Dàn ý thuyết minh về 1 món ăn truyền thống

Trong những ngày xuân đến rộn ràng, lòng người náo nức mừng dịp Tết Nguyên Đán, chúng ta lại nghĩ đến những món ăn đậm đà bản sắc dân tộc. Và bánh chưng là một món ăn không thể thiếu trong số đó.

Bánh chưng từ lâu đã là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Tương truyền rằng vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, nhà vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua Hùng họp các hoàng tử lại và yêu cầu các hoàng tử đêm dâng lên vua cha thứ mà họ cho là quí nhất để cúng lên bàn thờ tổ tiên nhân ngày đầu xuân. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hi vọng mình được vua cha truyền ngôi. Trong khi đó, người con trai thứ mười tám của Hùng Vương là Lang Liêu có tính tình hiền hậu, sống gần gũi với người nông dân lao động nghèo khổ nên ông lo lắng không có gì quí giá để dâng lên vua cha. Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy có vị thần đến chì bảo cho cách làm một loại bánh từ lúa gạo và những thức có sẵn gần gũi với đời sống hàng ngày. Tỉnh dậy, ông vô cùng mừng rỡ làm theo cách chỉ dạy của thần. Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ, đủ cả sơn hào hải vị, nem công chả phượng. Hoàng tử Lang Liêu thì chỉ có hai loại bánh được làm theo lời mộng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ bèn hỏi, thì được Lang Liêu đem chuyện thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của bánh. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn đạt tên cho bánh là bánh chưng và bánh dày rồi truyền ngôi vua lại cho Lang Liêu.

Cách thức làm bánh rất đơn giản. Cũng theo truyền thuyết kể lại thì cách làm bánh ngày nay không khác so với lời báo mộng của thần cho Lang Liêu cũng như cách làm bánh của vị lang nặng tình với nhân dân là mấy. Nguyên liệu làm bánh bao gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong. Những nguyên liệu ấy vừa dễ kiếm lại vừa giàu ý nghĩa: vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Gạo nếp thường dùng là gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, đều và thơm dẻo hơn các vụ khác. Cầu kì hơn còn có gia đình phải chọn bằng được nếp cái hoa vàng hay nếp nương. Đỗ xanh thường được lựa chọn công phu. Sau thu hoạch đỗ cần phơi nắng đều thật khô, sàng sẩy hết rác, bụi, hạt lép, phân loại hạt rồi đóng vào hũ, lọ bằng sành là tốt nhất. Thịt lợn nên chọn lợn ỉn được nuôi hoàn toàn bằng phương pháp thủ công (nuôi chuồng hoặc nuôi thả, thức ăn bằng cám rau tự nhiên không dùng thuốc tăng trọng hoặc thức ăn gia súc). Khi chọn thịt thì lấy thịt ba chỉ (ba dọi) vừa có mỡ vừa có nạc khiến nhân bánh có vị béo đậm đà, không khô bã. Ngoài ra còn cần các gia vị như hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân; muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu. Lá để gói bánh thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Tuy nhiên, tùy theo địa phương, dân tộc, điều kiện và hoàn cảnh, lá gói bánh có thể là lá chít hoặc vừa là lá dong vừa là lá chít. Lạt buộc bánh chưng thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm nước muối hay hâp cho mềm trước khi gói.

Trước khi làm bánh cần có sự chuẩn bị sơ chế nguyên liệu kĩ lưỡng. Lá dong phải rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Tiếp đó dùng dao bài cắt lột bỏ bớt cuộng dọc sống lưng lá để lá bớt cứng. Gạo nếp nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối. Đỗ xanh làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Thịt lợn đem rủa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2.5 cm đến 3 cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ cho thịt ngấm.

Khi làm bánh, trước hết phải xếp lạt giang một cách hợp lí rồi trải lá dong, lá chít trước. Sau đó mới trải một lớp gạo rồi đến một lớp đỗ, đặt thịt vào giữa làm nhân rồi lại trải tiếp một lớp đỗ, một lớp gạo. Sau khi quấn lá chặt lại thì dùng lạt giang buộc chắc chắn.

Theo quan niệm phổ biến hiện nay, cùng với bánh giầy, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa: bánh chưng màu xanh lá cây, hình vuông tượng trưng cho Đất, bánh dầy tượng trưng cho trời. Tuy nhiên, theo một số học giả nổi tiếng, bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét, đồng thời bánh chưng và bánh giầy tương trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. Bánh tét, thay thế vị trí của bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việt ở miền nam Việt Nam, cũng theo những học giả trên là dạng nguyên thủy của bánh chưng.

Bánh thường được làm vào các dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 Âm lịch. Thiếu bánh chưng, bánh dầy ắt không thành cái Tết hoàn chỉnh: "Thịt mỡ bánh chưng xanh, dưa hành câu đối đỏ". Hơn thế, gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về.

Là loại bánh có lịch sử lâu đời nhất trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt. Sự ra đời và tục lệ làm bánh chưng ngày Tết, ngày giỗ Tổ muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước. Theo thời gian, nền văn minh công nghiệp đang dần được hình thành song ý nghĩa và vai trò của bánh chưng thì vẫn còn nguyên vẹn.

