Đặc điểm của nội dung dạy học tiểu học

Khái niệm và đặc điểm điểm của quá trình giáo dục từ lâu đã luôn là vấn đề khúc mắc của nhiều người. Rất khó để phân biệt được sự khác nhau giữa quá trình giáo dục và quá trình dạy học. Trong bài viết này, Luận Văn Việt sẽ cung cấp cho bạn những thông tin đầy đủ giúp bạn nhận thức rõ hơn về vấn đề này.

Đặc điểm của nội dung dạy học tiểu học

1. Khái niệm quá trình giáo dục là gì? 

Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, một quá trình, trong đó: Dưới tác động có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp của người giáo viên, với tư cách là nhà giáo dục, nhà sư phạm,học sinh tự giác, tích cực tự giáo dục, tự tu dưỡng, rèn luyện nhằm hình thành thế giới quan và những phẩm chất nhân cách tốt đẹp của người công dân tương lai.

Như vậy, trong quá trình giáo dục, giáo viên giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức, điều khiển hoạt động giáo dục đối với học sinh. Vai trò chủ đạo của người giáo viên thể hiện đậm nét trong việc cụ thể hóa, mục đích, mục tiêu giáo dục, xác định nội dung cần phải giáo dục và giáo dục như thế nào, bằng những phương pháp, phương tiện và những hình thức giáo dục nào cho phù hợp.

Điều đó cần được cụ thể hóa, chi tiết hóa trong chương trình, kế hoạch, trong hoạt động tổ chức giáo dục học sinh. Quá trình giáo dục không phải chỉ có tác động một chiều mà là tác động hai chiều, tác động song phương.

Người học sinh trong quá trình giáo dục không phải chỉ tiếp thu ảnh hưởng, tác động từ phía giáo viên mà chính bản thân họ cũng thường xuyên tiến hành hoạt động cá nhân, tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục để từng bước hoàn thiện phẩm chất nhân cách của mình.

Do đó, trong quá trình giáo dục diễn ra sự tác động qua lại, thường xuyên, tích cực giữa chủ thể – nhà giáo dục và đối tượng của quá trình giáo dục là học sinh, vừa là khách thể, vừa là chủ thể tự giáo dục. Đó là mối quan hệ tương tác giữa giáo viên và học sinh giữa chủ thể và khách thể, giữa nhà giáo dục và người được giáo dục trong hoạt động giáo dục.

Nếu không có sự tác động qua lại đó thì chính bản thân quá trình giáo dục sẽ không tồn tại, không có quá trình giáo dục theo đúng nghĩa của nó. Nói cách khác trong quá trình giáo dục luôn diễn ra sự tác động qua lại tích cực và sự thống nhất biện chứng giữa hoạt động giáo dục và hoạt động tự giáo dục.

Vậy làm thế nào để nhận ra đâu là một quá trình giáo dục? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phải đi tìm các đặc điểm của quá trình giáo dục.

Hiện tại Luận Văn Việt đang cung cấp dịch vụ viết thuê luận văn tiếng anh. Nếu bạn đang gặp bất kỳ khó khăn gì với bài luận của mình, hãy liên hệ với chúng tôi ngay đề được đội ngũ giảng viên giúp đỡ tận tình.

2. Những đặc điểm của quá trình giáo dục là gì?

Quá trình giáo dục có 5 đặc điểm cơ bản như sau:

  • Giáo dục là một quá trình hoạt động có mục đích, có kế hoạch, có nội dung, có phương pháp được diễn ra trong một thời gian dài

Đó là quá trình chuyển hóa những yêu cầu khách quan của xã hội thành nhu cầu phát triển chủ quan của mỗi cả nhân, trong đó các phẩm chất, các nét tính cách, các hành vi, thói quen về đạo đức, về nếp sống văn hóa, thẩm mĩ… của học sinh dần dần hình thành, phát triển.

Quá trình đó không thể diễn ra trong chốc lát mà đòi hỏi phải có thời gian. Bởi lẽ trong quá trình giáo dục, giáo viên không thể chỉ dừng lại ở chỗ làm cho học sinh hiểu được những yêu cầu và chuẩn mực của xã hội đối với cá nhân mà quan trọng hơn là phải hình thành những niềm tin, những xúc cảm tích cực đặc biệt là phải rèn luyện những hành vi và thói quen tương ứng.

Đặc điểm của nội dung dạy học tiểu học

  • Quá trình giáo dục diễn ra với những tác động phức hợp

Giáo dục là một quá trình tổ chức các loại hình hoạt động phong phú, phức tạp nhằm hình thành phẩm chất, những nét tính cách ổn định và bền vưng ở người được giáo dục. Đó là cả một quá trình phát triển và giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn đan xen nhau trong đời sống nội tâm của đối tượng giáo dục.

Dể hình thành một nét tính cách, một hành vi, một thói quen phù hợp với chuẩn mực của xã hội cần có sự tác động phối hợp từ nhiều lực lượng  giáo dục như nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội.

Đây là một đặc điểm rất quan trọng trong các đặc điểm của quá trình giáo dục.

  • Quá trình giáo dục là quá trình phát triển biện chứng

Giáo dục là một hiện tượng xã hội và đồng thời là một quá trình nên nó không ngừng vận động và phát triển theo quy luật phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Thực chất của hoạt động giáo dục là quá trình liên tục phát hiện và giải quyết những tình huống sư phạm nảy sinh trong các lĩnh vực giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống văn hóa thẩm mĩ của hoc sinh trong môi trường sư phạm của nhà trường, gia đình và xã hội.

  • Quá trình giáo dục có tính cá biệt

Trong thực tiễn cuộc sống muôn hình muôn vẻ quanh ta cũng như trong môi trường giáo dục, mỗi con người, mỗi học sinh là một thế giới riêng với những đặc điểm riêng về tâm – sinh lí, về nhận thức, tình cảm,… môi con người đều có cuộc sống và thế giới nội tâm riêng.

Vì vậy, trong quá trình giáo dục, với những tác động sư phạm như nhau, mỗi cá nhân có thể lĩnh hội theo cách riêng của mình với những mức độ khác nhau.

  • Quá trình giáo dục gắn liền và thống nhất với quá trình dạy học

Trong các loại hình trường, hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) và hoạt động dạy học là hai hoạt động được tiến hành song song với các chức năng, đặc trưng riêng của mình.

Hoạt động dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất lượng, có hiệu qủa nội dung học vấn; hoạt động giáo dục nhằm hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen, lối sống, hành vi văn minh,… Hai hoạt động đó không thể tách biệt mà thống nhất, bổ sung, bổ trợ, hỗ trợ cho nhau, góp phần hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách cho thế hệ trẻ.

