao có được một triều đại thái bình thịnh trị như đời Nghiêu Thuấn để nhân dân muôn nơi được sống trong sung sướng,

    Ông ao ước tất cả mọi người dân trên đất nước đều có cuộc sống ấm lo hạnh phúc. Nguyễn Trãi không nói tiếp nhưng ta hiểu được nỗi lòng của ông trong chữ lẽ có. Đáng lẽ điều ấy sẽ là hiện thực nếu triều đình nhà Lê bấy giờ cùng một mối đồng tâm. Đằng này, việc tranh giành quyền lợi, ham quyền cố vị, lục đục… của họ đã khiến điều ấy – sự ấm no, sung túc của người dân – còn rất mờ mịt. Cảm động, nhân văn biết bao tấm lòng của Nguyễn Trãi. Tấm lòng nhân dân, dân vi bản [lấy dân làm gốc] ấy canh cánh mãi bên lòng ông, theo đuổi ông trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi lúc. Tấm lòng ấy hiện hữu cả khi Nguyễn Trãi là kẻ thưởng ngoạn thiên nhiên. Đọc hết Cảnh tình mùa hè không nghi ngờ gì nữa khi khẳng định rằng: Nguyễn Trãi không chỉ là một nghệ sĩ tài hoa, ông còn là một nhân cách lớn của kẻ suốt đời vì dân vì nước.

    Nguyễn Trãi đã sống cách chúng ta qua nhiều thế kỉ nhưng những gì ông để lại thì có ý nghĩa cho đến mãi mãi về sau. Qua bài thơ ” Cảnh ngày hè”, tấm lòng của ông đối với dân với nước được bộc lộ thật chân thành và cao cả, ông đúng là một trong những anh hùng vĩ đại của dân tộc.

    --- Bài cũ hơn ---

  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Bài Thơ Cảnh Ngày Hè [Nguyễn Trãi]
  • Phâ Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Tác Giả Nguyễn Trãi
  • Những Câu Chúc Tết Hài Hước Nhất
  • Phân Tích Bài Thơ “bài Ca Chúc Tết Thanh Niên” Của Phan Bội Châu
  • --- Bài mới hơn ---

  • Bài Văn: Phân Tích Bài Thơ “Cảnh Ngày Hè” [3]
  • Phân Tích Bức Tranh Thiên Nhiên Trong Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi
  • Giáo Án Ngữ Văn 10 Tiết 48: Cảnh Ngày Hè [ Bảo Kính Cảnh Giới – Bài Số 43] Nguyễn Trãi
  • Giáo Án Ngữ Văn 10 Tiết 38: Đọc Văn Cảnh Ngày Hè
  • Phân Tích Nghệ Thuật Sử Dụng Từ Ngữ Của Nguyễn Trãi Trong Cảnh Ngày Hè
  • Bài văn phân tích tác phẩm “Trao duyên” mẫu 1

    Nhắc đến Nguyễn Du – đại thi hào của dân tộc Việt Nam, người ta sẽ nhớ ngay đến “Truyện Kiều” – kiệt tác văn chương của nhân loại. Những tác phẩm của Nguyễn Du nói chung và thiên “Truyện Kiều” nói riêng đã đóng góp một phần quan trọng đối với nền văn học, văn hóa nước nhà. Đoạn trích “Trao duyên” được trích trong tác phẩm từ câu thơ 723 đến câu 756, nói về bối cảnh Thúy Kiều trao duyên lại cho Thúy Vân, nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đây là một trích đoạn đầy nghịch cảnh éo le và bi kịch, gây sự xúc động mạnh trong lòng người đọc.

    Trong đoạn trích, cái duyên ở đây chính là mối duyên tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, thế nhưng vì hoàn cảnh gia đình rơi vào bi kịch, Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha và em, không còn có thể giữ mối duyên đó với chàng Kim được nữa. Thúy Kiều đành đem duyên đó của mình trao lại cho em gái là Thúy Vân, ngưỡng mong em sẽ chấp nhận và thay mình trả mối nghĩa tình cho chàng Kim. Mở đầu là câu thơ mang nặng sự nhờ vả, trông cậy của Kiều dành cho Vân:

    “Cậy em em có chịu lời,

    Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

    Từ “cậy” vừa thể hiện sự tin cậy lại vừa nhấn mạnh Vân là sự lựa chọn duy nhất, hợp lý nhất trong hoàn cảnh đó của Kiều, kết hợp với hành động “lạy”, “thưa” dường như Kiều đang trong trạng thái đau đớn, trong tình cảnh của kẻ mang ơn. Kiều tuy là chị nhưng lại quỳ lạy, thưa gửi với em của mình, có phần trái ngược với giáo lý phong kiến nhưng lại đúng với hoàn cảnh éo le, trước khi nhờ cậy Kiều đã kính cẩn, trạng trọng coi Vân như người ân nhân của mình. Điều đó cũng dự báo việc nàng nhờ cậy là việc rất quan trọng, khó khăn, chính vì vậy Kiều phải hết lòng giãi bày, tâm sự và thuyết phục Vân hiểu và chịu cho mình:

    “Giữa đường đứt gánh tương tư…

    Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

    Trong đoạn thơ, Kiều nhắc đến “mối tơ thừa” chính là mối tơ tình duyên của nàng với chàng Kim, đối với Vân mối tình duyên đó chẳng có ý nghĩa, chỉ là thừa thãi bởi vốn Thúy Vân và Kim Trọng đâu có tình cảm gì. Phải mang vào mình mối thừa ấy là một thiệt thòi của Vân, biết vậy nhưng Kiều cũng chỉ “mặc em”, bởi nàng cũng không có cách nào, không có lựa chọn nào khác. Nàng còn kể về mối tình với chàng Kim để mong em hiểu cho nỗi lòng, nghĩa tình sâu nặng giữa mình và Kim Trọng, nếu không trả khó có thể trọn vẹn, chỉ bởi sóng gió ập đến gia đình mà nay đành phải đứt gánh giữa đường. Thúy Kiều rất thông minh khi những lí lẽ nàng thuyết phục Thúy Vân vẹn tròn cả lý lẫn tình, nàng nhắc đến tình máu mủ ruột già mong em hãy bằng lòng chấp nhận, chính điều đó đã khiến cho Thúy Vân không thể từ chối lời thỉnh cầu của chị. Bước sang phân cảnh Kiều trao lại kỉ vật tình yêu với Kim Trọng cho Thúy Vân, ta thấy được một tình yêu đẹp, chân thành mà sâu sắc giữa hai người:

    “Chiếc vành với bức tờ mây…

    Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

    Những kỉ vật như chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền giờ đây trở thành của chung ba người, tuy trao đi kỉ vật nhưng lòng Kiều vẫn giữ mãi ân tình, không quên được những kỉ niệm với người yêu, điều đó khiến nàng đau xót như mất đi những phần quan trọng của cuộc sống.

    “Mai sau dù có bao giờ…

    Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

    Kiều nhiều lần nhắc đến cái chết trong những lời của mình, một phần muốn chắc chắn rằng Thúy Vân đã nhận lời, nàng khi đã bán mình chuộc cha và em cũng khó có thể biết được số phận trôi dạt về đâu, sống chết không rõ ra sao. Kiều dù chết đi vẫn mong người ở lại hãy nhớ đến mình, mong muốn có được sự đồng cảm của mọi người, và đến khi chết nàng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng.

    “Bây giờ trâm gãy bình tan…

    Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

    Kiều quay về thực tại, chẳng còn kỉ niệm tình yêu ngọt ngào nữa, giờ đây là hiện thực dở dang, lỡ làng, tan vỡ, bây giờ tình duyên của nàng đã mất, cuộc đời cũng sắp phải giao cho người khác, số phận nàng “bạc như vôi”. Nàng gọi tên chàng Kim trong nỗi thổn thức, xót xa và như một lời từ biệt cuối cùng: “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang”, nàng đã phụ tấm lòng chàng Kim, nàng tuyệt vọng dưới sự đày đọa của hoàn cảnh và số phận.

    Thông qua việc phân tích bài trao duyên, ta không chỉ thấu hiểu được bi kịch tình yêu và số phận của Thúy Kiều mà còn thấy được ở đó hiện lên nhân cách cao đẹp của nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn, giàu đức hy sinh và giàu lòng vị tha. Qua nhân vật Thúy Kiều, nhà thơ Nguyễn Du cũng bày tỏ sự cảm thông, xót xa trước những bất hạnh và hiện thực bất công của cuộc đời Kiều.

    Bài văn phân tích tác phẩm “Trao duyên” mẫu 2

    Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Trong thời kì văn học trung đại, Nguyễn Du cùng với những tác giả khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,… tạo thành những tượng đài thơ ca của văn học Việt Nam. Tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên “Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao duyên” là một trong những đoạn tiêu biểu trong tập truyện, thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.

    Truyện Kiều là một tác phẩm được coi như kiệt tác văn chương của nhân loại, được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không hề được biết đến cho tới khi Nguyễn Du khai thác cốt truyện bình thường ấy thành tiếng kêu ai oán đến xé lòng, một bản sầu ca não nề của người con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích “Trao duyên” từ câu 723 đến câu 756 trong phần “Gia biến và lưu lạc”, tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu. Mở đầu câu chuyện bằng lời Thúy Kiều nhờ cậy của mình với em:

    Cậy em em có chịu lời

    Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

    Ngay từ đầu, Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều ở vị trí phía dưới, trái ngược với cách xưng hô “chị, em”. Từ “cậy” đặt ở đầu câu gợi tả tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn cách nào khác, lại thật khó khăn để có thể nhờ vả. Vốn dĩ, Thúy Kiều xét theo vai vế là chị của Thúy Vân, sẽ không cần “thưa” hay “lạy”, nhưng trong hoàn cảnh ấy, nàng chấp nhận đặt mình vào vị trí của người đi nhờ vả, van xin, chỉ với mục đích giữ trọn lời hứa của mình với chàng Kim Trọng. Từ “em” được nhắc lại hai lần, đi kèm các động từ mạnh “lạy”, “thưa” “cậy” mở ra một nỗi lòng chua xót, báo hiệu tương lai mịt mù, tăm tối, phải nhờ vả, dựa dẫm, mưu cầu lòng thương của người khác.

    Thúy Vân trở thành bề trên, “ngồi lên” để chị lạy, thưa đã một lần nữa nhấn mạnh kiếp người trôi nổi, bấp bênh, lỡ làng duyên phận của nàng Kiều. Kiều tha thiết van lơi em, đồng thời đặt lên vai em sức nặng của sự tin tưởng, trông cậy. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo đó, tình chị em được mang ra để bấu víu, Vân trở thành niềm hi vọng cuối cùng của Kiều khi nàng buộc phải rời xa gia đình, thất hẹn với người yêu. Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ nỗi lòng mình với em gái bằng những lời chua xót, đau đớn:

    Giữa đường đứtt gánh tương tư

    Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

    Kể từ khi gặp chàng Kim

    Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

    Sự đâu sóng gió bất kì

    Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

    Đến đây, người đọc bỗng hiểu ra cái nhờ cậy ban đầu của Thúy Kiều thực ra là một lời phó thác, buộc Thúy Vân phải chấp nhận. Với thân phận là chị gái, chị cả trong nhà, Kiều cảm thấy mình phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình qua cơn hoạn nạn. Nàng chấp nhận bán mình chuộc cha, vì chữ hiếu quên thân, chấp nhận lỡ duyên với người thương chứ không thể phụ lòng cha mẹ. Người con gái “đứt gánh tương tư” ấy chẳng nỡ làm Kim Trọng đau lòng, đứng trước chữ tình và chữ hiếu, nàng chỉ còn cách mong em gái Thúy Vân có thể giúp mình tiếp tục mối duyên đứt quãng. Hai tiếng “mặc em” giống như một sự phó thác trách nhiệm bằng tấm lòng tha thiết, âu sầu. Kiều thủ thỉ tâm sự với Vân về mối tình nồng thắm của minh với chàng Kim:

    Kể từ khi gặp chàng Kim

    Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

    Sự đâu sóng gió bất kì

    Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

    Câu thơ thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm mùi mẫn còn dang dở giữa mình và Kim Trọng. Đối với nàng, mối tình với Kim Trọng là những kỉ niệm lứa đôi đẹp nhất, nhưng đối với Thúy Vân, đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ. Vì thế, Kiều không muốn em phải bận lòng, băn khoăn, nàng chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em gái cảm thấy gần gũi, cảm thông. Từ buổi gặp gỡ đến hôm thề nguyện đính ước. hình ảnh “quạt ước”, “chén thề”, nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng, sâu sắc. Trao duyên cho em mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn phải sinh ra nông nỗi ấy.

    Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những khó khăn bất chợt ập đến gia đình, buộc nàng vào tình thế bất đắc dĩ. “Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”, một câu nói vừa tự nhủ lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Bản thân Kiều không hề muốn hai chị em phải đối mặt với nhau trong tình thế khó xử, nhưng chị đã vì cha mẹ bán mình, thì em cũng nên vì chị mà giúp chị nối tiếp tơ duyên. Người đọc dường như còn cảm thấy một khao khát nhỏ nhoi trong lòng Thúy Kiều, khao khát sống trọn vẹn, tình nghĩa, nhưng trớ trêu thay, cuộc đời bất hạnh lại không cho phép nàng thực hiện ước muốn nhỏ nhoi ấy. Không những thế, Kiều còn thể hiện sự khéo léo, tinh tế khi lựa lời đề cập đến hoàn cảnh của Vân để cất lời nhờ em:

    Ngày xuân em hãy còn dài

    Xót tình máu mủ thay lời nước non

    Chị dù thịt nát xương tan

    Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

    Xét về tình, Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em đều đang độ tuổi cập kê, Kiều đã lấy cái cớ đó để nhờ cậy em nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị. Đồng thời, nàng Kiều cũng thể hiện sự chua xót, đắng cay khi nhắc đến cái chết “Chị dù thịt nát xương tan / Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Dường như khi chọn con đường bán mình chuộc cha, Kiều đã xác định về tương lai mịt mờ, dự cảm không lành về số phận nghiệt ngã. Nếu không có những chuyện tai bay vạ gió, không có những uẩn khúc gia đình thì có lẽ giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình.

    Lời nói không chỉ thể hiện cái đớn đau khi phải chia lìa gia đình mà còn chứa đựng cả những tủi thân, buồn rầu khi không được ở bên người thương. Trong hoàn cảnh ấy, nàng chỉ biết nhờ đến em, để sau này khi “thịt nát xương tan”, nàng vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, nhìn em mình và người yêu được hạnh phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Trao đi mối duyên mà nàng hằng khao khát, nâng niu là điều đau đớn đến tột cùng, nhưng Kiều đã chấp nhận chọn chữ hiếu để cứu cha, chỉ một lòng mong em hãy đồng ý giúp nàng nối tiếp mối duyên tình để không phụ lòng Kim Trọng. Trao cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhất:

    Chiếc vành với bức tờ mây

    Duyên này thì giữ, vật này của chung.

    Dù em nên vợ nên chồng

    Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

    Mất người còn chút của tin,

    Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

    Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền, những kỉ vật của mối tình đầu thanh thuần, ngây thơ. Nhìn những kỉ vật ấy, lòng người con gái sao tránh khỏi bồi hồi, nhớ nhung. Trong hoàn cảnh ấy, khi Kim Trọng đang ở xa, không hề hay biết tin tức gì, bản thân chuẩn bị một cuộc đời lưu lạc, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đau đớn lại dâng đến tận cùng. Những kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu “Duyên này thì giữ, vật này của chung” có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm “của chung”, của cả hai chị em.

    Câu nói có một chút con gái, một chút ích kỉ nhưng cũng dễ hiểu thôi, chẳng cô gái nào muốn san sẻ tình yêu của mình với ai khác. “Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”, một câu dặn dò của Thúy Kiều với em gái, rằng dù em thay chị kết duyên cùng Kim Trọng, nhưng bản thân chị là người yêu của chàng, chỉ mong đến ngày hạnh phúc, em đừng quên tấm lòng chị, số phận bạc bẽo đưa đẩy chị đến đường cùng chứ thật tâm chẳng hề muốn rời xa. Có người cho rằng, Kiều là một cô gái ích kỉ, nhỏ nhen, rành rành thân phận nhờ vả mà còn đòi hỏi, yêu cầu. Nhưng nhìn về mặt tình cảm, sự ngập ngừng, không rõ ràng từ Kiều cũng chỉ bắt nguồn từ tình yêu chân thành, từ tấm lòng người con gái lần đầu biết yêu mà lại buộc phải chia lìa. Chỉ còn vài kỉ vật làm của tin, làm hiện vật chứng minh tình cảm, chẳng ai cam tâm trao cho người khác, kể cả đó là ruột thịt, máu mủ. Trao lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn không thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề quên đi Kim Trọng:

    Mai sau dù có bao giờ

    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,

    Trông ra ngọn cỏ lá cây

    Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

    Hồn còn mang nặng lời thề

    Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.

    Dạ đài cách mặt khuất lời

    Rưới xin chén nước cho người thác oan.

    Lời nói mang một sự đau lòng não nề, Kiều tự coi mình là kẻ đoản mệnh, những câu từ thể hiện Kiều đã ở một thế giới khác, không thể trở về với cuộc sống bình thường, không được đoàn tụ với gia đình. Sống trong một xã hội bất công, nơi con người sẵn sàng hãm hại nhau vì đồng tiền, Kiều không dám nghĩ đến việc mưu cầu cho hạnh phúc cá nhân mà chỉ dám mong được chứng kiến hạnh phúc của em gái và người yêu. Sự bế tắc và khổ đau trong lòng nàng chất chứa trong từng câu nói. “Lò hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, nát thân, cách mặt khuất lời, người thác oan”, hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết cứa vào lòng người đọc.

    Người con gái tuổi mới mười tám đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình, thề hẹn. Tâm sự với em, Thúy Kiều cũng không quên gửi lời tới Kim Trọng với những dòng tâm trạng tha thiết:

    Bây giờ trâm gãy gương tan,

    Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

    Trăm nghìn gửi lạy tình quân

    Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

    Phận sao phận bạc như vôi

    Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng

    Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!

    Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

    Tâm sự với Kim Trọng nhưng thực chất, Kiều chỉ được độc thoại với chính mình, vì người nàng yêu đang ở phương xa, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại. Nàng ý thức được số phận bạc bẽo bằng những điển cố “gương gãy”, “trâm tan”, những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi lứa. Xét đến cùng, mục đích của cuộc trao duyên này là do mối tình nặng nghĩa với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng được bao lâu. “Muôn vàn ái ân” nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn “tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”.Cùng với nỗi tiếc nuối về tình yêu, Kiều còn khóc thương cho số phận của mình.

    Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn “bạc như vôi”, “nước chảy, hoa trôi lỡ làng”, sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói, không có quyền tự quyết định . Tiếng gọi xé lòng ” Hỡi Kim Lang!” thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi “lang” là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Có thể, người đọc cảm thấy một chút phi lý trong câu nói của Kiều, rằng tại sao đã trao duyên với em rồi nhưng vẫn gọi Kim Trọng là “lang”, là chồng, Phải chăng, trong dòng hồi tưởng về những giây phút ở cạnh nhau, Thúy Kiều được tạm quên đi những đớn đau nàng phải đối mặt, nhưng cảm giác tội lỗi của mình với chàng Kim, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, là vợ chồng. Câu gọi bật ra vừa để thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội xưa.

    Đoạn trích “Trao duyên” đã khái quát một cách sâu sắc nhất những cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi buộc phải rời xa người yêu, đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong. Bằng bút pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ cảm xúc qua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Tâm trạng nhân vật được đặc tả qua những chi tiết đắt giá, thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại cùng những từ ngữ mạnh, gợi sự xót xa đã làm rung động trái tim bạn đọc với những nỗi niềm của nhân vật.

    Qua “Trao duyên”, Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất công, bạc bẽo đã đẩy con người vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

    Bài văn phân tích tác phẩm “Trao duyên” mẫu 3

    Thiên “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du quả thực là một kiệt tác văn chương của nhân loại, tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn dưới dạng các trích đoạn tiêu biểu. Một trong những đoạn trích tiêu biểu cho hoàn cảnh éo le, dang dở tình duyên của Thúy Kiều chính là “Trao duyên”. Tác giả đã rất thành công trong việc khắc họa một cách chân thực, rõ nét tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong từng phân cảnh, để lại trong lòng người đọc những cảm nhận sâu sắc.

    Nhan đề “Trao duyên” của đoạn trích phần nào gây ấn tượng với người đọc bởi sự lạ lẫm, khác đời và khác người; duyên là duyên phận, là sự an bài và sắp đặt của ông trời, sao có thể đem ra nói trao đi đổi lại cho nhau dễ dàng như thế. Chính cái lạ lẫm của nhan đề đã gợi ra những dự cảm về nghịch cảnh cũng như tính éo le trong đoạn trích này. Sự nghịch lý chính nằm ở hành động trao duyên của Thúy Kiều, nàng muốn đem duyên tình của mình với Kim Trọng trao lại cho Thúy Vân, nhờ em nối tiếp nhân duyên trả nghĩa ân tình cho Kim Trọng.

    “Cậy em em có chịu lời

    Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

    Những từ ngữ như “cậy, chịu, ngồi lên, lạy, thưa”, được tác giả sử dụng mang giá trị gợi tả và gợi cảm cực đắt. Thúy Kiều không đơn giản là nhờ vả mà là trông cậy vào Thúy Vân, chỉ có Vân mới giúp được Kiều trong hoàn cảnh này, nàng chấp nhận quỳ lạy và thưa gửi với chính em của mình, chỉ mong em có thể chấp nhận lời đề nghị khó khăn nhưng thiêng liêng này. Thúy Kiều trong hoàn cảnh éo le nhưng vẫn thể hiện được sự khéo léo, tài tình và thông minh, coi em như ân nhân của mình bằng tất cả sự kính trọng. Rồi nàng kể lại mối tình với chàng Kim, giãi bày lý do vì sao phải trao “mối tơ thừa” đó cho Thúy Vân, chính vì sóng gió ập đến bất ngờ với gia đình khiến nàng đành từ bỏ chữ tình để làm tròn chữ hiếu. Nàng mong Vân sẽ vì tình nghĩa chị em máu mủ, thấu hiểu hoàn cảnh gia đình cũng như tình nghĩa giữa nàng và Kim Trọng mà chấp nhận mang vào mình mối tơ thừa duyên tình của Kiều.

