Đặc Trung của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản là gì

Đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc Nhật là gì?

A. Chủ nghĩa đế quốc cho vay lãi.

B. Chủ nghĩa đế quốc phong kiến quân phiệt.

Đáp án chính xác

C. Chủ nghĩa đế quốc thực dân.

D. Chủ nghĩa đế quốc quân phiệt hiếu chiến.

Xem lời giải

I. Nhật Bản

1. Tình hình nước Nhật trước cải cách

- Đầu thế kỉ XIX chế độ Mạc phủ ở Nhật Bản đứng đầu là Tướng quân [Sô-gun] làm vào khủng hoảng suy yếu.

* Kinh tế:

- Nông nghiệp lạc hậu, tô thuế nặng nề, mất mùa đói kém thường xuyên.

- Công nghiệp: kinh tế hàng hóa phát triển, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều, kinh tế tư bản phát triển nhanh chóng.

* Xã hội:nổi lên mâu thuẫn giữa nông dân, tư sản thị dân với chế độ phong kiến lạc hậu.

* Chính trị:Nổi lên mâu thuẫn giữa Thiên hoàng và Tướng quân.

- Giữa lúc Nhật Bản khủng hoảng suy yếu, các nước tư bản Âu - Mĩ tìm cách xâm nhập.

+ Đi đầu là Mĩ dùng vũ lực buộc Nhật Bản “mở cửa” sau đó Anh, Pháp, Nga, Đức cũng ép Nhật ký các Hiệp ước bất bình đẳng.

+ Trước nguy cơ bị xâm lược Nhật Bản phải lựa chọn một trong hai con đường là: bảo thủ duy trì chế độ phong kiến lạc hậu, hoặc là cải cách.

2. Nội dung cuộc Duy tân Minh Trị

- Đầu năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị đã tiến hànhmột loạt cải cách tiến bộ, trên tất cả các mặt:

* Về kinh tế:

- Thống nhất tiền tệ.

- Xóa bỏ sự độc quyền ruộng đất của giai cấp phong kiến.

- Tăng cường phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá, cầu cống ... phục vụ giao thông liên lạc.

* Về chính trị, xã hội:

- Chế độ nông nô được bãi bỏ, đưa quý tộc tư sản hóa và đại tư sản lên nắm Chính quyền.

- Thi hành chính sách giáo dục bắt buộc, chú trọng nội dung khoa học - kĩ thuật trong chương trình giảng dạy.

- Cử những học sinh ưu tú đi du học ở phương Tây.

* Về quân sự:

- Quân đội được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây.

- Chế độ nghĩa vụ thay cho chế độ trưng binh.

- Công nghiệp đóng tàu, sản xuất vũ khí được chú trọng...

=> Đến cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Nhật Bản thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa, phát triển thành một nước tư bản công nghiệp.

3. Nhật Bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc

- Kinh tế:Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Nhật Bản dẫn tới sự ra đời các công ti độc quyền như Mít-xưi, Mít-su-bi-si... lũng đoạn và chi phối toàn bộ nền kinh tế, chính trị Nhật Bản.

- Đối nội:thực hiện chính sách bóc lột tối đa đối với nhân dân.

- Đối ngoại: Thi hành chính sách xâm lược hiếu chiến bằng việc phát động hàng loạt cuộc chiến tranh: Đài Loan, Trung Quốc, Nga, Triều Tiên... => Nhật Bản trở thành nước “đế quốc phong kiến quân phiệt”.

4. Cuộc đấu tranh của nhân dân lao động Nhật Bản

- Nhân dân lao động Nhật Bản bị bóc lột nặng nề. Công nhân phải làm việc từ 12 giờ đến 14 giờ một ngày với mức lương thấp.

- Phong trào công nhân đã có những bước tiến mới: Các tổ chức công đoàn ra đời, Ca-tai-a-ma Xen truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin vào Nhật Bản và thành lập Đảng Xã hội dân chủ năm 1901.