Cả 5 đặc điểm của quá trình giáo dục trên đều vô cùng quan trọng, nếu thiếu 1 trong 5 đặc điểm trên thì 1 hoạt động sẽ không thể trở thành quá trình giáo dục.

Trên đây là những kiến thức về “khái niệm quá trình giáo dục là gì” và “ đặc điểm của quá trình giáo dục”. Chúc các bạn học tập tốt!

Nếu trong quá trình bạn nghiên cứu hay làm bài luận văn gặp phải bất kì khó khăn nào, đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi qua hotline 0915 686 999 để được đội ngũ chuyên gia của Luận Văn Việt giúp bạn hoàn thành bài tiểu luận một cách tốt nhất.

Đặc điểm của nội dung dạy học tiểu học

Hiện tại tôi đang đảm nhiệm vị trí Content Leader tại Luận Văn Việt. Tất cả các nội dung đăng tải trên website của Luận Văn Việt đều được tôi kiểm duyệt và lên kế hoạch nội dung. Tôi rất yêu thích việc viết lách ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Và đến nay thì tôi đã có hơn 5 năm kinh nghiệm viết bài.

Hy vọng có thể mang đến cho bạn đọc thật nhiều thông tin bổ ích về tất cả các chuyên ngành, giúp bạn hoàn thành bài luận văn của mình một cách tốt nhất!