Thuyết minh về món ăn truyền thống của dân tộc bản địa ta hoặc địa phương em để làm rõ hơn và trình làng với mọi người món ăn truyền thống đó nhé !Để làm được bài văn thuyết minh về món ăn truyền thống này thì cùng chúng tôi tìm hiểu và khám phá dàn ý kèm một số ít bài văn mẫu được sưu tầm dưới đây :

Camnangbep.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Thuyết minh về một món an truyền thống

  • Dàn ý thuyết minh về 1 món ăn truyền thống

  • Thuyết minh về món an ngắn gọn

  • Thuyết minh về một món ăn dân tộc bánh chưng

  • Thuyết minh về món an truyền thống của dân tộc bana

  • Thuyết minh về món an ngày Tết

  • Thuyết minh về một món an truyền thống của địa phương

Dàn ý thuyết minh về 1 món ăn truyền thống
Thuyết minh về món ăn truyền thống

Dàn ý thuyết minh về 1 món ăn truyền thống

Là đại diện cho nền văn hóa ẩm thực cũng như tín ngưỡng tâm linh của dân tộc Việt, bánh chưng xuất hiện từ trước thời văn minh lúa nước và luôn hiện diện trong đời sống của người dân ta. Theo sự tích xưa, vào đời Vua hùng thứ sáu, vì muốn tìm người nối ngôi, vua Hùng đã ban lệnh nếu trong các con của mình ai tìm được món ăn ngon để làm cỗ thì sẽ truyền ngôi cho. Trong các con của vua thời bấy giờ có Lang Liêu là một người hiền lành, nhờ sự giúp đỡ của thần tiên, chàng đã làm ra hai loại bánh, một loại có hình vuông gọi là bánh chưng, tượng trưng cho đất còn bánh hình tròn là bánh dầy, tượng trưng cho trời. Nhờ vào hai loại bánh này mà Lang Liêu đã được nối ngôi vua và cũng từ đó, bánh chưng trở thành một món ăn truyền thống không thể thiếu, nó thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ.

Vào ngày tết cổ truyền, hầu như nhà nhà ở Việt Nam đều không thể thiếu đi những chiếc bánh chưng xanh trên mâm cúng ông bà, bàn thờ của gia đình. Để làm ra một chiếc bánh thơm ngon đúng điệu phải trải qua rất nhiều công đoạn. Nếp, đỗ xanh và thịt lợn là nguyên liệu chính để là ra món bánh này và bánh còn phải được gói trong lá dong thì mới có màu xanh bắt mắt. Tuy nhiên, trong thời buổi hiện nay, nhiều gia đình vì quá bận rộn nên không thể tự gói bánh mà thường đặt mua nhưng dù là tự túc hay được mua bán thì món bánh này cũng là một nét đẹp văn hóa không thể thiếu của người Việt ta, là sản vật dâng lên tổ tiên, ông bà, cha mẹ trong ngày tết, là truyền thống tốt đẹp có từ lâu đời trong tâm thức của những người con rồng cháu tiên.

Ngày nay, ở nhiều miền quê vẫn còn những gia đình đặc biệt, lưu giữ một tập quán lâu đời là dành riêng một thửa đất để trồng các loại nếp quý như nếp cái hoa vàng,… chỉ dùng để làm những món ăn cúng lễ hay những dịp quan trọng trong năm, trong đó có bánh chưng. Điều này đã nói lên được phần nào tầm quan trọng và ý nghĩa của món bánh này trong đời sống người Việt. Vào thời chiến, bánh chưng còn là món quà mà các mẹ, các cô gửi cho bộ đội ăn tết, vô cùng quá giá và thấm đượm tình cảm dân quân, bánh chưng từ đó cũng theo suốt chiều dài lịch sử oai hùng dựng nước và giữ nước của cả dân tộc. Những chiếc bánh dẻo mềm và thơm ngon ấy có mặt trong hầu hết các hoạt động tín ngưỡng xã hội, xuất hiện cả trong những câu ca dao thân thương, là cầu nối gắn kết giữ quá khử và hiện tại.

Việt Nam được biết đến là đất nước có nền văn hóa ẩm thực khá phong phú. Chúng ta có thể kể tên các món ăn đặc sản của dân tộc như bánh chưng, bánh cốm, phở, bún bò,… và đặc biệt là món nem rán. Đây là món ăn vừa cao quý lại vừa dân dã, bình dị để lại một mùi vị khó phai mờ trong mỗi chúng ta.

Nem rán có nguồn gốc từ Trung Quốc, thuộc nhóm các món Dimsum. Món ăn này đã theo chân những người Hoa khi di cư sang nước ta và được biến đổi thành món ăn phù hợp với khẩu vị người Việt. Nem rán không chỉ phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc mà nó còn góp mặt trong ẩm thực của đất nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Ba Lan và nhiều nước Trung, Nam Mĩ,… với các tên gọi khác nhau như Harumaki, Chungwon, Rouleau de printemps, Sajgonki,…Ở Việt Nam, tùy theo vùng miền mà món ăn này có những tên gọi riêng. Nem rán là cách gọi của người dân miền Bắc, người miền Trung gọi là chả cuốn và chả giò là cách gọi của người dân miền Nam.