- Từ năm 1906, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ hơn. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân khác cũng đươc đẩy mạnh.

Đế quốc Nhật có đặc điểm


Câu 70560 Vận dụng

Đế quốc Nhật có đặc điểm


Đáp án đúng: d

Phương pháp giải

Phân tích, so sánh đặc điểm chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản với các nước đế quốc khác cùng thời kì.

Nhật Bản --- Xem chi tiết
...

Chủ nghĩa đế quốc Nhật là gì?

– Đế quốc Nhật Bản hay còn được gọi là Đại Nhật Bản Đế Quốc là một nhà nước lịch sử của Nhật Bản tồn tại từ cuộc cách mạng Minh Trị năm 1868 cho đến khi Hiến pháp Nhật Bản được ban hành năm 1947.

– Quá trình công nghiệp hóa và quân phiệt hóa nhanh chóng dưới khẩu hiệu phú quốc cường binh đã giúp Nhật Bản nổi lên như một cường quốc và kèm theo đó là sự thành lập của một đế quốc thực dân.

Mục lục

Bối cảnh và Danh hiệuSửa đổi



Lịch sử Nhật Bản
Tiền sử
Thời kỳ đồ đá cũ ~15000 TCN
Thời kỳ Jōmon [Thằng Văn] ~15000 TCN–300 TCN
Thời kỳ Yayoi [Di Sinh] tk 4 TCN–tk 3
Cổ đại
Thời kỳ Kofun [Cổ Phần] tk 3–tk 7
Thời kỳ Asuka [Phi Điểu] 592–710
Thời kỳ Nara [Nại Lương] 710–794
Thời kỳ Heian [Bình An] 794–1185
Phong kiến
Thời kỳ Kamakura [Liêm Thương] 1185–1333
Tân chính Kemmu [Kiến Vũ] 1333–1336
Thời kỳ Muromachi [Thất Đinh] 1336–1573
  Thời kỳ Nam-Bắc triều 1336–1392
  Thời kỳ Chiến Quốc 1467–1590
Thời kỳ Azuchi-Momoyama [An Thổ-Đào Sơn] 1573–1603
Thời kỳ Edo/Tokugawa [Giang Hộ/Đức Xuyên]1603–1868
Hiện đại
Thời kỳ Minh Trị [Meiji] 1868–1912
Thời kỳ Đại Chính [Taishō] 1912-1926
Thời kỳ Chiêu Hòa [Shōwa] 1926–1989
  Thời kỳ bị chiếm đóng 1945-1952
Thời kỳ Bình Thành [Heisei] 1989–2019
Thời kỳ Lệnh Hòa [Reiwa] 2019–nay
Xem thêm
Thiên hoàng • Niên biểu • Đế quốc Nhật Bản
Kinh tế • Giáo dục • Quân sự • Hải quân
  • x
  • t
  • s
Cờ chính thức của Đế quốc Nhật Bản
Cờ Hải quân Đế quốc Nhật Bản

Khoảng thời gian trong lịch sử bao gồm các thời kỳ Minh Trị, Đại Chính và Chiêu Hòa. Những thiên hoàng trong giai đoạn này gồm có Thiên hoàng Minh Trị [húy Mutsuhito], Thiên hoàng Đại Chính [Yoshihito] và Thiên hoàng Chiêu Hòa [Hirohito].