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. 1.2.1. Đặc điểm của quá trình dạy học hiện nay ?. So với những năm trước đây, quá trình dạy học hiện nay có những đặc điểm gì? Những đặc điểm đó được thể hiện ở nhà trường Việt Nam ra sao? ?. Với tư cách là SV, là người GV trong tương lai, có thể rút ra những bài học cần thiết nào cho bản thân từ các đặc điểm đó? Quá trình dạy học hiện nay có các đặc điểm cơ bản sau: 1.2.1.1. Hoạt động học tập của HS được tích cực hóa trên cơ sở nội dung dạy học ngày càng được hiện đại hóa Thời đại hiện nay là thời đại siêu công nghiệp với đặc điểm chung là cách mạng khoa học, kỹ thuật và cách mạng xã hội phát triển cực kỳ nhanh. Nếu như những năm thập kỷ 70 của thế kỷ XX, tri thức nhân loại tăng gấp đôi theo chu kỳ 8 năm, thì đến nay chu kỳ đó chỉ còn 4 năm. Sự phát triển như vũ bão của xã hội, nhất là của cách mạng khoa học, kỹ thuật- công nghệ hiện nay khiến nội dung dạy học trong nhà trường không ngừng được đổi mới, được hiện đại hóa. Từ thực tế đó nảy sinh mâu thuẫn giữa khối lượng tri thức trong nội dung học vấn HS cần nắm càng ngày càng nhiều hơn, phức tạp hơn trong khi đó thời lượng học tập của HS trong quá trình dạy học không thể tăng. Hướng giải quyết tích cực mâu thuẫn này đã và đang được thực hiện trong nhà trường hiện nay là đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của HS. Ngoài tính lịch sử cụ thể, tính tích cực hành động vốn là bản chất của con người. Trong nhà trường bấy lâu, tính tích cực học tập của HS ít được phát huy do lối dạy học thụ động. Việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông Việt Nam hiện nay đòi hỏi HS phải có thái độ học tập tích cực; HS phải chú trọng học cách thu thập, xử lý và sử dụng thông tin từ nhiều nguồn khác nhau thì mới đáp ứng yêu cầu giáo dục-đào tạo của nhà trường. Do đó, GV trong quá trình dạy học không chỉ là người cung cấp thông tin mà quan trọng hơn, họ phải là người hướng dẫn HS biết cách tự mình thu thập, xử lý và sử dụng thông tin. GV ngày nay phải không ngừng tiếp cận, tìm tòi, lựa chọn và vận dụng các phương pháp dạy học sao cho có tác dụng tích cực hóa được hoạt động học tập của HS. 1.2.1.2. Học sinh hiện nay có vốn sống và năng lực nhận thức phát triển hơn so với HS ở các thế hệ trước (với cùng độ tuổi) Những kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học trong và ngoài nước đã cho thấy: so với HS cùng độ tuổi ở các thế hệ trước, HS phổ thông hiện nay có vốn hiểu biết, có năng lực nhận thức phát triển hơn, thông minh hơn. • Theo New sweek (4-2001), tại Anh từ năm 1945 đến nay chỉ số IQ đã tăng trung bình 27 điểm, Mỹ tăng 24 điểm so với năm 1918, Ác-hen-ti-na tăng 22 điểm từ năm 1964, chỉ số IQ cũng đã tăng đáng kể ở một loạt các nước khác như Tây âu, Canada, Nhật bản...Sự tăng trưởng cao của chỉ số IQ khiến thế hệ trẻ em bình thường ngày nay đã “sáng dạ” gần bằng mức của các bậc thiên tài ngày hôm qua. Sở dĩ có sự hơn hẳn này là do: - HS hiện nay thường xuyên được tiếp cận với nguồn thông tin đa dạng, phong phú từ các phương tiện truyền thông khác nhau. 17
  2. - HS hiện nay chịu ảnh hưởng tác động từ nhiều phía khác nhau của cuộc sống. - HS hiện nay đã và đang nhận được ngày càng nhiều những ảnh hưởng của giáo dục với hệ thống các phương pháp tích cực. Từ đó, trong quá trình dạy học cần phải: - Tìm hiểu khả năng nhận thức của HS để dạy học cho phù hợp. - Quan tâm khai thác vốn sống phong phú và đa dạng của các em bằng các biện pháp tích cực hóa tri thức của HS trong quá trình dạy học như cho HS liên hệ tri thức cơ bản với thực tiễn; thông báo tài liệu, thông tin mà các em tìm kiếm được... - Tạo điều kiện để HS có cơ hội phát huy tiềm năng vốn có của mình bằng việc tổ chức các hoạt động cho HS giải quyết những nhiệm vụ, những tình huống học tập. 1.2.1.3. Nhu cầu hiểu biết của HS có xu hướng vượt ra ngoài phạm vi nội dung tri thức, kỹ năng do chương trình quy định Trong quá trình học tập, nhu cầu hiểu biết của HS có xu hướng vượt ra khỏi phạm vi nội dung tri thức, kỹ năng do chương trình quy định. Xu hướng này thể hiện ở chỗ HS thường chưa thỏa mãn với hệ thống tri thức được cung cấp trong chương trình, sách giáo khoa và các tài liệu học tập khác được quy định. Các em luôn muốn biết nhiều hơn, hiểu sâu hơn những điều đã học và nhiều điều mới lạ khác của cuộc sống muôn màu muôn vẻ nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết và các nhu cầu cần thiết khác của bản thân. Để đáp ứng xu hướng trên: - Ngoài “phần cứng”, chương trình dạy học cần thiết kế các “phần mềm” trong các môn học. - Tăng cường môn học tự chọn. - Luôn cập nhật thông tin trong quá trình dạy học. - Hướng dẫn HS cách sưu tầm, xử lý, sử dụng tài liệu, thông tin để thực hiện các nhiệm vụ học tập. - Tổ chức các hoạt động ngoại khóa môn học, tham quan, học nhóm, tự học...nhằm phát huy tiềm năng và hứng thú của HS, tạo điều kiện cho HS kiểm nghiệm, mở mang vốn hiểu biết của mình, có khả năng thích ứng nhanh với cuộc sống sau này. 1.2.1.4. Quá trình dạy học hiện nay được tiến hành trong điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện dạy học ngày càng hiện đại Cùng với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ, các phương tiện kỹ thuật, máy móc xuất hiện ngày càng nhiều, ngày càng hiện đại. Sự phát triển đó thâm nhập và ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội; mọi loại hình, mọi ngành học, cấp học, trường lớp trong hệ thống giáo dục-đào tạo của mọi quốc gia làm chuyển biến chất lượng của cuộc sống, của giáo dục-đào tạo. Các trường học ở Việt Nam hiện nay đã và đang được quan tâm đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật theo hướng hiện đại nhằm phục vụ tích cực cho công cuộc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học. Với thực tế như vậy, nếu trình độ sử dụng các điều kiện, phương tiện dạy học của GV ở các trường hiện nay chưa tương xứng thì dẫn đến sự lãng phí hoặc làm giảm hiệu quả dạy 18
