Cin2 là gì

Năm 2020, một bài báo về ung thư cổ tử cung được đăng trên Lancet – tạp chí khoa học hàng đầu thế giới đã khiến nhiều người ngỡ ngàng. Nghiên cứu này tiến hành ở 185 quốc gia trên toàn thế giới và kết luận rằng ung thư cổ tử cung vẫn là bệnh lý ác tính phổ biến thứ 4 ở nữ giới cho dù vaccine phòng chống HPV đã ra đời cách đây nhiều năm.

Ung thư cổ tử cung là gì mà nguy hiểm như vậy? Dấu hiệu nào để nhận biết sớm bệnh lý ác tính này? Phương pháp điều trị thế nào và tỷ lệ khỏi bệnh có cao không? Đọc bài viết này để được giải đáp thắc mắc, bạn nhé!

1, Ung thư cổ tử cung là gì?

Khoan hãy nói về ung thư cổ tử cung, trước tiên, bạn cần phân biệt được khái niệm tiền ung thư và ung thư. Sở dĩ điều này cần thiết vì tình trạng tiền ung thư cổ tử cung rất phổ biến. Chắc chắn bạn đã từng hoặc sẽ nghe thấy những thuật ngữ khó hiểu và dễ gây hoang mang như tiền ung thư, CIN hay SIL hay khi đi khám phụ khoa. Để Genetica giải thích rõ hơn cho bạn.

CIN [cervical intraepithelial neoplasia – tân sinh nội mô cổ tử cung] hay SIL [squamous intraepithelial lesion – tổn thương biểu mô vảy cổ tử cung] được gọi chung là tổn thương tiền ung thư. Tình trạng này có nghĩa là bạn chưa mắc ung thư nhưng nếu không theo dõi và xử lý kịp thời thì những tổn thương đó sẽ phát triển thành khối u trong tương lai.

Bác sĩ ung thư phụ khoa Stephanie Angela King của Fox Chase – Trung tâm ung thư hàng đầu của Mỹ cho biết: “Hàng năm, chúng tôi phát hiện hơn 1 triệu kết quả Pap test bất thường, trong đó có 100.000 ca có tổn thương tiền ung thư nghiêm trọng. Nhưng chỉ có 10.000 trường hợp chuyển biến thành ung thư”.

CIN và SIL được phân loại thành các mức độ khác nhau. Trong đó, CIN và SIL càng cao, tổn thương càng nặng và nguy cơ tiến triển thành ung thư càng lớn.

  • CIN1 hoặc SIL mức độ thấp: là tình trạng một vài tế bào biểu mô bề mặt cổ tử cung bị biến đổi nhẹ.
  • CIN2, CIN3 tương ứng với SIL mức độ cao: tức là nhiều lớp tế bào biểu mô cổ tử cung bị biến đổi trung bình đến nặng.

Virus gây u nhú ở người [HPV] là nguyên nhân gây ra tổn thương tiền ung thư ở cổ tử cung. Bạn có thể phát hiện những tổn thương này khi đi khám phụ khoa và làm xét nghiệm phiến đồ âm đạo Pap test. Sau đó, dựa vào mức độ tổn thương nặng hay nhẹ, độ tuổi và mong muốn sinh con của bạn, bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp điều trị phù hợp, bao gồm: theo dõi và tái khám định kỳ, đốt điện, cắt bỏ hoặc áp lạnh…

2, Dấu hiệu nhận biết ung thư cổ tử cung

Ung thư cổ tử cung là tình trạng khối u hình thành tại vị trí hẹp, dài và bên dưới tử cung. Khác với tổn thương tiền ung thư tương đối lành tính và thường không có triệu chứng, ung thư cổ tử cung là một bệnh lý ác tính. Tức là khối u đã hình thành trong cơ thể bạn và sẽ xuất hiện những triệu chứng bất thường.

Ở giai đoạn đầu, bạn có thể phát hiện được dấu hiệu:

  • Chảy máu âm đạo bất thường: ví dụ chảy máu sau khi quan hệ tình dục, sau khi đã mãn kinh, chảy máu đột ngột giữa các kỳ kinh…
  • Tiết dịch bất thường từ âm đạo
  • Đau khi quan hệ tình dục
  • Đau âm ỉ vùng xương chậu

Ở giai đoạn muộn hơn, bạn có thể xuất hiện triệu chứng sưng phù chân, tiểu buốt, khó tiểu, nước tiểu có máu hoặc thay đổi thói quen đại tiện. Sụt cân bất thường và mệt mỏi kéo dài cũng là dấu hiệu của bệnh lý ác tính.

Những triệu chứng sớm của ung thư cổ tử cung thường mơ hồ, thoáng qua và bị dễ nhầm lẫn với các bệnh lý phụ khoa khác. Tuy nhiên, bạn không được chủ quan mà nên đi khám càng sớm càng tốt, đặc biệt nếu bạn ngoài 40 tuổi hoặc đã phát hiện tổn thương tiền ung thư trước đó.