Những biến cố quan trọng của thời kỳ này:

  • 3 tháng 1 năm 1868: Phục hồi quyền lực của thiên hoàng [王政復古の大号令]
  • 3 tháng 5 năm 1868: Sự sụp đổ của chế độ Đức Xuyên Mạc phủ [Tokugawa Bakufu - 徳川幕府]
  • 29 tháng 8 năm 1871: Hủy bỏ giai cấp lãnh chúa địa phương [廃藩置県]
  • 29 tháng 11 năm 1890: Ban hành Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản
  • Nhật Bản phát triển nhanh chóng về mặt kỹ nghệ và quân sự, trở thành một cường quốc
  • Chiến tranh thế giới thứ hai: Đế quốc Nhật Bản tham chiến theo các hiệp ước liên minh với khối Trục, xâm chiếm nhiều nước, lãnh thổ khắp châu Á và Thái Bình Dương.
  • 2 tháng 9 năm 1945: Nhật Bản đầu hàng phe Đồng Minh.
  • 3 tháng 5 năm 1947: Ban hành Hiến pháp của Nhà nước Nhật Bản [giải thể Đế quốc Nhật Bản].

Theo hiến pháp, Đế quốc Nhật Bản khởi đầu từ 29 tháng 11 năm 1890 - sau cuộc cải cách chính trị phục hưng đem quyền lực cai trị cả nước Nhật về tay Thiên hoàng Minh Trị - và giải thể hệ thống Mạc phủ Tokugawa. Tuy vậy, chính sách đế quốc bắt đầu trước đó, từ năm 1871, khi Nhật chú trọng việc bảo vệ lãnh thổ và đồng thời phát huy quân sự dòm ngó các nước láng giềng. Thời đại đế quốc kéo dài qua ba triều đại: Minh Trị [1868 - 1912], Đại Chính [1912 - 1926] và 21 năm đầu [1927 - 1945] của Chiêu Hòa [Thiên hoàng Hirohito trị vì cho đến 1989].

Đế quốc Nhật Bản, Phát xít Ý và Đức Quốc xã nằm trong khối Trục trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cả ba đều có chủ trương làm bá chủ toàn cầu. Trước cuộc chiến này, hải quân Nhật thuộc hạng mạnh bậc nhất thế giới, đủ sức cạnh tranh với Hải quân Anh và Hải quân Hoa Kỳ, còn lục quân Nhật tuy trang bị kém hơn nhưng cũng đủ để lấn át quân Trung Quốc. Sau năm 1940, khi kỹ nghệ phát triển vượt bậc và quân lực tăng cường tối đa, Nhật bắt đầu đặt kế hoạch xâm lăng các nước láng giềng - Trung Quốc và Đông Nam Á.

Lịch sửSửa đổi

Thiên hoàng Minh Trị, vị Thiên hoàng đầu tiên của Đế quốc Nhật Bản [1868-1912]

Cội nguồn của Đại Nhật Bản Đế quốc bắt đầu từ cuộc khôi phục hoàng quyền vào năm 1868. Đây là một cuộc thay đổi chính trị rất lớn trong lịch sử Nhật Bản. Trước đó, Mạc phủ Tokugawa lấn át Thiên hoàng, nắm mọi quyền hạn trong tay cai trị các đảo của Nhật Bản, bế môn tỏa cảng, chú tâm trùng tu xây dựng văn hóa, nghệ thuật. Lúc bấy giờ, các thế lực đế quốc Tây phương như Hoa Kỳ, Anh Quốc, Đức và Hà Lan đang nỗ lực lấn chiếm các nước châu Á. Do sức ép của thay đổi bên ngoài, chính quyền Nhật Bản phải chịu ký hiệp ước "bất bình đẳng" với Hoa Kỳ tại Kanagawa. Dân chúng Nhật lấy làm bất mãn khi thấy Nhật chịu yếu thế.

Fukuzawa Yukichi

Fukuzawa Yukichi, một nhà tư tưởng Nhật, đưa ra kế hoạch cải tiến Nhật Bản bằng cách thay đổi hoàn toàn hệ thống chính trị, bỏ những tư tưởng Á châu hủ lậu, dồn sức canh tân kỹ nghệ để theo kịp Tây phương, và đồng thời mở rộng tầm ảnh hưởng Nhật đối với các nước láng giềng. Fukuzawa Yukichi thúc đẩy Nhật Bản vào đường lối chính trị thực tiễn, xa rời những tư tưởng có tính chất tình cảm hay lý tưởng không thực. Ông kêu gọi dân Nhật thoát khỏi vòng suy nghĩ Á châu, học hỏi theo Tây phương, biện minh rằng xã hội muốn theo kịp văn minh phải thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Ông viết:

"Văn minh lây giống như bệnh sởi. Nó còn hay hơn bệnh sởi vì nó đem lại nguồn lợi".