  3. học. Cho nên, GV cần tăng cường: - Tìm hiểu cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho dạy học của nhà trường, của địa phương. - Học cách sử dụng và không ngừng học hỏi kinh nghiệm sử dụng các cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật dạy học. - Tích cực sử dụng cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật dạy học sẵn có. - Tìm tòi, cải tiến và sáng tạo các điều kiện, phương tiện kỹ thuật dạy học để sử dụng chúng một cách có hiệu quả. 1.2.2. Khái niệm và cấu trúc của quá trình dạy học 1.2.2.1. Khái niệm ?. Quá trình dạy học là gì? Cho ví dụ. Có nhiều cách tiếp cận khái niệm của quá trình dạy học. Quan điểm của Vưgotxky L. X (1896-1934) và nhiều nhà giáo dục đương thời, dạy học là quá trình tương tác giữa hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS. Trong quá trình tương tác đó, GV là chủ thể của hoạt động dạy, HS là chủ thể của hoạt động học. Muốn dạy tốt, hoạt động dạy của GV chỉ nên giữ vai trò chủ đạo, hướng dẫn. Với vai trò này, GV một mặt phải lãnh đạo, tổ chức, điều khiển những tác động đến HS; mặt khác phải tiếp nhận và điều khiển, điều chỉnh tốt thông tin phản hồi về kết quả học tập thể hiện trong quá trình, trong sản phẩm hoạt động học tập của HS. Ngược lại, HS là đối tượng chịu sự tác động của hoạt động dạy đồng thời lại là chủ thể của hoạt động học. Muốn học tốt, HS phải tuân theo sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của GV, đồng thời phải chủ động, tích cực và sáng tạo trong hoạt động học tập của bản thân. Quá trình tương tác GV-HS nhằm giúp HS lĩnh hội hệ thống tri thức; hình thành hệ thống kỹ năng, kỹ xảo vận dụng tri thức; có khả năng vận dụng các thao tác trí tuệ để lĩnh hội và vận dụng tri thức có hiệu quả qua đó hình thành cho HS ý thức đúng đắn và những phẩm chất nhân cách của người công dân. Theo quan điểm này, dạy học có thể hiểu là quá trình hoạt động phối hợp giữa GV và HS; trong đó, hoạt động của GV đóng vai trò chủ đạo, hoạt động của HS đóng vai trò chủ động nhằm thực hiện mục đích dạy học. Trong quá trình dạy học, GV thực hiện hoạt động dạy, HS thực hiện hoạt động học. Hai hoạt động dạy-học được tiến hành phối hợp, tương tác (hay ăn khớp) với nhau. Mục đích cuối cùng của hoạt động này nhằm bồi dưỡng cho HS hệ thống tri thức, hiểu biết về mọi vấn đề diễn ra trong cuộc sống, hệ thống kỹ năng sống (kỹ năng hoạt động trí và lực) để thông qua đó hình thành cho HS quan điểm và thái độ đúng đắn đối với bản thân, đối với cuộc sống. 1.2.2.2. Cấu trúc của quá trình dạy học ?. Từ cấu trúc của quá trình giáo dục (đã học ở môn Giáo dục học đại cương), hãy vẽ và trình bày sơ đồ cấu trúc của quá trình dạy học. Cấu trúc của quá trình dạy học là cấu trúc-hệ thống. Cấu trúc của quá trình dạy học bao gồm một hệ thống các thành tố vận động và phát triển trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Theo cách tiếp cận truyền thống, các thành tố cơ bản trong cấu trúc của quá trình dạy học bao gồm: đối tượng của quá trình dạy học; chủ thể của quá trình dạy học; mục đích dạy học; nội dung dạy học; phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học; kết quả dạy 19
  4. học; môi trường dạy học. ?. Trình bày cấu trúc của quá trình dạy học theo quan điểm của Jean Vial. Xem xét mối quan hệ giữa học và dạy trong quá trình dạy học, Jean Vial (1986) đã cho rằng tế bào của quá trình dạy học là sự tác động qua lại giữa GV, HS và đối tượng (ĐT) mà GV cần nắm vững để dạy còn HS cần nắm vững để học. Do đó xuất hiện một tam giác thể hiện mối quan hệ giữa GV, HS và ĐT. Tam giác có ba đỉnh là GV, HS và ĐT (Hình 1 trang bên). Tam giác này thể hiện ba mối quan hệ cụ thể: 1: Quan hệ GV và ĐT (GV nắm vững tri thức và cách dạy) 2: Quan hệ HS và ĐT (HS nắm được cách học, cách chiếm lĩnh tri thức) 3: Quan hệ GV và HS (quan hệ sư phạm và cá nhân) (Hình 1). ĐT có thể là mục tiêu (M), nội dung (N) và phương pháp, phương tiện (P) dạy học. Đối tượng đó còn có thể được gọi là khách thể hay tri thức (M: HS nắm ĐT hay tri thức để làm gì? N: HS cần nắm ĐT hay tri thức cụ thể nào? P: phương pháp nắm ra sao?). Tế bào này được biểu thị bằng một tam giác, gọi là tam giác sư phạm với ba đỉnh là M,N và P (Hình 2). Nếu thay ĐT trong tam giác (Hình 1) bằng tam giác M-N-P sẽ có một ngũ giác gọi là ngũ giác sư phạm: M-N-P-GV-HS, đây là cốt lõi đặc trưng của quá trình dạy học. Sơ đồ này cho thấy đầy đủ quan hệ giữa một yếu tố với bốn yếu tố khác của ngũ giác sư phạm (NGSP) (Hình 3) NGSP này được đặt vào những điều kiện và môi trường khác nhau sẽ có những tác động và ảnh hưởng qua lại khác nhau giữa NGSP với điều kiện và môi trường tương ứng. Đồng thời trong bản thân NGSP cũng có những biến đổi của từng yếu tố tạo nên những hiệu quả khác nhau của ngũ giác sư phạm (Hình 4) dưới đây: 20
  5. 21
  6. Hình 4 Về điều kiện cho hoạt động của NGSP có thể kể: - Điều kiện về cơ sở vật chất-kỹ thuật như: trường sở, phòng thí nghiệm-thực hành, xưởng thực tập... - Điều kiện về thông tin bao gồm: thư viện, phòng máy tính, công nghệ thông tin... - Điều kiện về quản lý nhà trường như: quản lý hành chính, tài chính, học chính, quản lý nhân lực...và cơ chế điều hành bộ máy như luật lệ, nội quy, phân công, phân cấp... Về môi trường hoạt động của NGSP có thể kể: - Môi trường nhà trường: hoạt động giáo dục, nghiên cứu, phục vụ, quản lý... - Môi trường xã hội như: gia đình, cộng đồng, xã hội, kinh tế, văn hóa, sản xuất, kinh doanh, thiết kế, nghiên cứu, dịch vụ... - Môi trường quốc tế như: hợp tác, trao đổi... Ứng với mỗi môi trường có các hình thức học tập thích hợp như học tập trung hay không tập trung, học đối mặt thầy trò hay học từ xa, học theo lớp hay học cá nhân, học kiểu chính quy hay không chính quy... Tùy theo quan niệm về vai trò trung tâm của giáo dục là GV hay HS, tùy theo quan niệm trội về đối tượng cần nhấn mạnh là đào tạo theo nội dung (trước đại chiến thế giới lần thứ hai), đào tạo theo mục tiêu (vài thập kỷ gần đây) hay là chú trọng đặc biệt đến phương pháp, phương tiện (đang xuất hiện xu thế này) mà tam giác sư phạm, ngũ giác sư phạm có kiểu hoạt động khác nhau, thể hiện chủ yếu vào mối quan hệ giữa các đỉnh. Vận dụng thành tựu của các khoa học hiện đại vào quá trình dạy học nhằm giúp quá trình dạy học đạt hiệu quả tối ưu, còn nhiều cách tiếp cận cấu trúc quá trình dạy học khác nhau. (Ví dụ: cấu trúc của quá trình dạy học theo Công nghệ dạy học của Lê Khánh Bằng, cấu trúc của quá trình dạy học theo Lý thuyết thông tin của Nguyễn Ngọc Quang...). ?. Từ lý luận về cấu trúc của quá trình dạy học có thể rút ra bài học kinh nghiệm gì nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quá trình dạy học? Tuy nhiên, dù được xem xét dưới góc độ nào thì điểm chung trong các cách tiếp cận cấu trúc quá trình dạy học cũng vẫn là: cấu trúc của quá trình dạy học là cấu trúc-hệ thống. 22