    Lời nói của Kiều đã thấu đạt hết lý hết tình, Vân có muốn từ chối cũng khó mặc dù Kiều biết đó cũng là điều thiệt thòi và khó xử cho Vân. Có được sự chấp thuận của Vân, Kiều dù chết cũng cảm thấy yên lòng và mãn nguyện, “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, cái chết cũng thể hiện sự cảm kích trước những thiệt thòi mà em phải chịu thay mình. Sau khi đã nói lời trao duyên, đến lúc Kiều trao lại những kỉ vật nàng và Kim Trọng đã từng có với nhau, đó là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền

    “Chiếc vành với bức tờ mây

    Duyên này thì giữ vật này của chung”

    Đem những kỉ vật tình yêu thiêng liêng trao đi, Kiều như trao đi những thứ quan trọng nhất của cuộc đời mình, bây giờ duyên nàng có thể giữ nhưng kỉ vật đã thành của chung. Nỗi buồn xót xa phải trao đi cho thấy nàng và Kim Trọng đã yêu nhau sâu đậm, nồng nàn và chung thủy một lòng. Mất đi tình yêu, trao đi kỉ vật, cuộc sống của Kiều đã không còn gì đáng luyến tiếc hơn nữa, sống cũng như chết, nhưng nàng dù có chết vẫn giữ trọn lời thề son sắt:

    “Hồn còn mang nặng lời thề

    Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”

    Kiều đã tuyệt vọng hết sức, chẳng còn hy vọng nào cho tình yêu và số phận của mình, rồi đây cuộc đời nàng sẽ đi về đâu, sống chết ra sao nàng không thể biết được, chỉ mong có chết đi rồi người trên dương thế sẽ hiểu cho tấm lòng và đồng cảm với mình. Giờ đây những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào với chàng Kim lại trở thành những nhát dao cứa sâu vào nỗi đau khổ của nàng:

    “Bây giờ trâm gãy bình tan

    Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”

    Tất cả tình duyên đã tan vỡ, dở dang, nàng Kiều vô cùng đau đớn khi phụ chàng Kim, nàng gửi trăm nghìn cái lạy đến người “tình quân” mong chàng sau này sẽ hiểu cho hoàn cảnh và nỗi khổ của nàng, phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy sự chấp nhận đầy cam chịu của Kiều, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bất hạnh của mình, nàng không thể kháng cự lại mà đành tự thương xót cho chính mình.

    “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang

    Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

    Tình nghĩa sâu nặng coi nhau như vợ chồng nhưng giờ đây nàng chỉ còn có thể gọi tên chàng Kim trong sự tuyệt vọng, tiếng gọi chan chứa nỗi niềm đắng cay và xót xa, chàng Kim nơi xa xôi kia chưa hề biết chuyện gì, nàng nơi quê nhà đã phải vì hoàn cảnh mà phụ tấm lòng của chàng. Có trách cũng chỉ biết trách số nàng “hồng nhan bạc phận” mất đi mối tình, mất đi cả tương lai hạnh phúc.

    Có thể nói, trích đoạn “Trao duyên” là một trong những trích đoạn hay và gây xúc động mạnh nhất trong “Truyện Kiều”, rất nhiều thành ngữ được sử dụng kết hợp với những từ ngữ mang giá trị gợi cảm cao đã khắc họa tâm trạng Thúy Kiều trong lúc trao duyên vô cùng rõ nét. Người đọc cảm nhận được nỗi đau khổ của Kiều, tiếc thương cho mối tình trời ban đồng thời cũng thương cảm với số phận bạc mệnh của Kiều.

    Bài văn phân tích tác phẩm “Trao duyên” mẫu 4

    “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ đối với các thế hệ bạn đọc. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của thiên kiệt tác này. Nhận xét về “Trao duyên”, Tản Đà từng viết: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như vậy. Đoạn này thật lâm ly, mà như thế mới biết hết tình sự”.

    “Trao duyên” là đoạn thơ bắt đầu từ câu 723 đến câu 756 của “Truyện Kiều”. Đoạn trích đã khắc họa những tâm trạng đớn đau, giằng xé của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để làm trọn chữ “tình”. Ngay từ nhan đề, đoạn trích đã gây nên sự tò mò cho bạn đọc. Chúng ta thường trao lại cho người khác vàng bạc, châu báu hay những thứ vật chất dễ nhìn thấy, dễ cầm nắm chứ mấy ai lại trao cho người khác thứ khó xác định, khó hình dung như trao duyên? “Duyên” là thứ con người khó có thể lí giải một cách thỏa đáng và nó rất khó để định hình. Vậy mà Thúy Kiều lại có hành động trao duyên, phải chăng có điều gì khó nói, uẩn khúc ở đây?

    Phải từ bỏ tình yêu của mình là điều không ai mong muốn nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều không thể làm khác. Nàng buộc phải hi sinh tình cảm, hạnh phúc riêng tư của bản thân để chuộc cha và em trai. Đêm cuối cùng ở nhà trước khi theo Mã Giám Sinh ra đi, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng:

    “Cậy em em có chịu lời

    Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

    “Cậy” và “nhờ” là hai từ đồng nghĩa nhưng tại sao trong trường hợp này, Thúy Kiều lại nhờ từ “cậy”? Ngoài ý nghĩa nhờ vả, mong muốn người khác giúp đỡ mình thì từ “cậy” còn hàm chứa cả lòng tin tưởng, sự hi vọng vào người được nhờ vả của chủ thể. Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em ruột, vì thế nàng Kiều đã dốc hết lòng tin để gửi gắm mối duyên tình. Thanh trắc ở từ “cậy” khiến âm hưởng câu thơ trở nên nặng nề hơn, đồng thời cũng thể hiện mức độ quan trọng của việc nhờ vả. Người được nhờ có thể nhận lời hoặc từ chối giúp đỡ nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh mà nàng chỉ có thể “chịu lời”.

    “Chịu lời” là một sự chấp nhận bắt buộc, không còn sự lựa chọn nào khác. Biết mình đã khiến Thúy Vân rơi vào hoàn cảnh khó xử và có lẽ sẽ khiến Thúy Vân phải chịu nhiều thiệt thòi nên nàng đã dùng lễ nghi trang trọng để bày tỏ nỗi lòng của mình với em. “Lạy”, “thưa” là những lễ nghi trang trọng thường dùng đối với các bậc bề trên trong xã hội phong kiến, đồng thời hành động ấy cũng được dành cho những bậc ân nhân, những người có ơn đối với mình. Trong trường hợp này, Thúy Vân là người mà Thúy Kiều sẽ mang ơn suốt cả cuộc đời nên hành động mời em gái “ngồi lên” để mình “lạy”, “thưa” cũng là điều dễ hiểu. Chuyện tình yêu của nàng đang tốt đẹp thì bỗng nhiên tai ương xảy đến:

    “Giữa đường đứt gánh tương tư

    Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

    Vậy mà giờ đây, nàng phải thay chị kết duyên với một người mà mình không hề yêu, hoàn cảnh ấy thật khó xử. Dân gian có câu “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên”, duyên là thứ con người không nên ép buộc nhưng Thúy Vân là người mà Thúy Kiều tin tưởng nhất, ngoài Thúy Vân ra thì không ai có thể giúp nàng chuyện này. Chỉ có Thúy Vân mới có thể thay Kiều kết duyên cùng chàng Kim và cũng chỉ có Thúy Vân mới khiến nàng yên tâm gửi gắm mối duyên tình. Thúy Kiều để “mặc em” quyết định nhưng thực chất là phó thác, ép buộc Thúy Vân phải đồng ý giúp đỡ. Nàng muốn Thúy Vân hãy dùng thứ keo gắn chắc được chế từ máu của loài chim loan để nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Không chỉ bằng lời nói, lễ nghi trang trọng mà Thúy Kiều còn kể cho Vân nghe chi tiết chuyện tình yêu của mình để thuyết phục em:

    “Kể từ khi gặp chàng Kim

    Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

    Sự đâu sóng gió bất kì

    Hiếu tình hai lẽ khôn bề vẹn hai”

    Những đôi trai gái yêu nhau thường hay tặng nhau chiếc quạt vì chiếc quạt có hai mặt giấy hoặc lụa được dán áp sát vào nhau tượng trưng cho sự gắn kết, hòa hợp, Thúy Kiều và Kim Trong cũng như vậy. Thúy Kiều đã tặng Kim Trọng chiếc quạt trong đêm thề nguyền, ước hẹn. Điệp từ “khi” được lặp lại ba lần đã cho thấy tình cảm của họ thật khăng khít, sâu nặng. “Quạt ước”, “chén thề” gợi nhắc nàng nhớ đến đêm thề nguyền thiêng liêng ấy:

    “Tiên thề cùng thảo một chương

    Tóc mây một món dao vàng chia đôi”

    Lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” đến nay đã không thể thực hiện bởi “sóng gió bất kì”. Trong hoàn cảnh éo le như vậy, giữa chữ “hiếu” và chữ “tình”, nàng bắt buộc chỉ được chọn một. Và với sự hiếu thảo của một người con, nàng đã chọn chữ “hiếu” còn chữ “tình” nàng trông cậy Thúy Vân nhận lời giúp mình. Trong xã hội phong kiến, có mấy ai làm trọn vẹn được cả “tình” cả “hiếu” và Thúy Kiều cũng vậy, nàng thật vị tha khi luôn nghĩ cho người khác mà quên đi bản thân mình. Sự lựa chọn chữ “hiếu” của nàng cũng là điều hợp tình hợp lí bởi cha mẹ đã dành cả cuộc đời để chăm lo cho mỗi chúng ta, công ơn ấy chúng ta không thể nào đền đáp hết. Nàng thực sự là “người thục nữ đủ đường hiếu nghĩa” [Chu Mạnh Trinh]. Tha thiết mong muốn Thúy Vân chấp nhận lời khẩn cầu của mình, Thúy Kiều đã dùng những lí lẽ xác đáng:

    “Ngày xuân em hãy còn dài

    Xót tình máu mủ thay lời nước non

    Chị dù thịt nát xương mòn

    Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

    So sánh với Thúy Kiều thì những ngày xuân của Thúy Vân vẫn còn dài, Thúy Vân hoàn toàn có thể giúp được việc mà Thúy Kiều nhờ vả. Hơn nữa, Thúy Kiều còn nhắc tới cả “tình máu mủ”, tình chị em ruột thịt thì làm sao Vân có thể từ chối. Ở một thế giới khác, Kiều vẫn vui vẻ, mãn nguyện vì em đã “chắp mối tơ thừa” giúp mình. Tâm trạng ấy đã được Nguyễn Du thể hiện qua thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Dù nàng ở chốn âm phủ, cửu tuyền thì cũng được “thơm lây” với hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng. Nhắc đến cái chết của chính mình, Thúy Kiều đau đớn biết nhường nào. Dù không muốn thì nàng cũng trao lại những kỉ vật tình yêu của mình để em gìn giữ, trân trọng mối tơ duyên đó:

    “Chiếc vành với bức tờ mây

    Duyên này thì giữ, vật này của chung.

    Dù em nên vợ nên chồng

    Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

    Mất người còn chút của tin,

    Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.

    Người ta thường nói mối tình đầu là mối tình đẹp nhất nhưng cũng là mối tình gây cho ta nhiều đau khổ nhất, điều ấy quả không sai. Mối tình đầu với Kim Trọng đẹp đẽ, thắm thiết là thế mà bây giờ lỡ dở, làm sao Thúy Kiều không khỏi xót xa, dằn vặt? Chiếc vòng xuyến đeo tay và tờ giấy ghi lời thề ước của hai người giờ đây đã trở thành kỉ vật chung của cả Thúy Kiều, Kim Trọng và Thúy Vân. Đó vốn là những kỉ vật gắn với những kỉ niệm riêng tư của chuyện tình Kim – Kiều nhưng vì hoàn cảnh trớ trêu mà nó trở thành “của chung”. Nỗi đau đớn của nàng dường như đã bật thành tiếng nấc nghẹn ngào. Nàng đâu muốn trao duyên lại cho một người khác, nàng đâu muốn phụ bạc chàng Kim nhưng hoàn cảnh nghiệt ngã đã buộc nàng phải làm như vậy.