Ông đòi hỏi dân Nhật phải ráng "nếm mùi văn minh" - đó là văn minh Tây phương - và chấp nhận thay đổi. Fukuzawa Yukichi phát huy tinh thần tự tin, tự tạo sức mạnh thể chất và giáo dục của từng cá nhân. Trong vòng 30 năm, nước Nhật thay đổi nhanh chóng và trở thành một trong các đại cường quốc trên thế giới.

Tuy nhiên, Fukuzawa cũng thể hiện tư tưởng có phần quá khích trong quan hệ với nước châu Á láng giềng. Ông viết: "Giờ đây nếu phải chờ nhà Thanh lẫn Triều Tiên đều cận đại hóa để cùng có một châu Á phồn vinh thì e không kịp nữa. Nhật Bản phải thoát ra khỏi Á châu ngay và sẽ tiếp cận với nhà Thanh và Triều Tiên với cùng một tư thế như các nước Âu - Mỹ mới được". Điều đó có nghĩa là ông khuyên Nhật Bản cũng phải gia nhập vào nhóm các nước đang cạnh tranh xâm chiếm thuộc địa ở vùng Đông Á như Âu - Mỹ. 20 năm sau, Đế quốc Nhật Bản đã làm đúng theo ý kiến mà Fukuzawa đề xướng, nghĩa là đua tranh với các nước thực dân Âu - Mỹ trong việc xâm chiếm các nước vùng Đông Á[5]

Chính trịSửa đổi

Hiến phápSửa đổi

上諭 - "Thánh chỉ" một phần của Đại Nhật Bản Đế quốc Hiến pháp [2]

Đại Nhật Bản Đế quốc Hiến pháp được ban hành năm 1889, chính thức trao nhiều quyền hạn chính trị vào tay Thiên hoàng. Tuy nhiên cho đến 1936, từ "Đại Nhật Bản Đế quốc" mới được chính thức sử dụng. Những từ khác để chỉ Nhật Bản lúc bấy giờ gồm có: 日本 Nhật Bản, 大日本 Đại Nhật Bản, 日本國 Nhật Bản Quốc, 日本帝國 Nhật Bản Đế quốc.

Trong bản thảo hiến pháp 1946, một năm sau khi đầu hàng, Nhật thiết lập hệ thống chính trị và tên hiệu của nước trở thành: 日本国 Nhật Bản Quốc.

Kinh tếSửa đổi

Thiết giáp hạm Yamato, thiết giáp hạm lớn nhất lịch sử năm 1941

Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật mở rộng vòng đai đế quốc, cai quản Đài Loan, Triều Tiên, Mãn Châu và vùng Bắc Trung Hoa. Nhật xem vòng đai này là một yếu tố quan trọng để bảo vệ quyền lợi và an ninh, đề phòng các thế lực bên ngoài chận khóa đường biển bóp nghẹt kinh tế của mình. Nhận thức được tài nguyên của mình hạn chế, Nhật ra sức vơ vét tài nguyên từ các thuộc địa để tăng cường quân lực và làm hậu thuẫn cho việc tiếp tục mở rộng lãnh thổ đế quốc. Sau 1868, kinh tế Nhật Bản tiến triển qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu chú trọng phát triển nông nghiệp để cung cấp cho cải tiến kỹ nghệ. Trong Chiến tranh Nga-Nhật bắt đầu năm 1904, Nhật có 68% dân có việc làm và 38% tổng sản phẩm quốc dân vẫn từ nông nghiệp. Đến giai đoạn thứ nhì trong thập niên 1920 lượng sản xuất kỹ nghệ và mỏ khoáng lên đến 23% GDP so 21% của với sản xuất nông nghiệp. Kỹ thuật giao thông và liên lạc cũng phát triển nhanh để kịp mức tiến của kỹ nghệ.