  7. Cấu trúc của quá trình dạy học bao gồm một hệ thống các thành tố (trong đó, bản thân mỗi thành tố lại là một cấu trúc-hệ thống bao gồm các yếu tố) vận động, phát triển trong mối quan hệ biện chứng và thống nhất với nhau tạo nên sự vận động, phát triển chung của cả quá trình dạy học. Trong cấu trúc đó, GV và HS là hai thành tố trung tâm, còn mục đích dạy học là thành tố định hướng. Kết quả dạy học là kết quả phát triển của toàn bộ hệ thống. Do đó, muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình dạy học phải nâng cao chất lượng của toàn bộ hệ thống; nghiên cứu quá trình dạy học phải nghiên cứu toàn diện (nghiên cứu tất cả các thành tố) và luôn luôn đặt vấn đề nghiên cứu (ví dụ nghiên cứu về phương pháp dạy học) trong cấu trúc-hệ thống này để xem xét và giải quyết. 1.2.3. Bản chất của quá trình dạy học 1.2.3.1. Cơ sở xác định bản chất của quá trình dạy học Bản chất của quá trình dạy học được xác định dựa vào hai mối quan hệ cơ bản: - Mối quan hệ giữa hoạt động nhận thức có tính chất lịch sử xã hội loài người (thể hiện ở hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa học) với hoạt động dạy học Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội, hoạt động nhận thức có trước, hoạt động dạy học có sau. Hoạt động học tập của HS chính là hoạt động nhận thức được HS tiến hành trong môi trường dạy học (môi trường sư phạm). - Mối quan hệ giữa dạy và học, giữa GV và HS Quá trình dạy học là quá trình tác động qua lại giữa GV và HS. Xét cho cùng, mọi tác động của GV đến HS đều nhằm điều khiển có hiệu quả mối quan hệ giữa HS và tài liệu học tập (TLHT). TLHT trình bày những thông tin phản ánh hiện thực khách quan được chọn lọc. Do đó, điều khiển mối quan hệ HS-TLHT cũng tức là điều khiển hoạt động nhận thức TLHT của HS. Kết quả dạy học phản ánh tập trung ở kết quả nhận thức TLHT của HS. Cho nên bản chất của quá trình dạy học được xác định trong hoạt động học tập của HS 1.2.3.2. Bản chất của quá trình dạy học ?. Hãy phân tích và so sánh những điểm giống, khác nhau giữa quá trình nhận thức có tính lịch sử xã hội và quá trình học tập của HS; từ đó rút ra bản chất của quá trình dạy học. a. Phân tích, so sánh hoạt động nhận thức có tính lịch sử xã hội của loài người và hoạt động học tập của HS cho thấy về cơ bản hai hoạt động này giống nhau: - Giống nhau về đối tượng: đối tượng hoạt động nhận thức có tính xã hội của loài người và đối tượng hoạt động học tập của HS đều là các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà con người nói chung, người học nói riêng muốn tìm hiểu, khám phá. - Giống nhau về phương thức: cách thức hoạt động nhận thức có tính xã hội của loài người và cách thức học tập của HS đều là quá trình vận dụng các thao tác trí tuệ một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, đều tuân theo quy luật (hay logic): từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan. Quy luật này có thể vận hành theo hai con đường biện chứng: con đường đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng hoặc từ cái đơn nhất (cái riêng) đến cái khái quát (cái chung) và con đường đi từ cái trừu tượng đến cái cụ thể hoặc từ cái khái quát (cái chung) đến cái đơn nhất (cái riêng). - Giống nhau về mục đích cần đạt: cả hai hoạt động đều nhằm tăng cường hiểu biết thế giới xung quanh để tồn tại có chất lượng trong thế giới đó. 23
  8. Sự giống nhau giữa hoạt động nhận thức của loài người và hoạt động học tập của HS được thể hiện qua bảng so sánh dưới đây: 24
  9. Qua phân tích, so sánh trên cho thấy: hoạt động học tập của HS thực chất là hoạt động nhận thức (do đó, hoạt động giảng dạy của GV thực chất là tổ chức hoạt động nhận thức). b. Tuy nhiên, quá trình nhận thức của HS vẫn có những điểm khác với quá trình nhận thức của loài người. Những nét đặc trưng của sự khác nhau này được thể hiện qua bảng so sánh giữa hoạt động nhận thức có tính lịch sử xã hội của loài người và hoạt động nhận thức của HS dưới đây: Hoạt động nhận thức của loài người Hoạt động nhận thức của HS 1. Mục đích: Phát hiện cái mới (chân lý) 1. Mục đích: Phát hiện cái mới (chân lý) khách quan (cái mới đối với cả nhân loại). chủ quan (chỉ mới đối với bản thân HS đó). 2. Con đường gập ghềnh đầy khó khăn, vất 2. Con đường tương đối bằng phẳng và mất vả, tốn nhiều thời gian và công sức hơn. Con ít thời gian, công sức hơn. Con đường đã đường chưa được khai phá. được khai phá. 3. Con đường tự mình mò mẫm. Con đường 3. Con đường có sự hướng dẫn của GV, con thử và sai. đường nằm trong môi trường sư phạm. Sự khác nhau đó làm nên tính độc đáo trong nhận thức của HS. Tính bản chất này thể hiện mối quan hệ tương tác giữa HS và môi trường sư phạm nói chung, quan hệ tương tác giữa HS và GV nói riêng trong quá trình dạy học. Như vậy, bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của HS. ?. Từ lý luận về bản chất của quá trình dạy học hãy: - Lấy ví dụ trong thực tiễn dạy học môn học để chứng minh. - Rút ra bài học sư phạm cần thiết. Qua phân tích và chứng minh bản chất của quá trình dạy học rút ra: 25
  10. - Thứ nhất, trong dạy học GV phải ý thức được trách nhiệm của mình là giúp HS nhận thức, tức là giúp các em tìm tòi, khám phá ra những điều mới lạ trong cuộc sống để làm giàu thêm vốn hiểu biết của mình. Cho nên, quá trình hướng dẫn HS học tập phải tuân theo con đường nhận thức chung của nhân loại. Trong đó, cần: + Coi trọng việc hướng dẫn HS tích lũy tri thức từ nhiều nguồn thông tin khác nhau. + Tổ chức cho các em thực hành tri thức đã học. + Hướng dẫn HS tích cực vận dụng các thao tác trí tuệ từ thấp đến cao trong quá trình tích lũy và vận dụng tri thức. + Bồi dưỡng cho các em khả năng tự học, tự nghiên cứu và những phẩm chất cần thiết của nhà nghiên cứu. Dạy cũng như học cần tuân thủ quy luật nhận thức. Muốn vậy, cả GV lẫn HS (nhất là GV) cần nghiên cứu nắm vững hệ thống lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác để vận dụng tốt trong hoạt động dạy học của mình. - Thứ hai, muốn giúp HS nhận thức tốt tài liệu học tập thì GV cần phải biết tạo ra môi trường sư phạm thuận lợi cho HS học tập và phấn đấu. Đó là môi trường có tác dụng kích thích HS học tập một cách chủ động, tích cực và sáng tạo. Trong đó cần tổ chức, điều khiển tốt mối quan hệ chủ đạo-chủ động của GV và HS. 1.2.4. Động lực của quá trình dạy học ?. Động lực của quá trình dạy học là gì? Cho ví dụ. ?. Động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình dạy học vận động và phát triển là gì? Cho ví dụ. ?. Điều kiện nào giúp cho việc giải quyết mâu thuẫn trở thành động lực của quá trình dạy học? Cho ví dụ. ?. Từ lý luận này hãy rút ra những bài học sư phạm cần thiết. 