    Mảnh trầm hương đốt trong buổi thề nguyền và những giây phút Kiều gảy đàn bên Kim Trọng giờ đây đã trở thành quá khứ – một quá khứ gợi bao nỗi xót xa, tiếc nuối. Lí trí và tình cảm đã có sự mâu thuẫn khi nàng muốn giữ lại chữ “duyên” cho bản thân mình làm của riêng. Nàng đã hi sinh tình cảm cá nhân vì gia đình, nàng đã trao duyên lại cho Thúy Vân để mong Kim Trọng được hạnh phúc vậy thì một chút “duyên” nàng xin được giữ lại cũng là điều dễ thấu hiểu. Lại thêm một lần nữa, Thúy Kiều nghĩ về cái chết. Phải chăng nàng đã dự đoán được số phận nổi trôi, vô định, hẩm hiu của mình? Nàng hình dung ra viễn cảnh Thúy Vân và Kim Trọng “nên vợ nên chồng”, chung sống hạnh phúc còn mình là “người mệnh bạc”, số phận bạc bẽo, không may mắn.

    Tuy kỉ vật đã trao nhưng dường như Thúy Kiều không thoát khỏi được sự ám ảnh về cái chết, nàng vẫn chưa thể yên lòng:

    “Mai sau dù có bao giờ,Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.Trông ra ngọn cỏ gió cây,Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.Hồn còn mang nặng lời thề,Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.Dạ đài cách mặt, khuất lời,Rảy xin chén nước cho người thác oan”.

    Kiều nhắc em mai sau có đốt lò hương hay đánh đàn thì hãy nhớ đến mình, lúc ấy nàng mong Vân hãy “trông ra ngọn cỏ lá cây” để thấy được linh hồn oan khuất của mình. Lời nhắn nhủ ấy tức tưởi và đau xót biết bao. Nàng đã mường tượng ra thảm cảnh của mình nhưng ngay cả khi trở thành một linh hồn thì nàng vẫn mang theo lời thề nguyền cùng Kim Trọng.

    Đó là lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” mà cho dù Thúy Kiều có phải “nát thân bồ liễu” cũng mong trả được nghĩa cho chàng Kim, dù tấm thân nữ nhi yếu đuối, mỏng manh không còn sống trên cõi đời thì nàng vẫn muốn mình giữ trọn lời thề của tình yêu đôi lứa. Do trần gian và cõi âm phủ “cách mặt”, “khuất lời” nên Thúy Kiều cũng chỉ xin em “rảy” giọt nước cho linh hồn oan khuất, đáng thương của mình. Thông thường, người ta thường “rảy” cả một chén nước nhưng nàng chỉ xin một giọt nước ít ỏi để rửa oan. Tình yêu tan vỡ, Thúy Kiều đau đớn tự độc thoại với chính mình:

    “Bây giờ trâm gãy gương tan,

    Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

    Trăm nghìn gửi lạy tình quân

    Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

    Phận sao phận bạc như vôi

    Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng

    Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!

    Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

    Hơn ai hết, nàng ý thức rất rõ về thực tại của mình. “Trâm gãy gương tan” là biểu hiện cho sự tan vỡ của tình yêu. Mọi việc xảy đến bất ngờ, đột ngột quá nên “muôn vàn ái ân” với Kim Trọng làm sao nàng có thể kể xiết. Ân tình với chàng Kim càng lớn thì nàng cảm thấy có lỗi bởi đã phụ lòng chàng. Tơ duyên chỉ ngắn ngủi có ngần ấy, số phận thì bạc bẽo như vôi, tình yêu thì dở dang, lỡ làng đã khiến Thúy Kiều có những dằn vặt, giằng xé trong nội tâm. Nàng chỉ có thể gửi đến người yêu của mình trăm nghìn cái lạy. Đó là cái lạy từ biệt nhưng cũng là cái lạy tạ lỗi với người “tình quân” vì nàng đã tự coi mình là kẻ phụ bạc đã phá đi lời thề nguyền trước đây. Nàng Kiều đâu có lỗi gì trong chuyện này, có trách thì hãy trách xã hội đồng tiền đầy rẫy những bất công, đẩy con người rơi vào bi bịch. Tiếng gọi “Kim lang” vang lên hai lần nghe mới tha thiết làm sao. Nàng là người nặng tình nghĩa đã nhận hết lỗi lầm về mình và luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc. Đức hi sinh của nàng thật đáng quý!

    Sau khi phân tích bài Trao duyên, chúng ta có thể thấy được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đạt đến đỉnh cao của Nguyễn Du. Ông đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, những thành ngữ dân gian cùng sự kết hợp ngôn ngữ bác học trang trọng và ngôn ngữ dân gian để diễn tả những tâm trạng đau khổ, xót xa của Thúy Kiều khi trao duyên lại cho Thúy Vân. Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại được sử dụng một cách linh hoạt. Bên cạnh đó, thể thơ lục bát uyển chuyển, nhịp nhàng cũng góp một phần không nhỏ vào sự thành công của đoạn trích. “Trao duyên” đã thể hiện tấm lòng nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với số phận những người phụ nữ. Chẳng vậy mà ông đã viết:

    “Thương thay cũng một kiếp người

    Hại thay mang lấy sắc tài làm chi

    Những là oan khổ lưu li

    Chờ cho hết kiếp còn gì là thân”.

    Bài văn phân tích tác phẩm “Trao duyên” mẫu 5

    Nguyễn Du – một trong những nhà thơ xuất sắc của nền văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm “Truyện Kiều” đã khẳng định và ghi dấu tên tuổi Nguyễn Du trên văn đàn nghệ thuật nước nhà và thế giới. “Trao duyên” là đoạn trích đặc sắc trong Truyện Kiều nói về tình yêu sâu nặng cũng như bi kịch số phận của Kiều trước biến cố cuộc đời.

    Đoạn trích nói về hoàn cảnh của gia đình Kiều dẫn đến việc Kiều phải “trao duyên”. Bọn sai nha gây ra vụ án oan sai đối với gia đình Kiều, khiến nàng phải bán mình lấy để chuộc cha. Bán mình đi tức là nàng đã bán đi quyền lựa chọn đối với cuộc đời mình, nàng đành hy sinh mối tình với Kim Trọng, đành phụ chàng. Thế nhưng vì tình sâu nghĩa nặng, Kiều không thể cứ thế mà phụ chàng Kim, nàng đã trao duyên cho Thúy Vân là em gái mình, mong rằng em có thể thay mình trả nghĩa cho chàng Kim. Bằng những hành động và lời lẽ lí tình thấu đáo, Kiều cố gắng thuyết phục em mình:

    “Cậy em em có chịu lời

    Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

    Giữa đường đứt gánh tương tư

    Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

    Từ “cậy” diễn tả sự trông cậy, mong mỏi tha thiết chứ không đơn giản là nhờ vả, kết hợp với từ “chịu” giống như đặt người nghe vào hoàn cảnh phải đồng ý trước rồi mới nói. Thúy Kiều chính là đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh đó, rồi nàng còn có hành động mời em ngồi lên để mình quỳ lạy, thưa gửi, đó là hành động thể hiện sự kính trọng, biết ơn đối với ân nhân. Kiều biết chuyện mình trao duyên cho em là khó khăn và khó xử đối với em nên cần thiết phải hành động như vậy để bù đắp lại. Kiều hiểu rằng mối tình giữa nàng và Kim Trọng chỉ là “mối tơ thừa” đối với Vân nhưng vì hoàn cảnh mà nàng vẫn phải trao duyên, gửi gắm duyên tình, mặc cho em vướng vào gánh nặng ân tình đó.

    “Ngày xuân em hãy còn dài

    Xót tình máu mủ thay lời nước non

    Chị dù thịt nát xương mòn

    Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

    Nàng Kiều giãi bày lí do phải trao duyên cho em đó chính là bởi “sóng gió bất kì” đã ập xuống gia đình, nàng phải hy sinh chữ tình để đổi lấy chữ hiếu. Lời nói của Kiều đầy đủ lí lẽ lại lấy tình cảm chị em máu mủ ra để thuyết phục Thúy Vân, nếu như có được sự đồng ý của Vân, Kiều dù có phải bán mình sống chết oan uổng cũng được mãn nguyện, việc làm của Vân sẽ là ơn sâu nghĩa nặng đối với Kiều.

    “Chiếc vành với bức tờ mây…

    Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

    Sau những lời thuyết phục đầy lí lẽ của Kiều, khó có thể cho Vân đường chối từ, biết em sẽ thấu hiểu cho mình mà chấp nhận nên Kiều đem những kỉ vật tình yêu ngày xưa trao cho Vân. Tay trao kỉ vật nhưng lòng nàng nặng trĩu, đau xót như mất đi những điều quý giá nhất, giờ đây kỉ vật đã là của chung của ba người, chỉ còn tình yêu và duyên ước nàng giữ cho riêng mình. Nàng dặn dò Thúy Vân mai này có nên vợ nên chồng với chàng Kim hãy nhớ đến người mệnh bạc như nàng. Thúy Kiều nhắc đến cái chết qua những câu thành ngữ, tục ngữ hay từ ngữ như: “hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài”, nàng như đã dự cảm chẳng lành về số phận của mình, bi kịch lớn nhất là cái chết, thế nhưng dù có chết nàng cũng không quên lời thề với Kim Trọng, chỉ mong Kim Trọng sau này khi trở về sẽ thấu hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh éo le của nàng.

    “Bây giờ trâm gãy gương tan

    Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

    Trăm nghìn gửi lạy tình quân

    Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”

    Lời độc thoại của Thúy Kiều dày đặc các từ: “trâm gãy”, “gương tan”, “nước chảy”, “hoa trôi” ám chỉ sự tan vỡ, đứt gánh giữa đường của mối duyên tình. Tình yêu sâu đậm, nồng nàn và chung thủy là thế, nhưng giờ đây nàng cũng đành phụ tình, hoàn cảnh đã đẩy số phận nàng vào bước đường cùng, chẳng còn lựa chọn nào khác cho Kiều. Dù có đau xót than oán nàng cũng đành cam chịu, tiếng gọi tha thiết dành cho Kim Trọng như một lời xin lỗi từ đáy lòng Kiều:

    Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang!

    Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

    “Ôi” và “hỡi” vừa là tiếng gọi tha thiết yêu thương lại vừa là lời than thân trách phận của Kiều, nàng cảm thấy có lỗi với chàng Kim và xót xa cho Kim Trọng khi nơi xa xôi vẫn luôn tin tưởng, chờ mong người đã phụ bạc như nàng. Cái lạy của nàng dành cho người tình quân như là tạ tội và vĩnh biệt chàng Kim. Có thể nói, tình yêu của Kiều dành cho Kim Trọng rất sâu đậm và tha thiết, thế nhưng, nàng đã hy sinh vì gia đình, quên đi nỗi đau của mình hướng đến nỗi đau của cha mẹ và hai em.

    Qua việc phân tích bài trao duyên, chúng ta có thể thấy được bi kịch tình yêu và thân phận bất hạnh của Thúy Kiều một cách sâu sắc. Đây cũng là một trong những trích đoạn tiêu biểu cho tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du.