Quân sựSửa đổi

Hàng không mẫu hạm Shokaku với phi cơ chuẩn bị oanh tạc Trân Châu Cảng

Vào thời điểm này, các gia tộc kỹ nghệ đại tư bản như Mitsubishi, Mitsui, Sumitomo, Yasuda bắt đầu phát triển và nhận thức được sự cần thiết của nguyên liệu và tài nguyên mà Nhật Bản không có sẵn. Quan niệm về xâm lăng nước láng giềng dần dần lớn mạnh với nhiều mục đích: tạo vòng đai quân sự bảo vệ an ninh lãnh thổ Nhật Bản, lấy tài nguyên phát triển kỹ nghệ và tạo thị trường tiêu thụ hàng Nhật.

Trong khi đó, các thế lực Tây phương như Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp cũng đang cố gắng bành trướng ảnh hưởng kinh tế vào châu Á - nhất là Trung Hoa. Nhận thấy nguy cơ thua kém các thế lực "mọi da trắng" ngay trên địa bàn của mình, Nhật Bản ra sức củng cố phát huy kỹ nghệ - đặc biệt là vũ khí quân sự và trong vòng vài năm tạo dựng được một lực lượng quân sự hùng mạnh.

Araki Sadao là một lãnh tụ khuynh hữu đảng quân phiệt Nhật, từng lãnh đạo Hội Hoạt động Từ thiện Đế quốc [Kōdōha] đối lập với Nhóm Kiểm soát [Tōseiha] của tướng Kazushige Ugaki. Ông gắn liền cổ học Nhật [võ sĩ đạo] với chủ thuyết phát xít đang thịnh hành tại châu Âu, đưa đến phong trào hoạt động dưới dạng phát xít Nhật [Quốc xã shōwa].

Từ 1932, Nhật Bản lọt vào thế buộc phải đi đến chiến tranh theo hướng dẫn của Araki. Chủ nghĩa độc tài, quân phiệt và bành trướng được chấp nhận như lời giải duy nhất cho tình huống bấy giờ của Nhật Bản và ít có ai lên tiếng phản đối. Trong cuộc họp báo ngày 23 tháng 9 năm 1932, Araki đưa ra khái niệm Kodoha [Đạo đế quốc], gắn liền Thiên hoàng, người Nhật, đất Nhật và tinh thần Nhật vào một khối không thể tách rời. Từ đó nảy ra một loại "giáo đạo" mới tôn sùng Thiên hoàng trong lòng người Nhật.

Nước Nhật trở thành một công cụ phục vụ cho quân đội và Thiên hoàng Nhật Bản. Kiếm Nhật [katana] được đem ra làm phù hiệu cho lý tưởng đế quốc, súng Nambu được dùng để biểu hiện tinh thần cận chiến của quân đội Nhật.

Một mơ ước của giới quân phiệt cực hữu là làm sống lại hệ thống Mạc phủ khi xưa, nhưng dưới dạng quân trị hiện đại - nghĩa là Thiên hoàng chỉ là long trọng viên và quyền hạn chỉ huy cả nước nằm trong tay lãnh tụ quân sự với danh nghĩa phụ chính - tương tự như chức Duce của Benito Mussolini ở Ý và quyền Führer của Adolf Hitler ở Đức. Tuy nhiên một số nhà quân sự Nhật thời này ra sức ngăn cản lối suy nghĩ này, quyết giành quyền lực hoàn toàn vào tay Thiên hoàng.