1.2.4.1. Khái quát về sự vận động, phát triển của quá trình dạy học Quá trình dạy học với tư cách là một hệ thống luôn luôn ở trạng thái vận động và phát triển không ngừng. Các thành tố trong cấu trúc của quá trình dạy học vận động và phát triển trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo nên sự vận động và phát triển chung của cả quá trình dạy học. Sự vận động và phát triển này diễn ra nhờ tác động của những động lực nhất định. 1.2.4.2. Động lực của quá trình dạy học Theo triết học duy vật biện chứng, mọi sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan đều không ngừng vận động và phát triển. Nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển này là do có sự đấu tranh để đi đến thống nhất giữa các mặt đối lập, tức là do có mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn bao gồm: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong là nguồn gốc của sự phát triển và việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện của sự phát triển. - Vận dụng quan điểm đó để xem xét động lực của quá trình dạy học, có thể nói: động lực của quá trình dạy học là việc phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình dạy học. Các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình dạy học bao gồm mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: 26
  11. + Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các thành tố trong cấu trúc của quá trình dạy học và giữa các yếu tố trong từng thành tố. Ví dụ: Mâu thuẫn giữa mục đích, nhiệm vụ dạy học được hoàn thiện, nâng cao với nội dung dạy học còn lạc hậu. Mâu thuẫn giữa nội dung dạy học hiện đại với phương pháp, phương tiện dạy học còn lạc hậu. Mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ mà xã hội đề ra cho người HS với trình độ nhận thức còn hạn chế của các em. Mâu thuẫn giữa trình độ về chuyên môn của GV thì cao với trình độ nghiệp vụ sư phạm của họ thì thấp. Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo với yêu cầu thấp về giáo dục... + Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các thành tố trong cấu trúc của quá trình dạy học với thành tố môi trường. Ví dụ: Mâu thuẫn giữa sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật với nội dung dạy học còn lạc hậu. Mâu thuẫn giữa cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật của nhà trường còn nghèo nàn với yêu cầu cao về dạy học... Việc giải quyết các mâu thuẫn bên trong là nguồn gốc và việc giải quyết các mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện phát triển của quá trình dạy học. - Mâu thuẫn cơ bản, động lực chủ yếu của quá trình dạy học Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn tồn tại suốt từ đầu đến cuối quá trình. Việc giải quyết các mâu thuẫn khác xét cho cùng là để giải quyết mâu thuẫn này. Việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản có liên quan trực tiếp và sâu sắc đến sự phát triển của quá trình dạy học. Mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ được đề ra trong quá trình dạy học với trình độ phát triển hiện có còn hạn chế của HS về tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phát triển trí tuệ (đây là mâu thuẫn giữa mục đích, nhiệm vụ HS cần thực hiện với khả năng thực hiện của HS tức là mâu thuẫn giữa hai thành tố MĐDH và HS trong cấu trúc của quá trình dạy học). • GV gọi trò S đọc bài khoá tiếng Anh (trò S học kém môn tiếng Anh và nhiều môn học khác). Trò S đứng lên ngập ngừng mãi mà không đọc được. Trong tình huống dạy học trên chứa đựng mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa yêu cầu học tập được đề ra cho trò S (cần đọc được bài khoá tiếng Anh), với khả năng của S (chưa đọc được bài khóa tiếng Anh). Loại mâu thuẫn này xuất hiện thường xuyên, liên tục trong quá trình dạy học. Việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn này tạo nên động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình dạy học vận động và phát triển. Khi gặp khó khăn trong dạy học đó là lúc mâu thuẫn xuất hiện. Khó khăn có được giải quyết thì quá trình dạy học mới phát triển. Tuy nhiên, không phải việc giải quyết mâu thuẫn 27
  12. nào cũng tạo nên động lực thúc đẩy quá trình dạy học. Muốn việc giải quyết mâu thuẫn tạo nên động lực của quá trình dạy học cần có các điều kiện. - Điều kiện để việc giải quyết mâu thuẫn trở thành động lực Mâu thuẫn trong dạy học là một tất yếu khách quan. Điều quan trọng ở đây là chủ thể có phát hiện ra mâu thuẫn không và chủ thể giải quyết mâu thuẫn đó ra sao. Dưới đây là các điều kiện cần để việc giải quyết mâu thuẫn tạo nên động lực thúc đẩy quá trình dạy học: + Điều kiện thứ nhất: chủ thể dạy-học (GV, HS...) phải nhận thức rõ khó khăn mà mình đang gặp, vì sao có khó khăn đó; chủ thể phải có nhu cầu giải quyết khó khăn và tự mình giải quyết khó khăn. Để tạo nên điều kiện này, trong dạy học, GV cần bồi dưỡng cho HS khả năng: Phát hiện ra khó khăn mà các em gặp phải và thấy được sự cần thiết phải giải quyết khó khăn. Phân tích khó khăn và tìm hiểu nguyên nhân vì sao mình gặp khó khăn. Đề xuất các phương án giải quyết khó khăn và lựa chọn phương án giải quyết tối ưu. Huy động nội lực (hoặc sự trợ giúp của ngoại lực) để giải quyết khó khăn theo phương án đã đề xuất. Kiểm tra, đánh giá nhằm điều khiển, điều chỉnh quá trình giải quyết khó khăn. Rút ra bài học kinh nghiệm từ việc giải quyết khó khăn. • Trong tình huống trên, trò S phải ý thức (hoặc làm cho S ý thức) được rằng em đang gặp khó khăn trong việc đọc thành lời bài khóa tiếng Anh (chưa có kỹ năng đọc tiếng Anh); rằng kỹ năng đọc tiếng Anh là cần thiết (không chỉ trong học tập môn tiếng Anh hiện tại mà còn trong cuộc sống nghề nghiệp sau này). S phải tự xem xét lại việc học tiếng Anh của mình để tìm ra nguyên nhân khiến em chưa có kỹ năng đọc tiếng Anh. S phải mong muốn có sự tiến bộ trong việc đọc tiếng Anh, tìm hiểu cách thức khắc phục khó khăn và S tự khắc phục được (hoặc có sự kích thích, giúp đỡ nào đó của GV, bạn bè...) khó khăn. Khó khăn chỉ được giải quyết khi S đọc được bài khóa tiếng Anh theo yêu cầu. Dạy học giải quyết tình huống có vấn đề, dạy học tình huống...là những biện pháp tốt để tạo cho HS khả năng này. + Điều kiện thứ hai: việc giải quyết mâu thuẫn phải vừa sức. Điều kiện này có thể hiểu là những yêu cầu, nhiệm vụ dạy học đề ra để HS giải quyết khó khăn phải tương ứng với giới hạn cao nhất của vùng phát triển trí tuệ gần nhất (Vưgotxky L.X 1896-1934). Điều đó có nghĩa là HS có thể giải quyết được khó khăn với sự nỗ lực tích cực của bản thân và có sự kích thích, giúp đỡ của người khác (GV, bạn bè...). Với sự có gắng của bản thân, khi khó khăn được giải quyết sẽ khiến HS vui sướng, tự hào, tự tin...Chính những yếu tố tâm lý tích cực này sẽ khiến HS mong muốn tiếp tục được thực hiện những nhiệm vụ học tập tiếp theo. + Điều kiện thứ ba: việc giải quyết mâu thuẫn phải do tiến trình dạy học đó qui định. Mâu thuẫn diễn ra trong tiến trình dạy học nào thì phải được chính tiến trình dạy học đó giải quyết. • Ở tình huống trên, việc đọc bài khóa tiếng Anh của trò S chỉ tiến bộ trong quá trình 28