3, Các phương pháp điều trị ung thư cổ tử cung

Các biện pháp điều trị ung thư cổ tử cung hiện nay bao gồm phẫu thuật, hóa chất, xạ trị, điều trị đích và liệu pháp miễn dịch. Bạn có thể được điều trị bằng một hoặc kết hợp nhiều phương pháp khác nhau.

Lựa chọn phương pháp điều trị nào phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, mong muốn sinh con và tình trạng sức khỏe của bạn. Hãy trao đổi thật kỹ với bác sĩ để quyết định phương pháp điều trị hiệu quả và phù hợp với bạn nhất nhé! 

4, Ung thư cổ tử cung có chữa được không?

Ung thư cổ tử cung tiên lượng có tốt không? Nếu phát hiện sớm thì có chữa được không? Khi phát hiện muộn thì sống thêm được bao nhiêu năm nữa? Đó là những câu hỏi thường trực của rất nhiều bệnh nhân ung thư, thậm chí cả những phụ nữ có tổn thương tiền ung thư nghiêm trọng.

Để đánh giá tiên lượng của một bệnh lý ung thư, các nhà khoa học thường sử dụng chỉ số “tỷ lệ sống sót sau 5 năm”. Tỷ lệ này đo lường phần trăm bệnh nhân sống sót và tử vong do khối u ác tính trong vòng 5 năm kể từ lúc được chẩn đoán. Tỷ lệ này càng cao, khả năng chữa khỏi và phục hồi của bệnh nhân ung thư càng tốt.

Đối với ung thư cổ tử cung nói riêng và hầu hết các bệnh lý ác tính nói chung, tỷ lệ sống sót phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, loại tế bào ung thư và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Theo Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ, tỷ lệ sống sót sau 5 năm của bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm rất cao 92%.

Đây là những trường hợp tế bào ác tính khu trú ở tử cung và cổ tử cung, chưa lan tràn ra ngoài. Khi khối u đã ảnh hưởng tới các tế bào bạch huyết xung quanh, tỷ lệ sống sót sau 5 năm của bạn giảm còn 58%. Còn nếu khối u đã di chuyển tới nhiều cơ quan trong cơ thể, tiên lượng của bạn rất xấu, chỉ có 17% khả năng sống trong vòng 5 năm tới.

Ung thư cổ tử cung gây ra 311.000 cái chết ở phụ nữ trên khắp thế giới hàng năm. Hiểu rõ về bệnh lý nguy hiểm này không chỉ giúp bạn phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường để nâng cao kết quả điều trị, mà còn biết cách phòng tránh tối đa bằng việc tiêm vaccine HPV và khám sàng lọc định kỳ.

bởi Jason Wasserman MD PhD FRCPC
28 Tháng Ba, 2022

Bệnh tân sinh trong biểu mô cổ tử cung [CIN] là một bệnh tiền ung thư, lây truyền qua đường tình dục do nhiễm một loại vi rút có tên là papillomavirus ở người [HPV]. Nó được gọi là tiền ung thư vì theo thời gian nó có thể biến đổi thành một loại ung thư cổ tử cung được gọi là ung thư biểu mô tế bào vảy. CIN được chia thành ba cấp độ - CIN1, CIN2 và CIN3 - và nguy cơ phát triển ung thư là thấp nhất với CIN1 và cao nhất với CIN3.

Một tên khác của CIN1 là tổn thương nội biểu mô vảy mức độ thấp [LSIL]. Tương tự, CIN2 và CIN3 thường được nhóm dưới tên tổn thương trong biểu mô vảy cao cấp [HSIL]. Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] hiện khuyến nghị sử dụng các thuật ngữ LSIL và HSIL khi mô tả những thay đổi tiền ung thư ở cổ tử cung nhưng nhiều nhà bệnh lý học cũng sẽ đưa mức CIN tương ứng vào báo cáo bệnh lý.

Làm thế nào để các nhà giải phẫu bệnh chẩn đoán ung thư nội biểu mô cổ tử cung?

Chẩn đoán CIN thường được thực hiện sau khi một mẫu mô nhỏ được lấy ra khỏi cổ tử cung trong một thủ tục được gọi là sinh thiết. Chẩn đoán cũng có thể được thực hiện sau khi cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ cổ tử cung vì những lý do khác. Sau đó, mẫu mô được gửi đến một nhà nghiên cứu bệnh học để kiểm tra nó dưới kính hiển vi.

Làm thế nào để các nhà bệnh học phân loại ung thư nội biểu mô cổ tử cung?