Hải quânSửa đổi

Bài chi tiết: Hải quân Đế quốc Nhật Bản

Hải quân Đế quốc Nhật Bản [kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: Dai-Nippon Teikoku Kaigun, phiên âm Hán-Việt: Đại Nhật Bản đế quốc hải quân], thường gọi tắt là Hải quân Nhật, là lực lượng hải quân của Đế quốc Nhật Bản từ năm 1869 khi thành lập cho đến năm 1947 khi nó bị giải tán theo điều 9 của Hiến pháp Nhật Bản từ bỏ việc sử dụng vũ lực như là phương cách để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Đây là lực lượng hải quân lớn thứ ba trên thế giới vào năm 1920 sau Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Hoàng gia Anh[6], và có lẽ là lực lượng hải quân hiện đại nhất thời điểm cận kề Chiến tranh Thế giới II. Những chiến hạm trong lực lượng này còn được hỗ trợ bằng máy bay và hoạt động không kích từ Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản.

Trước Chiến tranh thế giới thứ nhấtSửa đổi

Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhấtSửa đổi

Bài chi tiết: Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất
Chiến tranh Trung-Nhật thứ nhất, các trận chiến chính và các cuộc hành quân
Đại Mãn Châu, Mãn Châu [ngoài] thuộc Nga là khu vực phía trên bên phải với màu đỏ tươi; Bán đảo Liêu Đông có hình mũi nhọn vươn vào biển Hoàng Hải
Đô đốc Hải quân, Bá tước Togo Heihachiro, chỉ huy trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất
Đô đốc hải quân, Nam tước Goro Ijuin

Trước khi tham dự vào Chiến tranh thế giới thứ nhất từ sau khi bắt đầu Minh Trị Duy tân, Đế quốc Nhật Bản đã tham gia hai cuộc chiến quan trọng. Cuộc chiến thứ nhất là Chiến tranh Nhật-Trung thứ nhất xảy ra giữa thời kỳ 1894 và 1895. Cuộc chiến này chủ yếu xoay quanh việc tranh giành quyền kiểm soát và ảnh hưởng đối với bán đảo Triều Tiên. Một cuộc nổi loạn của nông dân đã dẫn tới việc triều đình Triều Tiên thỉnh cầu Trung Quốc gửi quân qua Triều Tiên để ổn định tình hình. Đế quốc Nhật Bản đáp trả bằng cách gửi quân Nhật qua Triều Tiên và dựng nên một chính phủ thân Nhật ở kinh đô Seoul. Trung Quốc phản đối, và chiến tranh nổ ra. Quân Nhật đánh bại quân Trung Quốc ở bán đảo Liêu Đông và gần như phá tan hải quân Trung Quốc tại hải chiến Hoàng Hải. Trung Quốc bị buộc phải ký vào Hiệp ước Shimonoseki, nhường nhiều phần của Mãn Châu và đảo Đài Loan cho Nhật Bản. Hiệp ước cũng làm gia tăng ảnh hưởng của Nhật Bản tại Trung Quốc trong 50 năm sau.

Chiến tranh Nga-NhậtSửa đổi

Bài chi tiết: Chiến tranh Nga-Nhật

Chiến tranh Nga-Nhật là một cuộc xung đột tranh giành quyền kiểm soát Triều Tiên và một số vùng của Mãn Châu giữa Đế quốc Nhật Bản với Đế quốc Nga xảy ra trong giai đoạn 1904-1905. Cuộc chiến này có ý nghĩa quan trọng do đây là cuộc chiến hiện đại đầu tiên mà một nước châu Á đánh bại một cường quốc châu Âu và đã giúp nâng cao hình ảnh và vị thế nước Nhật trên chính đàn quốc tế. Cuộc chiến được đánh dấu bằng việc Nhật xóa bỏ được quyền lợi của Nga tại Triều Tiên, Mãn Châu và Trung Quốc. Đáng kể là bán đảo Liêu Đông, bị kiểm soát bởi thành phố cảng Lữ Thuận [旅順口, cảng Arthur]. Thoạt đầu, trong hiệp ước Shimonseki, cảng Lữ Thuận đã được nhượng cho Nhật.