  13. học môn tiếng Anh nói chung và học đọc tiếng Anh nói riêng của trò S. 1.2.5. Logic của quá trình dạy học ?. Để đạt hiệu quả tối ưu, tiến trình dạy học diễn ra qua các bước nào? Lấy ví dụ cụ thể về logic của một quá trình dạy học môn học để minh họa. 1.2.5.1. Khái niệm về logic của quá trình dạy học Theo Êxipôp B. P (1977), logic của quá trình dạy học là quy luật khách quan diễn tả trình tự vận động có hiệu quả tối ưu của HS từ trình độ tri thức và mức độ phát triển của họ ứng với lúc ban đầu nghiên cứu môn học (hay một đề mục, một đề tài của môn học) nào đó, đến trình độ tri thức và mức độ phát triển của họ ứng với lúc kết thúc môn học (hay một đề mục, một đề tài của môn học) đó. Quá trình dạy học suy cho cùng là để giúp HS nhận thức TLHT (hay môn học). Cho nên, phải quan tâm đến loại logic trong hệ thống HS-TLHT. Logic này bao gồm logic môn học và logic nhận thức của HS. Một mặt, quá trình dạy học phải vận động theo logic của môn học. Quá trình dạy học phải vận động theo logic môn học tức là GV phải tổ chức, điều khiển quá trình dạy học để nó vận động theo hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đã được xây dựng trong môn học. Mặt khác, quá trình dạy học lại phải vận động theo logic nhận thức của HS, tức phù hợp với quá trình nhận thức của HS. Logic của quá trình dạy học là hợp kim của logic môn học và logic nhận thức của HS. Quá trình dạy học vận động theo từng bước từ lúc bắt đầu cho đến lúc hoàn thành nhiệm vụ, mỗi bước có thể coi là một khâu. 1.2.5.2. Các khâu của quá trình dạy học Có nhiều cách tiếp cận logic của quá trình dạy học. - Theo Êxipôp B. P (1977), các khâu của quá trình dạy học bao gồm: đề xuất và gây ý thức về nhiệm vụ nhận thức, làm nấy nở ở HS những kích thích thúc đẩy học tập; HS tri giác tài liệu mới từ những nguồn khác nhau, tiếp thu những tri thức mới, cách giải quyết các vấn đề trong quá trình làm việc tự lực; khái quát hóa và hình thành các khái niệm khoa học, lĩnh hội các quy luật khoa học...; củng cố và hoàn thiện kiến thức, luyện tập, làm các bài thực hành và thí nghiệm nhằm luyện cho HS kỹ năng, kỹ xảo; ứng dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; phân tích các thành quả của HS và kiểm tra sự lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của HS. - Phân tích quá trình học tập của HS, Marzano R J (1992) đã đưa ra năm khía cạnh học tập: thái độ và sự nhận thức tích cực về học tập; tiếp thu và tổng hợp kiến thức; mở rộng và trau dồi kiến thức; sử dụng kiến thức có hiệu quả; thói quen trí tuệ có hiệu quả. - Các nhà lý luận dạy học ở nước ta lâu nay đã đề cập đến các khâu của quá trình dạy học, từ đó xây dựng tiến trình của một bài học trên lớp (năm bước lên lớp), bao gồm: kích thích thái độ học tập tích cực của HS; tổ chức điều khiển HS nắm tri thức mới; tổ chức, điều khiển HS củng cố tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; tổ chức, điều khiển HS rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo; tổ chức, điều khiển HS vận dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; tổ chức, điều khiển việc kiểm tra, đánh giá mức độ nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của HS đồng thời tổ chức cho các em tự kiểm tra, đánh giá mức độ nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của bản thân. 29
  14. Những điểm chung trong các cách xây dựng logic của quá trình dạy học đó là: muốn học tập có hiệu quả, HS cần có thái độ học tập tích cực; cần tiến hành hoạt động nhận thức để có sự hiểu biết; nhập tri thức hiểu biết vào hệ thống kinh nghiệm đã có của mình và sử dụng chúng một cách hiệu quả. Tổng hợp từ các nghiên cứu trên, có thể khái quát các khâu của quá trình dạy học bao gồm 5 bước: kích thích thái độ học tập tích cực của HS; tổ chức điều khiển HS nắm tri thức mới; tổ chức, điều khiển HS củng cố, mở rộng và hệ thống hóa tri thức; tổ chức, điều khiển HS áp dụng tri thức để hình thành kỹ năng, kỹ xảo và sử dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hiệu quả; tổ chức, điều khiển và tự tổ chức điều khiển việc kiểm tra, đánh giá quá trình lĩnh hội, sử dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của HS. 1). Kích thích thái độ học tập tích cực của HS Thái độ tích cực trong học tập là sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý (sự chú ý; nhu cầu, hứng thú học tập; các phẩm chất đạo đức; các phẩm chất trí tuệ; các phẩm chất thể chất...) để giúp cho việc học tập đạt hiệu quả. Thái độ học tập tích cực thể hiện đặc trưng ở sự chú ý và nhất là ở hứng thú của HS đối với việc học. Cho nên, kích thích HS tích cực học tập tức là kích thích sự chú ý của HS, làm cho các em có hứng thú với việc học; làm cho các em ý thức được học tập là nhu cầu, là niềm vui và cũng là trách nhiệm của người HS. Từ đó các em sẽ chủ động, tích cực, chuyên cần học tập, biết tìm cách khắc phục khó khăn để học tập tốt. Thái độ học tập tích cực của HS được coi là điều kiện, động lực thúc đẩy quá trình học tập. Từ nghiên cứu cấu trúc của quá trình dạy học, các nhà tâm lý, giáo dục học cho rằng các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ học tập tích cực của HS bao gồm: môi trường học tập; yêu cầu, nhiệm vụ học tập; nội dung học tập; GV đặc biệt là phương pháp dạy học của GV và từ chính bản thân HS. - Yếu tố thuộc môi trường học tập: môi trường tâm lý-xã hội (quan hệ GV-HS, HS- HS, HS và các đối tượng khác có liên quan); môi trường tự nhiên-xã hội (các yếu tố sinh thái, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, kế hoạch và chương trình học tập...). - Yếu tố yêu cầu, nhiệm vụ học tập: các yêu cầu, nhiệm vụ được đề ra trong học tập. - Yếu tố nội dung học tập: nội dung được đưa ra cho HS học. - Yếu tố GV: phẩm chất nhân cách, trình độ hiểu biết (nhất là trình độ chuyên môn) và phương pháp dạy học của GV. - Yếu tố HS: nhân cách được giáo dục toàn diện của HS. Kích thích thái độ học tập tích cực của HS là quá trình điều khiển, điều chỉnh tất cả các yếu tố tác động trên nhằm tạo nên thái độ tích cực của HS trong học tập. Biện pháp: - Các biện pháp nhằm xây dựng môi trường học tập thuận lợi (biện pháp tác động bên ngoài) bao gồm: + Các biện pháp thể hiện sự quan tâm của GV đối với HS, sự quan tâm của các em với nhau làm cho các em có cảm giác được quan tâm, chấp nhận. + Các biện pháp điều khiển, điều chỉnh các yếu tố sinh học (nhiệt độ, ánh sáng...), kế hoạch, chương trình làm việc...thuận lợi nhằm tạo tâm lý thoải mái, tiện lợi và cảm giác an toàn cho HS trong học tập. 30