    Bài văn phân tích tác phẩm “Trao duyên” mẫu 6

    Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc, một vị danh nhân văn hóa thế giới, tài năng của ông được khẳng định qua nhiều tác phẩm văn học xuất sắc. Trong đó nổi bật và được biết đến nhiều nhất là Truyện Kiều, một truyện thơ được xếp vào hàng kiệt tác của nền văn học trung đại cũng như toàn nền văn học của Việt Nam. Truyện Kiều là một tác phẩm văn học có tầm ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân ta từ hàng trăm năm nay, từ Truyện Kiều lại phát sinh ra vịnh Kiều, bói Kiều, tranh Kiều, lẩy Kiều,… là nguồn cảm hứng cho hàng loạt các loại hình sân khấu, âm nhạc, hội họa,… thậm chí nó còn vươn xa ra ngoài thế giới với hơn 20 bản dịch của các quốc gia khác nhau. Có thể nói rằng khó có thể có tác phẩm nào trong nền văn học Việt Nam có thể vượt qua cái bóng của Truyện Kiều. Đoạn trích Trao duyên là một đoạn trích đặc sắc và khá tiêu biểu cho cuốn truyện thơ này, kể về nỗi bất hạnh đớn đau đầu tiên trong cuộc đời 15 năm sóng gió lưu lạc của Thúy Kiều, cô gái tài hoa nhưng mệnh bạc.

    Sở dĩ có cảnh trao duyên bởi trước đó khi gia đình gặp biến cố, cha và em của Kiều bị bắt bớ và đánh đập vô cùng dã man, phải có một món tiền lớn để chuộc thì mới thoát tội chết. Kiều vốn là con cả thế nên phải gánh trách nhiệm này, cách duy nhất Kiều có thể nghĩ đến ấy là bán thân làm vợ lẽ cho người ta để kiếm tiền. Thế nhưng đau đớn thay, Kiều lại chót thề nguyền đính ước với chàng Kim Trọng, hứa đợi chàng trở về, nay ra nông nỗi này lòng Kiều vô cùng rối rắm. Thế rồi, sau bao nhiêu trằn trọc suy nghĩ, chữ hiếu vẫn đặt lên trên chữ tình, Kiều đành có lỗi với tình cảm của chàng Kim, để trọn hiếu với phụ mẫu. Nhưng Kiều vẫn muốn vẹn toàn đôi bên, nên đã nhờ em là Thúy Vân nối tiếp tình duyên với Kim Trọng coi như là trả hết nghĩa cho chàng. Đoạn trích Trao duyên trích từ câu 723-756, thuộc phần Gia biến và lưu lạc.

    “Cậy em em có chịu lời

    Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

    Trước khi kể lại câu chuyện tình yêu của mình với Kim Trọng, trước khi chính thức cậy nhờ Thúy Vân Kiều đã có một lời dạo đầu, lời dạo đầu ấy đã đặt Thúy Vân vào vị trí khó xử, nàng bị đưa vào thế không thể từ chối. Lời mở đầu của Kiều đã được nàng hết sức cân nhắc, cẩn trọng đến từng từ sao cho phù hợp, có thể nói từng câu từng chữ đều rất tinh tế, khiến người nghe phải chịu vào thế và Thúy Vân thì lại càng không ngoại lệ. Kiều dùng từ “cậy” mà không dùng từ “nhờ” bởi vốn từ ấy ngoài nghĩa nhờ vả, thì còn mang sắc thái gửi gắm, tin tưởng, tin cậy, thêm vào đó còn mang theo sự trông mong hy vọng tha thiết từ Kiều.

    Một từ khác Kiều tiếp tục dùng ấy là từ “chịu lời”, ấy là tư thế làm một việc gì đó không tự nguyện, miễn cưỡng chấp nhận, chứng tỏ Kiều rất hiểu cho tình thế và nỗi lòng của Thúy Vân khi nghe những lời mà mình sắp nói. Phải nói rằng việc phải lấy Kim Trọng là một sự thiệt thòi lớn cho Thúy Vân, bởi thứ nhất Vân phải chịu sự sắp đặt lấy một người mình chưa chắc đã yêu, mà người đó lại cả đời đuổi theo bóng của chị mình, đó chính là bi kịch của cuộc đời nàng. Kiều cũng biết điều ấy, nhưng vì trọn nghĩa và cũng vì trọn hiếu dẫu biết em gái sẽ khó xử nhưng nàng vẫn buộc phải làm, xem như đó cũng là một phần trách nhiệm mà Thúy Vân phải gánh vác sau biến cố gia đình.

    Sự áy náy, sự bất đắc dĩ khiến Kiều phải dùng từ “lạy-thưa” với Thúy Vân, dẫu nghe vào có vẻ rất phi lý, bởi Kiều phận chị lẽ nào lạy em? Nhưng sắp trong trường hợp Kiều phải nhờ Vân một chuyện hệ trọng thì nó lại rất hợp lý, bởi mối quan hệ chị – em giờ đây đã chuyển thành mối quan hệ người chịu ơn và ân nhân của mình, đó là sự tôn trọng của Kiều dành cho những gì mà Thúy Vân sẽ làm cho mình. Và như thế Thúy Vân lại càng khó có thể từ chối trước những điều mà Kiều nhờ vả, dẫu biết nó thật éo le và khó chấp nhận.

    “Giữa đường đứt gánh tương tư,

    Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

    Kể từ khi gặp chàng Kim,

    Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

    Sự đâu sóng gió bất kỳ,

    Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

    Ngày xuân em hãy còn dài,

    Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

    Chị dù thịt nát xương mòn,

    Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

    Để giải thích cho lời nhờ vả của mình cũng như lý lẽ mà nàng phải trao duyên, Kiều đã giãi bày những mâu thuẫn mà bản thân đang phải đối mặt. Trước hết nàng đã hẹn thề với Kim Trọng, có vật làm chứng là “quạt ước” hẹn trăm năm, đã uống cạn “chén thề” lòng thủy chung. Thúy Kiều từng rất nhiều lần thề nguyền chắc chắn với Kim Trọng, hơn thế nữa trong xã hội phong kiến, lời thề nặng tựa ngàn cân, vậy mà giờ đây Kiều buộc phải bội ước, trái lại lời thề với Kim Trọng. Đó là một điều ghê gớm và được xem là bất nghĩa.

    Thế nhưng không phải lòng Kiều muốn vậy mà vì chữ hiếu Kiều buộc phải đi vào bước đường bất nghĩa, xuất phát từ nguyên nhân khách quan, “Sự đâu sóng gió bất kỳ”, đó là một biến cố rất lớn, xảy đến đến đột ngột khiến Kiều không kịp trở tay. Kiều bị đặt vào mối mâu thuẫn “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”, cuối cùng bên hiếu vẫn là trên hết, tuân thủ theo nguyên tắc đạo lý phong kiến, Kiều đã quyết định hy sinh bản thân để chuộc cha. Nhưng Kiều lại rơi vào mâu thuẫn khác, phụ lòng người yêu, phụ đi mối tình đầu sâu nặng, Kiều rất đau khổ, áy náy dằn vặt vì tình yêu dang dở “Giữa đường đứt gánh”, hết sức xót xa, tội nghiệp.

    Trước những tình cảnh khốn khổ và những mâu thuẫn chồng chéo, Kiều đã giải quyết mâu thuẫn ấy bằng cách “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Chỉ bằng đúng từ “tơ thừa” đã thể hiện nỗi đớn đau khổ sở của Kiều trong việc dứt tình, trao duyên cho em gái, cũng là lòng thương xót, tội nghiệp cho Thúy Vân vì phải hứng mới duyên thừa, một mối duyên chắp vá mà không thể từ chối. Kiều “mặc em”, buộc Thúy Vân vào khốn cảnh, dẫu biết rằng “Ngày xuân em hãy còn dài”, biết rằng cơ hội hạnh phúc của Thúy Vân đang còn rộng mở, phơi phới. Nhưng Kiều biết rằng Thúy Vân sẽ không thể từ chối vì “Xót tình máu mủ” em sẽ “thay lời nước non”, thay Kiều trả nghĩa cho Kim Trọng. Thúy Kiều tin chắc rằng Vân sẽ đồng ý, nên tiếp tục giãi bày tâm trạng của mình “Chị dù thịt nát xương mòn/Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, Kiều có dự cảm không lành về tương lai, nhưng dù có chuyện gì xảy ra thì Kiều vẫn có thể yên tâm, bằng lòng vì đã được an ủi bằng việc vẹn toàn chữ hiếu, lẫn chữ tình.

    “Chiếc vành với bức tờ mây

    Duyên này thì giữ, vật này của chung.

    Dù em nên vợ nên chồng,

    Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!

    Mất người còn chút của tin,

    Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

    Thúy Kiều trao duyên, cũng trao từng kỷ vật lại cho Thúy Vân, gọi tên từng thứ một “chiếc vành”, “bức tờ mây, “phím đàn với mảnh hương nguyền”, tất cả đều là những kỷ niệm bên nhau của Kim-Kiều. Lúc này đây Kiều trao lại hết cho Vân, trao kỷ vật cũng là trao duyên cho Thúy Vân, cùng lúc đó ở trong Kiều cũng xuất hiện sự mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm. Nàng trao hết kỷ vật, để dứt tình, mong muốn Vân có cuộc sống gia đình êm đềm và hạnh phúc, bên cạnh đó lòng nàng cũng xuất hiện những giằng xé. Duyên trao em nhưng kỷ vật thì lại là của chung, nàng muốn đồng sở hữu chúng, cũng mong muốn rằng vợ chồng Kim Trọng mãi nhớ đến mình, với Thúy Vân là tình máu mủ, với Kim Trọng là tình yêu. Rõ ràng Thúy Kiều cũng có lòng ích kỷ và lòng mềm yếu, điều ấy chứng minh tình cảm của nàng với Kim Trọng rất sâu nặng, hẳn trong lúc trao duyên nàng đã phải đau đớn tột cùng trong tâm can.

    “Mai sau dù có bao giờ,

    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

    Trông ra ngọn cỏ gió cây,

    Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.

    Hồn còn mang nặng lời thề,

    Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

    Dạ đài cách mặt, khuất lời,

    Rảy xin chén nước cho người thác oan.”

    Kiều trao duyên xong thì lại dặn dò Thúy Vân chuyện mai sau, mỗi khi đốt hương đánh đàn thì Thúy Kiều sẽ về, lúc ấy Thúy Vân hãy nhỏ giọt nước làm phép để giải oan cho mình. Lần nữa lại có sự mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm, một bên mong Thúy Vân và Kim Trọng sẽ có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và êm đềm, một bên lại mong rằng mình được sum họp trong những giây phút hạnh phúc bên cạnh Kim và Vân. Như vậy, Thúy Kiều hiện lên trong đoạn trích không chỉ là một tấm gương đạo lý đơn thuần, mà còn là một con người trần thế sống động có tình cảm yêu thương, đau đớn.

    “Bây giờ trâm gãy bình tan,

    Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

    Trăm nghìn gửi lạy tình quân

    Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

    Phận sao phận bạc như vôi?

    Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

    Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

    Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

    Trở lạị với hiện thực, Thúy Kiều thức tỉnh chỉ để đớn đau, sau những cố gắng níu kéo không khả thi, nàng buộc phải quay về đối mặt và chấp nhận nghịch cảnh, tình yêu tan vỡ không thể hàn gắn, bản thân nàng phải gả cho người xa lạ làm vợ lẽ, cuộc đời mịt mù trôi dạt chẳng biết về nơi nao. Kiều thức tỉnh trước nỗi đau thân phận bẽ bàng “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi”, gợi ra nỗi đau cùng cực của Thúy Kiều. Kiều đã đối thoại với Kim Trọng trong tâm tưởng, lời gọi như khóc, như than, nghe não nề, đứt ruột, câu thơ kết là lời tự trách, lời thú tội phụ bạc tình yêu với Kim Trọng. Nếu trên góc nhìn của người đọc thì Kiều không hề có lỗi, bởi sự phản bội của Kiều là do khách quan, đồng thời nàng đã nhờ Thúy Vân trả nợ duyên cho mình, thế nhưng nếu là Kim Trọng, thì Kiều hoàn toàn có lỗi, nợ lại mối tình với chàng, không cách nào trả được. Nhận thấy được tình cảm Kiều dành cho Kim Trọng rất sâu nặng, vẻ đẹp của lòng vị tha và đức hy sinh cao cả.

    Qua đoạn trích “trao duyên”, Nguyễn Du đã thể hiện lòng thông cảm, xót thương với bi kịch tình yêu, với thân phận bất hạnh của Thúy Kiều, điển hình của một kiếp hồng nhan bạc mệnh trong xã hội phong kiến, đồng thời trân trọng ngợi ca nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Trong đoạn trích bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc, tác giả đã miêu tả một cách tinh tế tâm trạng của nhân vật trong cảnh trao duyên, bằng cách sử dụng nhiều hình thái ngôn ngữ, đối thoại, độc thoại, nửa trực tiếp.

    Bài văn phân tích tác phẩm “Trao duyên” mẫu 7

    Truyện Kiều đỉnh cao trong đời thơ Nguyễn Du cũng là đỉnh cao của văn học Việt Nam, tác phẩm để lại những giá trị sâu sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Cuộc đời nàng Kiều trải qua biết bao truân chuyên, biến cố, phải trải qua biết bao khoảnh khắc đau lòng mà có lẽ đau lòng nhất chính là khoảnh khắc trao duyên cho em. Toàn bộ suy nghĩ tâm trạng của nàng được tái hiện chân thực, đầy đủ qua đoạn trích Trao duyên.

    Trao duyên được trích trong phần gia biến và lưu lạc, sau khi gia đình gặp cơn tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh với giá vàng ngoài bốn trăm để lo cho cha và em thoát nạn. Đêm cuối cùng trước khi phải đi cùng Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã trò chuyện với em là Thúy Vân vào trao duyên mình cho em với Kim Trọng. Để thuyết phục em đồng ý thay mình trả nghĩa cho chàng Kim, Thúy Kiều nhờ cậy hết sức chân thành:

    Cậy em em có chịu lời

    Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

    Thúy Kiều đã sử dụng ngôn từ hết sức tinh tế, hết sức cẩn trọng để đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, nàng cũng rất hiểu cho tình thế của Thúy Vân, đây là câu chuyện rất đột ngột với Thúy Vân, đó là chuyện không phải dễ dàng có thể chấp nhận. Là cậy chứ không phải bất từ ngữ nào khác, cậy gửi gắm sự tin tưởng, sự trông mong tha thiết của Kiều với em. Chịu lời – nhận làm một việc với thái độ miễn cưỡng, nàng hiểu cho tình cảm của Thúy Vân khi phải nghe những điều mình chuẩn bị giãi bày. Cặp từ lạy, thưa thoạt nhìn có vẻ phi lí trong lễ giáo phong kiến vì chị làm sao có thể lạy, thưa với em. Nhưng nó lại là hợp lý trong tư thế người cậy nhờ và kẻ được nhờ cậy. Cách dùng từ của Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình thế khó có thể từ chối trước những điều éo le, nghịch cảnh sắp nói.

    Để thuyết phục em, Kiều đã đưa ra lí lẽ về tình thế éo le của bản thân: “Kể từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề/ Sự đâu sóng gió bất kì/ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Nhắc lại chuyện tình cảm của mình và Kim Trọng hẳn lòng Kiều cũng nhói đau, hàng loạt hình ảnh thể hiện hình ảnh tình yêu đôi lứa được nói đến: quạt ước – tặng quạt để ngỏ ý hẹn ước trăm năm, chén thề – uống rượu thề nguyền trung thủy. Những lời hẹn thề sắt son, những tưởng cả hai sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi nào ngờ gia đình gặp biến cố khiến tình duyên lỡ dở. Hai câu thơ sau đã chỉ rõ nguyên nhân khiến Thúy Kiều phải bội ước. Gia đình gặp biến cố lớn, là chị cả trong gia đình, Thúy Kiều lúc này bị đặt giữa mâu thuẫn: chuyện gia đình và chuyện tình cảm, chọn chữ hiếu thì nàng bội nghĩa tình, lời hẹn thề với Kim Trọng, nhưng nếu trọn chữ tình thì lại trở thành kẻ đại bất hiếu. Và cuối cùng nàng đã quyết định: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.

    Trong đau đớn, dằn vặt nàng vẫn hết sức bản lĩnh, bình tĩnh để đưa ra cách giải quyết phù hợp nhất: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Keo loan được làm từ máu của con chim loan, dùng keo loan để chắp vá cho mối duyên của em và Kim Trọng. Hai chữ “tơ thừa” như nhấn mạnh vào nỗi đau đớn của Thúy Kiều nhưng đồng thời cho thấy sự tội nghiệp của nàng Vân. Biết bao đau đớn, biết bao tủi hờn trong chuyện tình duyên này. Kiều luôn tỏ ra là người rất am hiểu tâm lí và tình thế của Thúy Vân, nếu ở trên là mặc em, gần như giao phó, thì câu thơ dưới lại như một lời mong mỏi, tha thiết:

    “Ngày xuân em hãy còn dài

    Xót tình máu mủ thay lời nước non”.

    Thúy Kiều mong Vân vì tình chị em ruột thịt mà em có thể trả nghĩa cho Kim Trọng thay mình, nếu vậy:

    “Chị dù thịt nát xương mòn

    Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

    Trong nàng bao giờ cũng vậy, luôn có dự cảm không lành cho tương lai của chính mình. Đồng thời với lập luận như vậy kiến Vân không nỡ từ chối lời đề nghị của mình. Bằng lối lập luận chặt chẽ, sắc sảo vừa cho thấy sự thông minh của Thúy Kiều, vừa thực hiện được mục đích khiến Vân trả nghĩa cho Kim Trong cho nàng. Sau lời nhờ cậy em, Thúy Kiều bắt đầu trao kỉ vật cho Thúy Vân và dặn dò chuyện tương lai. Từng kỉ vật khi xưa của nàng và Kim Trọng đều được nâng niu, giữ gìn, mỗi kỉ vật gắn liền với một niềm hạnh phúc mà cả cuộc đời này nàng sẽ không bao giờ quên. Là chiếc vành mà Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều, là bức tờ mây – thư từ với những lời yêu thương họ dành cho nhau.

    Nhưng đó đâu phải đã hết họ còn có chung những kỉ niệm “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” và giờ đây Thúy Kiều trao lại hết cho em, nàng trao kỉ vật cũng đồng nghĩa với việc trao duyên. Nhưng khi nàng trao kỉ vật vẫn có sự mâu thuẫn, giằng xé giữa lí trí và tình cảm: lí trí thì nàng muốn trao hết cho em, nhưng tình cảm dường như không muốn: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”, nàng vừa muốn trao, vừa muốn giữ, giữ lại một chút gì đó cho bản thân. Tâm lí này cũng thật dễ hiểu, bởi trong tình yêu nhu cầu sở hữu rất cao, mấy ai có đủ dũng khí để trao duyên, vậy mà, Kiều đã phải làm, nên hành động muốn giữ lại một chút của chung cho mình là hoàn toàn dễ hiểu và hợp quy luật tâm lí.

    Đồng thời nàng cũng mong họ có cuộc sống êm đềm, hạnh phúc nhưng lại cũng muôn họ không bao giờ quên mình: “Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”. Thúy Kiều rõ ràng có sự ích kỉ, mềm yếu nhưng chính trong đó lại thấy tình cảm nàng dành cho Kim Trọng rất sâu nặng và trong giây phút trao duyên này nàng rất đau đớn, mất mát, hụt hẫng. Trao kỉ vật đau đớn, xót xa bao nhiêu thì những lời dặn dò chuyện mai sau càng quặn thắt bấy nhiêu:

    “Mai sau dù có bao giờ

    Đốt lò hương ấy so tơ phím này”.

    Sau này, mỗi khi đốt hương, đánh đàn, linh hồn của nàng sẽ trở về, khi đó nàng chỉ mong Thúy Vân hãy rưới giọt nước để giải oan cho chị “rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Ta thấy rằng ở bất cứ đâu trong Kiều cũng luôn mang khao khát hạnh phúc, sum họp: Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân bồ liễu, đền ghì trúc mai. Dù nàng có bị vùi dập thịt nát xương mòn nhưng lòng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng. Bởi vậy khi Kim Trọng và Thúy Vân được hưởng hạnh phúc thì Thúy Kiều cũng sẽ trở về để chung hưởng hạnh phúc ấy. Mâu thuẫn này đã cho thấy sự tiếc nuối và đau khổ của nàng Kiều đồng thời cho thấy tình cảm sâu nặng nàng dành cho Kim Trọng. Tám câu thơ cuối, nàng Kiều trở về với thực tại đau đớn, xót xa: tình yêu dang dở, tan vỡ, mãi mãi không thể hàn gắn.

    “Bây giờ trâm gãy gương tan

    Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”

    Thành ngữ “trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ trong tình yêu cũng là sự tan nát trong cõi lòng Thúy Kiều. Nàng thức tỉnh nỗi đau thân phận:

    “Phận sao phận bạc như vôi

    Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

    Ôi Kim lang, hỡi Kim lang

    Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

    Hai từ ôi, hỡi trong câu thơ sáu chữ đã cho thấy lời gọi tha thiết, khắc khoải và nỗi đau đến tột cùng của Kiều. Câu kết là lời nhận tội, tự trách của Thúy Kiều “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

    Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, sự phối hợp linh hoạt các hình thức ngôn ngữ đã diễn đạt tâm trạng, cảm xúc của Thúy Kiều khi trao duyên cho em. Đoạn trích cho thấy bi kịch tình yêu và bi kịch thân phận của người phụ nữ hồng nhan, bạc mệnh trong xã hội phong kiến, đồng thời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của Thúy Kiều.

    Bài văn phân tích tác phẩm “Trao duyên” mẫu 8

    Trao duyên – một hành động “trả nghĩa chàng Kim” của Thúy Kiều thể hiện một nét đẹp trong đạo sống của người xưa, “tình” thường gắn liền với “nghĩa”. Đó là một đặc điểm quan trọng trong quan niệm truyền thống về tình yêu. Đó là cái nhìn hiện thực của Nguyễn Du về con người.