Đại Chính Thiên hoàng, vị Thiên hoàng thứ hai của đế quốc Nhật Bản

Phần này của hiệp ước bị các nước lớn ở phương Tây bác bỏ, cảng được chuyển cho Đế quốc Nga, tăng thêm quyền lợi của Nga trong khu vực. Những quyền lợi này xung đột với quyền lợi của Nhật Bản. Cuộc chiến bắt đầu với một cuộc tấn công bất ngờ của Nhật vào hạm đội Đông Nga đóng ở cảng Lữ Thuận, tiếp theo là Trận Hải chiến cảng Lữ Thuận. Các đơn vị Nga cố gắng trốn chạy đã bị đánh bại thê thảm tại trận hải chiến Hoàng Hải bởi lực lượng hải quân Nhật do Đô đốc Togo Heihachiro chỉ huy. Một năm sau, hạm đội Baltic của Nga đã đến đây nhưng cũng bị tiêu diệt ở Hải chiến Đối Mã. Tuy đối với Nga, chiến trận trên bộ không có kết quả thảm hại đến như vậy và quân Nga đông hơn người Nhật, 300.000 so với 220.000 nhưng quân đội Nhật đã đánh mạnh hơn nhiều so với đối phương Nga và giành được một lợi thế chính trị mà lợi thế này kết hợp với Hiệp ước Portsmouth được đàm phán với Tổng thống Theodore Roosevelt ở Hoa Kỳ. Kết quả là, đế quốc Nga mất một nửa đảo Sakhalin, cũng như nhiều quyền khai khoáng tại Mãn Châu.

Chiến tranh thế giới thứ nhấtSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
Nguyên soái Terauchi Masatake từng là Thủ tướng Nhật Bản
Bản đồ của Đức về Thanh Đảo, 1912 trong Trận Thanh Đảo

Nhật Bản tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914 theo phe Entente nhân cơ hội Đế quốc Đức đang bận rộn với chiến tranh ở châu Âu và Nhật muốn mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở Trung Quốc. Nhật Bản tuyên chiến với Đức ngày 23 tháng 8 năm 1914 và nhanh chóng chiếm những lãnh thổ: Sơn Đông, Mariana, Caroline và Quần đảo Marshall ở Thái Bình Dương [lúc đó gọi là Tân Guinea thuộc Đức]. Trận Thanh Đảo là một cuộc đổ bộ chớp nhoáng vào thuộc địa Giao Châu của Đức tại Trung Quốc và toàn bộ quân Đức tại đây đầu hàng vào ngày 7 tháng 11 năm 1914.

Đối với đồng minh phương Tây, đặc biệt là Anh đang đương đầu chiến tranh nặng nề tại châu Âu, Nhật Bản tìm cách bám lấy vị thế của mình tại Trung Quốc bằng việc đưa ra 21 điều đòi hỏi áp đặt lên Trung Quốc vào năm 1915. Ngoài việc nới rộng tầm kiểm soát của họ lên các tô giới của Đức ở Mãn Châu và Nội Mông, Nhật Bản còn muốn chia phần làm chủ một cơ sở chính khai thác và luyện kim ở miền trung Trung Quốc, cấm đoán Trung Quốc nhường hay cho thuê các khu duyên hải cho một cường quốc thứ ba, kiểm soát từ quân sự, chính trị đến kinh tế. Nếu những điều này đạt được thì Trung Quốc trở thành nước bảo hộ của Nhật Bản. Tuy nhiên phải đối mặt với những thương lượng chậm chạp với chính phủ Trung Quốc, thái độ chống Nhật đang lan rộng tại Trung Quốc và những chỉ trích của quốc tế, Nhật Bản rút lại một số đòi hỏi và các hiệp ước đã ký vào ngày 7 tháng 5 năm 1915.

Video liên quan

Chủ Đề