  15. - Các biện pháp kích thích giá trị của yêu cầu, nhiệm vụ học tập bao gồm: + Làm cho HS ý thức được giá trị của nhiệm vụ học tập. + Làm cho HS hình dung rõ ràng được yêu cầu, nhiệm vụ cần thực hiện. + Cung cấp các điều kiện thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ; làm cho HS tin tưởng vào khả năng thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ của bản thân và khuyến khích sự cố gắng của các em. - Xây dựng và khai thác giá trị tác động của yếu tố nội dung dạy học. - Sự mẫu mực của GV cũng là sức thu hút đối với HS. Trong đó phải kể đến trình độ của GV và đặc biệt là khả năng sử dụng các phương pháp dạy học: + Sử dụng phối hợp, hợp lý các phương pháp dạy học. + Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực và phương tiện dạy học hiện đại... - Chăm lo đến các biện pháp giáo dục nhân cách toàn diện cho HS nhằm tạo động lực thúc đẩy bên trong cho quá trình học tập: + Bồi dưỡng những phẩm chất nhân cách cần thiết cho sự học như ý thức trách nhiệm, tinh thần hợp tác, cầu tiến... trong học tập. + Đặc biệt cần hình thành và bồi dưỡng cho HS các phẩm chất trí tuệ để giúp HS có thói quen tư duy một cách có hiệu quả. Kích thích thái độ học tập tích cực cho HS là trách nhiệm của cả GV và HS. Trong đó, việc HS tự kích thích bằng nhân cách được giáo dục của mình đóng vai trò quyết định trực tiếp; sự giúp đỡ của GV đóng vai trò chủ đạo. Cần duy trì thái độ học tập tích cực của HS trong suốt quá trình dạy học. 2). Tổ chức điều khiển HS nắm tri thức mới Việc tổ chức điều khiển HS nắm tri thức mới được bắt đầu từ chỗ: + Kích thích HS huy động các tri thức, kinh nghiệm có liên quan đã biết làm cơ sở cho việc nắm tri thức mới. + Tổ chức, điều khiển HS thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu với các biện pháp khai thác thông tin từ các nguồn như: từ nội dung bài giảng phong phú, hấp dẫn, lời nói sinh động, giàu hình tượng, dễ hiểu của GV; từ việc sử dụng đúng các phương tiện trực quan, hướng dẫn HS quan sát đúng; từ các nguồn tài liệu thu được qua các phương tiện thông tin đại chúng hay từ việc khai thác kinh nghiệm sống của HS... + Trên cơ sở những thông tin (tài liệu cảm tính) mà HS có được, tố chức, điều khiển HS vận dụng các thao tác tư duy để hình thành khái niệm, phán đoán và suy luận. Quá trình đó được tiến hành với các biện pháp giúp HS biết huy động những kinh nghiệm đã có, những tài liệu cảm tính làm nguyên liệu cho nhận thức lý tính; giúp HS thực hiện các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh...qua các câu hỏi, các bài tập có vấn đề... 3). Tổ chức, điều khiển HS củng cố, mở rộng và hệ thống hoá tri thức Trong một thời gian ngắn của tiết học trên lớp, HS không thể nắm chắc tài liệu học tập để biến tri thức thành kinh nghiệm của bản thân; HS cũng chưa thể thỏa mãn được nhu cầu hiểu biết của mình. Cho nên, phải hướng dẫn HS: + Biết cách học lý thuyết của bài học trên lớp. 31
  16. + Biết cách thu thập, xử lý thông tin có liên quan đến bài học trên lớp từ nhiều nguồn khác nhau để nắm vững, mở rộng, phát triển tri thức đã học. + Biết cách hệ thống hóa tri thức học được, đưa tri thức mới tiếp thu vào hệ thống những kinh nghiệm vốn có của mình. + Biết cách ghi nhớ, nhất là ghi nhớ có chủ định, có ý nghĩa. + Biết cách ôn tập, ôn tập thường xuyên, liên tục và bằng nhiều cách. 4). Tổ chức, điều khiển HS luyện tập kỹ năng, kỹ xảo và sử dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hiệu quả Khâu này nhằm luyện tập cho HS khả năng vận dụng tri thức (luyện kỹ năng, kỹ xảo) và bồi dưỡng cho HS khả năng sử dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đã có để giải quyết các vấn đề diễn ra trong học tập và trong cuộc sống một cách sáng tạo (khả năng sử dụng tri thức có hiệu quả). Luyện tập và bồi dưỡng bằng cách giao, hướng dẫn cho HS tự: + Giải quyết các bài tập, các nhiệm vụ học tập với các loại, các mức độ dễ, khó khác nhau. + Làm thí nghiệm, thực nghiệm. + Giải quyết các vấn đề, các tình huống xảy ra trong cuộc sống. + Sử dụng tri thức để tổ chức hoạt động lao động một cách khoa học. + Sử dụng tri thức trong hoạt động đấu tranh chính trị xã hội để góp phần cải tạo và xây dựng xã hội tốt đẹp. Khi tổ chức luyện tập kỹ năng, kỹ xảo và sử dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần tuân thủ các nguyên tắc luyện tập: luyện tập có mục đích, có kế hoạch; luyện tập một cách có hệ thống; luyện tập từ thấp đến cao; luyện tập có cơ sở khoa học... 5). Tổ chức, điều khiển và tự tổ chức điều khiển việc kiểm tra, đánh giá quá trình lĩnh hội, sử dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của HS Khâu này nhằm đảm bảo các mối liên hệ xuôi, ngược diễn ra trong quá trình dạy học qua đó giúp cho GV có cơ sở để điều khiển, điều chỉnh quá trình dạy học; HS tự điều khiển, điều chỉnh quá trình học tập của mình. Khi tổ chức thực hiện khâu này cần tuân thủ đúng các nguyên tắc cũng như các chức năng của việc kiểm tra, đánh giá. Quan trọng hơn là bồi dưỡng cho HS ý thức và năng lực tự kiểm tra, đánh giá kết quả nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của bản thân. Logic của quá trình dạy học được thể hiện qua sơ đồ logic của quá trình dạy học dưới đây: 32


Page 2

YOMEDIA

So với những năm trước đây, quá trình dạy học hiện nay có những đặc điểm gì? Những đặc điểm đó được thể hiện ở nhà trường Việt Nam ra sao? ? Với tư cách là SV, là người GV trong tương lai, có thể rút ra những bài học cần thiết nào cho bản thân từ các đặc điểm đó? Quá trình dạy học hiện nay có các đặc điểm cơ bản sau: Hoạt động học tập của HS được tích cực hóa trên cơ sở nội dung dạy học ngày càng được hiện đại hóa Thời đại hiện...

02-12-2010 3163 316

Download

Đặc điểm của nội dung dạy học tiểu học

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.