Khi kiểm tra dưới kính hiển vi, các tế bào vảy trong biểu mô trên bề mặt của cổ tử cung trông bất thường. Các nhà bệnh lý học chia CIN thành ba cấp độ - CIN1, CIN2 và CIN3 - dựa trên số lượng biểu mô đã được thay thế bằng các tế bào vảy bất thường. Báo cáo bệnh lý của bạn nên bao gồm loại CIN được nhìn thấy [ví dụ CIN1] và đối với các mẫu mô lớn hơn, cho dù CIN đã được nhìn thấy ở tỷ suất lợi nhuận của mô [xem bên dưới để biết thêm thông tin về biên].

Bệnh tân sinh trong biểu mô cổ tử cung 1 [CIN1]

Trong CIN1, các tế bào bất thường được tìm thấy chủ yếu ở XNUMX/XNUMX dưới của biểu mô và các tế bào bất thường được gọi là koilocytes thường được nhìn thấy. Koilocytes lớn hơn các tế bào vảy bình thường và Trung tâm của tế bào [phần chứa vật chất di truyền] thường là siêu sắc [đậm hơn] và hình dạng không đều. Có thể thấy một khoảng trống xung quanh hạt nhân. Các nhà bệnh học mô tả không gian này như một 'vầng hào quang' vì nó trông giống như một vòng bao quanh hạt nhân. Một số koilocytes có thể có nhiều hơn một nhân. Các tế bào này được gọi là phân bào hoặc đa nhân. Koilocytes trông bất thường vì chúng đã bị nhiễm HPV. Số lượng ngày càng tăng số liệu phân bào [các tế bào đang phân chia] cũng có thể được nhìn thấy. Một tên khác của CIN1 là tổn thương nội biểu mô vảy mức độ thấp [LSIL]. Nguy cơ phát triển ung thư với CIN1 là thấp và đối với hầu hết phụ nữ, tình trạng này sẽ tự khỏi theo thời gian mà không cần điều trị.

Bệnh tân sinh trong biểu mô cổ tử cung 2 [CIN2]

Trong CIN2, các tế bào bất thường được tìm thấy chủ yếu ở XNUMX/XNUMX dưới của biểu mô. Các tế bào bất thường là siêu sắc [tối hơn] và chúng thiếu sự trưởng thành thường được coi là các tế bào vảy di chuyển về phía bề mặt của biểu mô. Kết quả là, tế bào chất [cơ thể của tế bào] nhỏ so với Trung tâm [phần chứa vật chất di truyền] và nó trông kém hồng hơn. Số lượng ngày càng tăng số liệu phân bào [các tế bào đang phân chia] thường được nhìn thấy và một số trong số các hình dạng phân bào này có thể đang phân chia theo cách bất thường dẫn đến sự phân bố vật chất di truyền không đồng đều giữa hai tế bào mới. Các nhà nghiên cứu bệnh học gọi tế bào này là hình nguyên phân không điển hình. Một tên khác của CIN2 là tổn thương trong biểu mô vảy cao cấp [HSIL]. Nguy cơ phát triển ung thư với CIN2 cao hơn với CIN1 nhưng thấp hơn với CIN3.

Bệnh tân sinh trong biểu mô cổ tử cung 3 [CIN3]

Trong CIN3, các tế bào bất thường được tìm thấy trong toàn bộ biểu mô [từ trên xuống dưới]. Các tế bào bất thường là siêu sắc [tối hơn] và chúng thiếu sự trưởng thành thường được coi là các tế bào vảy di chuyển về phía bề mặt của biểu mô. Kết quả là, tế bào chất [cơ thể của tế bào] nhỏ so với Trung tâm [phần chứa vật chất di truyền] và nó trông kém hồng hơn. Số lượng ngày càng tăng số liệu phân bào [các tế bào đang phân chia] thường được nhìn thấy và một số trong số các hình dạng phân bào này có thể đang phân chia theo cách bất thường dẫn đến sự phân bố vật chất di truyền không đồng đều giữa hai tế bào mới. Các nhà nghiên cứu bệnh học gọi tế bào này là hình nguyên phân không điển hình. Một tên khác của CIN3 là tổn thương trong biểu mô vảy cao cấp [HSIL]. Nguy cơ phát triển ung thư với CIN3 là cao và hầu hết phụ nữ được điều trị để loại bỏ các mô bất thường.

P16 là gì?

Tế bào bị nhiễm các loại nguy cơ cao papillomavirus ở người [HPV] sản xuất một lượng lớn protein được gọi là p16 và p16 tăng thường thấy ở CIN2 và CIN3. Vì lý do này, các nhà bệnh lý học thực hiện một thử nghiệm được gọi là hóa mô miễn dịch cho phép họ nhìn thấy p16 bên trong các ô. Các nhà bệnh học sử dụng thuật ngữ tích cực hoặc phản ứng để mô tả các ô hiển thị lượng p16 tăng lên. Kết quả dương tính hỗ trợ chẩn đoán CIN2 hoặc CIN3 và giúp loại trừ các tình trạng khác có thể trông giống như CIN2 và CIN3 dưới kính hiển vi.

Ký quỹ là gì?â €

Chủ Đề