    Nhưng bên cạnh đó, ta còn thấy một nàng Kiều thiết tha với tình yêu, thiết tha với cuộc sống riêng tư. Điều đó được thể hiện qua nỗi đau đớn của nàng vì tình yêu tan vỡ. Chiều sâu và sự chân thành trong tình cảm của nàng Kiều được bộc lộ sâu sắc khi nàng đối diện với kỉ vật, kỉ niệm tình yêu. Mối tình Kim – Kiều là mối tình đẹp vượt lễ giáo phong kiến. Mối tình của đôi tài tử – giai nhân ấy đã có những kỉ niệm trong sáng, đẹp đẽ, sâu nặng thiết tha. Kỉ niệm chính là hiện thân của tình yêu. Kỉ vật gắn với kỉ niệm, là một dạng vật chất hoá của kỉ niệm. Cho nên, rải rác suốt trong đoạn Trao duyên, Thuý Kiều đã nhắc tới, đã sống và đau đớn với những kỉ vật và kỉ niệm ấy. Trước hết, kỉ niệm được Kiều nhắc đến một cách tế nhị khi nói với Thuý vân về mối tình của mình:

    Kể từ khi gặp chàng Kim

    Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

    Ngôn ngữ khách quan, chữ “khi” lặp lại như dư âm của cái đã qua, lời lẽ có vẻ thanh thản. Nhưng cái thiết tha, cái chiều sâu của tình cảm lại nằm ở kỉ niệm “gặp chàng Kim”. Đó là kỉ niệm của phút giây gặp gỡ ban đầu mà “nghìn năm hồ dễ mấy ai quên”. Cả một vùng trong sáng của kí ức hiện về. Nhưng lúc này Kiều còn đủ lí trí để kìm nén, để không bị kỉ niệm cuốn vào tâm tưởng. Nhưng đến câu: “Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề” thì kỉ niệm của ngày trao quạt cho nhau để hẹn ước, đêm dưới trăng uống rượu nguyện thề thuỷ chung tự nó nói lên sự sâu nặng của một mối tình: trong sáng mà mãnh liệt, thiết tha. Mối tình vàng đá ấy tưởng cầm nắm trong tay bỗng chốc bị xã hội dập vùi tan vỡ. Tình yêu vẫn tiếp tục hiện về với kỉ vật:

    Chiếc vành với bức tờ mây

    Duyên này thì giữ, vật này của chung.

    Khi trao kỉ vật cho Thuý Vân, nỗi mất mát hiện hữu quá rõ. Cầm đến kỉ vật, kỉ niệm tình yêu sống dậy đối lập với hiện thực phũ phàng, Thuý Kiều không còn đủ lí trí để kìm nén được nữa, giọng nói của nàng run lên: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”, nghe như có tiếng nấc nghẹn ngào trong đó. Hoài Thanh đã cảm thông nỗi đau đớn của nàng Kiều ở hai từ “của chung” – “Bao nhiêu đau đớn dồn vào hai tiếng đơn sơ ấy”. Đau đớn vì duyên thì trao cho em mà tình yêu thì không trao được. Kỉ vật với Thuý Vân chỉ đơn giản là vật làm tin nhưng với Thuý Kiều nó lại là tình yêu.

    Trao duyên cho em, con người đạo lí ở Thuý Kiều mách bảo cần phải trao kỉ vật. Vả lại, khi tình yêu tan vỡ, giữ kỉ vật chỉ thêm đau nhưng Thuý Kiều không chỉ là con người của đạo lí mà còn là con người của tình riêng. Thuý Vân giữ kỉ vật trong khi chính Kiều mới là người giữ kỉ niệm của tình yêu. Cuộc chia lìa giữa kỉ niệm và kỉ vật là cuộc chia lìa giữa linh hồn và thể xác. Đau đớn dồn vào hai chữ “của chung” là vì như thế. Nguyễn Du như hoá thân để cảm thông, chia sẻ đến tận cùng nỗi đau với nhân vật của mình, từ đó cất lên tiếng nói nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Càng lúc, nỗi đau đớn càng lớn, kỉ vật, kỉ niệm tình yêu cứ chập chờn:

    Mất người còn chút của tin

    Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

    “Ngày xưa”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền”,… có một đôi lứa thiếu niên bên nhau, nàng đánh đàn cho chàng nghe trong khói hương trầm thơm ngát. Bao nhiêu thi vị của mối tình đầu giờ chỉ còn là vô vọng.

    – Đốt lò hương ấy, so tơ phím này…

    – Hồn còn mang nặng lời thề …

    “Lò hương”, “phím đàn”, “lời thề” là những kỉ niệm sâu nặng, thiết tha đối lập với hiện thực phũ phàng, tương lai mù mịt khiến Thuý Kiều rơi vào trạng thái đau đớn tột độ. Nguyễn Du thật tinh tế, sâu sắc khi biểu đạt nội tâm con người đối diện với kỉ vật, kỉ niệm tình yêu trong hoàn cảnh trao duyên. Thân phận đau khổ nhưng nhân cách sáng ngời. Nàng ứng xử theo văn hoá của thời trung đại nhưng không thôi nghĩ về thân phận và tình yêu riêng tư. Điều đó khiến nàng Kiều “người” hơn, gần chúng ta hơn, sống động và chân thực hơn.

    Bài văn phân tích tác phẩm “Trao duyên” mẫu 9

    Duyên phận là của trời cho, không được cưỡng cầu và càng không nên ép buộc, nhờ vả. Thế nhưng Thúy Kiều trong đoạn trích “Trao duyên” [Truyện Kiều] của Nguyễn Du đã cho mình cái đặc quyền đi “nhờ”, “cậy” duyên như vậy. Tác giả đã phân tích thành công tâm trạng chua xót, đầy đớn đau của Thúy Kiều khi phải trao mối duyên đầu với Kim Trọng cho em gái là Thúy Vân. Một nghịch cảnh trớ trêu, bất hạnh.

    Đã gọi là duyên thì đến rất tự nhiên, đi tìm cũng không được, duyên đến thì giữ, duyên đi thì buông tay. Đó là duyên phận của mỗi người, mỗi cuộc đời khi gặp gỡ nhau. Trong tình yêu thì chữ ”duyên” này càng lớn lao và quan trọng. Nhưng Thúy Kiều trong đoạn trích “Trao duyên” đã phải mang chữ duyên của mình gửi nhờ một người khác. Nguyễn Du đã chua xót khi khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều lúc này:

    Cậy em em có chịu lời

    Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

    Chỉ với hai câu thơ nhưng biết bao chua xót và dằn vặt, biết bao nước mắt và đau đớn. Từ “cậy” được đặt lên đầu câu diễn tả hoàn cảnh ngặt nghèo, khó thưa, khó gửi của Thúy Kiều. Vốn dĩ Thúy Kiều là chị, sẽ không có chuyện “thưa”, “lạy” Thúy Vân bất cứ việc gì; nhưng trong hoàn cảnh này, nàng đã phải làm những việc tưởng chừng như nghịch lý như vậy. Mối duyên với chàng Kim là mối duyên trời cho, nhưng số phận của Thúy Kiều giờ nổi trôi, bấp bênh, nàng không muốn phụ chàng, nên đã muốn cậy nhờ em gái nối tiếp mối duyên dở dang ấy. Câu thơ như cứa vào lòng người đọc nỗi chua xót cùng cực. Từ “cậy” là điểm nhấn, là sự thành công về mặt ngôn ngữ của Nguyễn Du. Thúy Kiều bắt đầu giãi bày nỗi lòng của mình bằng những câu thơ như dao cắt:

    Giữa đường đứt gánh tương tư

    Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

    Kể từ khi gặp chàng Kim

    Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

    Sự đâu sóng gió bất kì

    Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

    Đến đây thì người đọc đã thực sự hiểu hết ý nghĩa của từ “cậy”, nó không còn là nhờ nữa mà mang tính chất ép buộc, bắt buộc phải làm. Thúy Kiều hiểu được hoàn cảnh, hiểu được nỗi đau của bản thân mình. Nàng đã hi sinh chữ tình vì chữ hiếu, quyết phụ chàng Kim, chứ không thể phụ cha mẹ. Một người con gái yếu đuối, mỏng manh nhưng rất mực hiếu thảo. “Gánh tương tư” đã đứt gánh, mối duyên đã vỡ, nhưng Kiều không muốn chàng Kim đau lòng, nàng chỉ mong Thúy Vân có thể nối lại mối duyên này. Mặc dù “trao duyên” cho em gái nhưng lòng nàng đau như cắt. Những hẹn ước, những mong chờ, những kỉ niệm cứ như xát muối vào trong trái tim người con gái mỏng manh ấy. Thúy Kiều đã rất khéo léo khi “cậy” duyên em gái, đã đem chuyện máu mủ để ép Thúy Vân nên Thúy Vân không thể từ chối được:

    Ngày xuân em hãy còn dài

    Xót tình máu mủ thay lời nước non

    Chị dù thịt nát xương tan

    Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

    Thúy Kiều và Thúy Vân đều đang “đến tuổi cập kề” nhưng nàng lại nhắn nhủ với Thúy Vân “ngày xuân em còn dài”, có thể gánh tiếp mối duyên với chàng Kim, với người mà Kiều yêu thương. Một sự chua xót đến đau lòng khi Kiều nhắc đến cái chết, một dự liệu chẳng lành hay là một cuộc đời sẽ chẳng bình an mà nàng sắp phải mang. Thúy Vân có thể giúp đỡ thì dù mai này có chết Kiều vẫn “ngậm cười chín suối”. Qua đây chúng ta thấy được tấm lòng, sự lương thiện, sống và yêu hết lòng mình.

    “Trao” đi mối duyên mà bản thân nâng niu, trân trọng là điều đau đớn, chua xót mà Kiều phải gánh chịu. Nhưng đây là con đường Kiều phải chọn để đi, vì không còn lựa chọn nào khác nữa. Kiều mong em gái có thể giữ lấy mối duyên mà cô phải buông bỏ, để không phụ tấm lòng của Kim Trọng. Và dường như cái chết càng hiện rõ nét trong những lời nói của Kiều:

    Mai sau dù có bao giờ

    Đốt lò hương ấy so tơ phím này

    Trông ra ngọn cỏ lá cây

    Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

    Hồn còn mang nặng lời thề

    Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

    Dạ đài cách mặt khuất lời

    Rày xin chén nước cho người thác oan.

    Sống trong xã hội nhiều bất công, những người đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn lại phải lựa chọn con đường đi nhiều nước mắt. Cái chết không phải là kết thúc đối với Kiều, vì nàng còn mang nặng món nợ lớn với đời, với Kim Trọng. Thúy Kiều chỉ có thể bất lực với tình yêu của mình, mong Kim Trọng có thể hiểu được. Sự bế tắc và đau khổ trong lòng Thúy Kiều dường như chồng chất và đè nén không thể thoát ra được. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ có sát khí mạnh, cứa vào lòng người đọc một nỗi đau tận trái tim. Thương cho cô gái yếu đuối, với trái tim yêu chân thành nhưng lại rơi vào bế tắc cùng cực như vậy.

    Đoạn trích “Trao duyên” thực sự khiến người đọc không kìm được cảm xúc khi nghĩ đến thân phận và nỗi đau mà người con gái hiếu thảo ấy phải gánh chịu. Xã hội bất công, lòng người bạc bẽo đã đẩy những phận người thấp cổ bé họng vào con đường không lối. Thúy Kiều và mối tình đứt gánh ấy là minh chứng cho điều đó.

    Bài văn phân tích tác phẩm “Trao duyên” mẫu 10

    Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng còn mối tình với Kim Trọng? Thúy Kiều hết sức đau khổ. Cuối cùng nàng quyết định nhờ em thay mình lấy Kim Trọng. Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” rất cảm động. Có lẽ đây là cảnh tượng đau lòng chưa từng thấy trong nền văn học nhân loại.

    Dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã dựng lại chi tiết trao duyên thật sống động. “Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân” thì thấy chị mình đang thổn thức giữa đêm khuya. Vân ghé đến ân cần hỏi han. Thúy Kiều thật là khó nói, nhưng “để lòng thì phụ tấm lòng với ai”. Thương cha, nàng bán mình, thương người tình, nàng đành cậy em:

    “Cậy em, em có chịu lời,

    Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa,

    Giữa đường đứt gánh tương tư,

    Keo loan chắp mối tơ thừa mặc, em’’.

    Trong đây từ diễn tả khái niệm nhờ, Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”, tuyệt vời chính xác. Từ “cậy” hàm chứa niềm tin mà người được nhờ không thể thoái thác được. Lại thêm một cử chỉ thiêng liêng là “lạy”. Thuở đời chị lại lạy sống em bao giờ! Mà chỉ để trao duyên. Mối tình với chàng Kim sâu nặng biết chừng nào, thiêng liêng biết chừng nào! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em nghe:

    “Kể từ khi gặp chàng Kim

    Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

    Sự đâu sóng gió bất kì

    Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

    Thúy Kiều đã kể nhanh những sự kiện mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến. Chuyện gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh Chuyện thề nguyền hẹn ước với Kim Trọng. Chuyện sóng gió của gia đình. Nhưng có một chi tiết mà một người giản đơn như Thúy Vân không bao giờ biết được: “Hữu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội, Hiếu – tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo. Thúy Kiều đã cay đắng lựa chọn chữ “hiếu”. Mà chỉ có ba điều tồn tại: “Đức tin, hi vọng và tình yêu, tình yêu vĩ đại hơn cả”. Nghe một bài trong Kinh Thánh như vậy, chúng ta càng thấm thía với nỗi đau của nàng Kiều. Cho nên hi sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng.

    “Ngày xuân em hãy còn dài

    Xót tình máu mủ thay lời nước non

    Chị dù thịt nát xương mòn

    Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

    Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xuân em hãy còn dài” đau đớn biết chừng nào! Lời lẽ thiêng liêng của nàng là vì lo cho Kim Trọng, mong sao cho chàng Kim có hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt vọng, nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác. Thật là một cô gái có đức hi sinh lớn lao. Biết là em thuận lòng, nàng trao cho em những kỉ vật giữa nàng và chàng Kim:

    “Chiếc vành với bức tờ mây

    Duyên này thì giữ, vật này của chung”.

    Tình cảm dẫu sao vẫn còn trừu tượng, chứ kỉ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc vành với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Mỗi lời của nàng nặng như chì. Nàng trao duyên, trao kỉ vật cho em mà nàng uất giận cuộc đời. Cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung được thì có đáng nguyền rủa không Đây chính là lời tố cáo vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con người. Thúy Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn ki vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này:

    “Mai sau dù có bao giờ,

    Đốt lò hương ấy, so tơ phím nàv.

    Trông ra ngọn cỏ lá cây,

    Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

    Hồn còn mang nặng lời thề,

    Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.

    Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió…”. Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ. Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt rành là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:

    “Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

    Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

    Phận sao phận bạc như vôi!

    Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

    Mỗi lời của nàng là một lời vận vào. Trước nỗi đau xót này, nàng chỉ trách minh là “phận bạc”, là “hoa trôi”, những hình ảnh đó làm động lòng thương lên hết thảy chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã “phụ chàng”. Chính tâm lí mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết ngất trong tiếng kêu thương thấu trời:

    “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

    Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”

    Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” trong thiên “Đoạn trường tân thanh”. Với con mắt tinh đời, Nguyễn Du đã phát hiện thấy trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân một tình tiết rất cảm động và bằng nghệ thuật tuyệt vời, ông đã dựng lại đoạn “Trao duyên” hết sức sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và con người của phi thường. Trong sự kiện “sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên [cũng đừng vội chê trách Thúy Vân.

    Nhân vật này còn là một kho bí mật trong công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây], còn Thúy Kiều thì đau đớn. Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lí, sự vận động nội tâm nhân vật, cũng có thể nói Nguyễn Du đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn.

    Chỉ qua đoạn “Trao duyên”, chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như Mộng Liên Đường chủ nhân: khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo.

    Phân tích 18 câu thơ đầu bài Trao duyên hay nhất

    Phân tích 12 câu thơ đầu trong đoạn trích “Trao duyên”

    Tuyển chọn 10 Bài văn phân tích tác phẩm “Trao duyên” trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

    --- Bài cũ hơn ---

  • Thiết Kế Bài Dạy Học Văn Bản Cảnh Ngày Hè
  • Phân Tích: Cảnh Ngày Hè – Nguyễn Trãi
  • Đề Đọc Hiểu Về Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi
  • Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi
  • Phân Tích Bài Thơ “Cảnh Ngày Hè” Của Nguyễn Trãi
  • --- Bài mới hơn ---

  • 4 Bài Thơ Hay Về Người Lính Hải Quân
  • Thơ Chú Bộ Đội Hành Quân Trong Mưa
  • Soạn Bài Cảnh Khuya Và Rằm Tháng Giêng
  • Nêu Cảm Nghĩ Của Mình Về Bài Thơ “cảnh Khuya” Của Hồ Chí Minh
  • Nêu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Cảnh Khuya Của Hồ Chí Minh
  • Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh Ngày Hè của nhà thơ Nguyễn Trãi

    Nguyễn Trãi không chỉ được biết đến là một vị anh hùng của dân tộc mà còn là một nhà thơ lớn. Một thi nhân trải qua biết bao thăng trầm của cuộc sống. Chính vì thế mà những sáng tác của ông đều gắn liền với cuộc đời mình. Bài thơ Cảnh Ngày Hè chính là một bài thơ được sáng tác khi ông về Côn Sơn ở ẩn. Qua đó bộc bạch những tâm sự khi bị vua nghi kị, tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên cùng với nỗi niềm tâm sự canh cánh trong lòng.

    Bài thơ mở đầu bằng cách giới thiệu hoàn cảnh mà tác giả đang sống, đang hưởng thụ một cách bất đắc dĩ:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường”

    Một con người luôn nhiệt huyết với sự nghiệp của đất nước, lo lắng cho cuộc sống của nhân dân và luôn đắm chìm vào công việc nay lại phải từ bỏ tất cả để nhàn nhã hóng mát. Tuy nhiên đó không phải là điều mà Nguyễn Trãi mong mỏi lúc này. Ông muốn tiếp tục được cống hiến. Câu thơ không hề toát lên sự vui vẻ khi được hưởng thanh nhàn mà mang theo đầy rẫy những tâm sự của nhà thơ. “Thuở ngày trường”, nghĩa là rảnh rỗi hóng mát cả một ngày dài không có việc gì để làm. Câu thơ như trở nên kéo dài hơn với từ “trường” và cho người đọc cảm giác giống như một sự thở dài chứ không có nhiều vui sướng. Đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ khi mà xã hội thì ngày càng suy yếu mà một người vốn sục sôi nguyện vọng, ý chí của ông lại bị triều đình vui lấp nên đành từ quan về ở ẩn. Ngày dài hóng mát ấy vốn chẳng phải ước vọng của ông, nên dù cho ngồi hóng mát nhưng ông cũng không được thanh thản, nghỉ ngơi thực sự.

    Đối lập với sự tù túng trong tâm hồn của ông chính là cảnh sắc thiên nhiên mùa hè tươi đẹp. Nguyễn Trãi đã tạm gác những muộn phiền để chiêm ngưỡng cảnh thiên nhiên:

    “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

    Cảnh vật nổi bật bởi cây hòe với sắc lục “rợp giương”, trải rộng cả một không gian. Không gian có sức sống mạnh mẽ của cảnh vật bởi động từ “đùn đùn”. Tầm nhìn của nhà thơ càng ngày càng mở rộng ra, dần dần đưa mắt ra xa và thấy được sắc đỏ của thạch lựu và sắc hồng của những bông sen trông hồ. Tiếp tục là những động từ “phun”, “tiễn”. Không gian rộng mở với tràn ngập những sắc màu của những loài hoa tượng trưng cho màu hè. Không chỉ vậy mà ở đó còn có mùi hương thơm ngát của hồ sen. “Tiễn mùi hương” không phải mùi hương sắp hết mà là lan tỏa từ hồ sen rộng ra xung quanh đó. Cảnh vật trải dần từ gần ra xa cho thấy sức bao quát và gợi tả tinh tế của nhà thơ. Không chỉ thấy cảnh sắc đẹp, mùi hương thơm mà nhà thơ còn cảm nhận cả bằng thính giác đó là lắng nghe những âm thanh của thiên nhiên:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Những âm thanh được lắng nghe từ xa tới gần. Đó là âm thanh về sự sống của con người đến của tự nhiên. “Chợ” chính là một nơi tập trung dân cư sinh hoạt và nó cho biết cuộc sống hiện tại của nhân dân. Khi chợ đông đúc, nhiều hàng hóa nghĩa là cuộc sống của nhân dân ấm no, thái bình, thịnh trị. Chính từ “lao xao” đã cho thấy cuộc sống thái bình của những người dân chài, khung cảnh đông đúc nhưng lại không quá ồn ào và lại ở xa nên không làm mất đi sự yên tĩnh, hưởng thụ của tác giả. Âm thanh ấy như tạo nên mối liên kết giữa nhà thơ với nhân dân, khiến ông dù ở ẩn nhưng vẫn không tách rời hoàn toàn với quần chúng nhân dân. Song song với sự “lao xao” ấy chính là hình ảnh “lầu tịch dương” đang bao trùm bởi tiếng ve. “Lầu tịch dương”, một âm thanh quen thuộc của mùa hè.

    Thiên nhiên đã đem lại cho ông thêm niềm mãnh liệt về yêu thiên nhiên, yêu sự sống của con người. Ông càng thêm thưởng thức niềm vui cuộc sống thanh bình nhưng cũng không quên những nỗi riêng tư, sầu muộn, những canh cánh trong lòng vì dân vì nước:

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Nguyễn Trãi đã sử dụng điển tích “Ngu cầm” để nói lên khát vọng của ông. Ngu cầm thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng trong lịch sử vì là những vị minh quân, đất nước thanh bình, thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn gảy lên để ca ngợi sự thanh bình, giàu đủ của nhân dân. Chính vì thế Nguyễn Trãi như muốn mượn hình ảnh ấy để ca ngợi sự ấm no của nhân dân hiện tại. Bên cạnh đó còn bày tỏ ước vọng thể hiện tinh thân nhân đạo cao cả đó chính là không chỉ muốn dân mình no đủ mà còn mong muốn cho cả nhân dân ở khắp mọi nơi.

    Bài thơ Cảnh Ngày Hè đã cho ta thấy được những nỗi niềm tâm sự của nhà thơ Nguyễn Trãi. Qua đó còn làm nổi bật lên tình yêu quê hương đất nước, khát vọng lý tưởng cao cả của ông dù cho ông đang ở ẩn hay vẫn tại trốn quan trường.

    Loan Trương

    --- Bài cũ hơn ---

  • Vẻ Đẹp Tâm Hồn Nguyễn Trãi Trong Bài Thơ “cảnh Ngày Hè”
  • Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Ngắn Gọn
  • Dàn Ý Cảnh Ngày Hè Ngữ Văn 10 Ngắn Gọn Dễ Hiểu
  • Vẻ Đẹp Thiên Nhiên Và Tâm Hồn Nguyễn Trãi Qua Bài Cảnh Ngày Hè
  • Phát Biểu Cảm Nhận Của Bản Thân Về Vẻ Đẹp Bức Tranh Thiên Nhiên Trong Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
  • Bạn đang xem chủ đề Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Facebook trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!

    Quảng Cáo

    Chủ đề xem nhiều

    Bài viết xem nhiều

    Video liên quan

    Chủ Đề