Nguyên liệu chế biến món nem rán khá đa dạng nhưng cũng hết sức dễ tìm. Để món ăn đầy đủ các thành phần dinh dưỡng chúng ta cần chuẩn bị thịt băm, trứng gà hoặc trứng vịt, hành tây, hành lá, cà rốt, su hào, giá đỗ, rau mùi, rau thơm, mộc nhĩ, mì hoặc miến,…và một số loại gia vị như mì chính, bột canh, hạt tiêu, nước mắm,…Những gia vị này sẽ giúp món ăn thêm phần đậm đà, hấp dẫn. Một thứ không thể thiếu đó chính là bánh đa nem. Bánh đa nem được làm từ gạo và khi chọn ta cần lựa những lá bánh mềm, dẻo để khi gói không bị vỡ.

Để có được món nem rán thơm phức hoàn hảo, trước hết chúng ta cần sơ chế các nguyên liệu đã chuẩn bị. Chúng ta ngâm nấm và mộc nhĩ cho đến khi chúng nở ra rồi rửa sạch, thái nhỏ. Đồng thời các loại rau củ cũng gọt vỏ, rửa sạch và thái. Mì hoặc miến ngâm nước ấm trong khoảng năm phút rồi cũng cắt thành từng đoạn ngắn. Sau đó, cho tất cả các nguyên liệu vào âu hoặc bát to, đập thêm trứng, nêm thêm gia vị rồi trộn đều.

Số trứng dùng để làm nem không nên quá nhiều vì như thế sẽ khiến nhân nem ướt rất khó cuộn và cũng không nên quá ít vì nem sẽ bị khô. Vì vậy, khi đập trứng ta nên đập lần lượt từng quả để ước lượng lượng trứng phù hợp. Màu cam của những sợi cà rốt, màu trắng của mì, màu xanh của rau, màu vàng của trứng,… tất cả hòa quyện với nhau trông thật hài hòa. Chúng ta sẽ ướp phần nhân nem từ 5 đến 10 phút để các gia vị ngấm đều.

Tiếp theo, chúng ta trải bánh đa nem trên một mặt phẳng rồi cho nhân nem vào cuộn tròn. Bánh đa nem có loại hình tròn, hình vuông, cũng có loại hình chữ nhật, tùy theo sở thích mà mỗi người lại lựa chọn những loại bánh đa nem khác nhau. Nếu muốn bánh đa nem mềm và giòn thì trước khi cuốn nem nên phết lên bánh đa nem một chút nước giấm pha loãng với đường và nước lọc.

Chúng ta nên gấp hai mép bánh đa nem lại để phần nhân nem không bị chảy ra ngoài. Sau đó, đun sôi dầu ăn rồi cho nem vào rán. Khi rán nên để nhỏ lửa và lật qua lật lại để nem được chín vàng đều rồi vớt ra giấy thấm để nó hút bớt dầu mỡ, tránh cảm giác bị ngấy khi thưởng thức.

Nước chấm là thứ không thể thiếu để món nem trở nên đậm đà. Muốn có nước chấm ngon, chúng ta cần chuẩn bị một chút đường, tỏi, giấm, ớt, chanh và nước mắm. Đầu tiên, ta hòa tan đường bằng nước ấm rồi cho thêm tỏi, ớt đã băm nhỏ. Sau đó đổ từ từ giấm và nước mắm vào rồi khuấy đều cho các gia vị ngấm đều. Ta có thể thay giấm bằng chanh hoặc quất. Tùy khẩu vị của mỗi người mà nước chấm có độ mặn ngọt khác nhau.

Cuối cùng, bày nem ra đĩa, trang trí thêm rau sống, cà chua hay dưa chuột thái lát để đĩa nem trông thật đẹp mắt. Những bông hồng được làm từ cà chua, những bông hoa được tỉa từ dưa chuột sẽ khiến món ăn vô cùng hấp dẫn. Nem rán chấm với nước chấm tỏi ớt sẽ mang lại cảm giác rất thú vị. Bánh đa nem vàng giòn cùng nhân nem thơm phức quyện hòa với nhau cùng vị cay cay của ớt, chua chua của giấm, ngòn ngọt của đường sẽ khiến những ai thưởng thức nó không bao giờ có thể quên được mùi vị đặc biệt này.

Nem rán đã trở thành một món ăn phổ biến trên khắp đất nước Việt Nam. Nó không chỉ có mặt trong những bữa cơm bình dị thường nhật mà còn xuất hiện trong mâm cơm thờ cúng tổ tiên. Đây là món ăn mang ý nghĩa trang trọng, cao quý. Ngoài ra nem rán còn dùng để ăn kèm với bún đậu và các món ăn khác. Giữa tiết trời se lạnh như thế này còn gì tuyệt vời hơn khi thưởng thức món em rán nóng hổi. Sự kết hợp các nguyên liệu làm nên nhân nem như mang một ý nghĩa biểu tượng về sự đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của người dân đất Việt.

Nem rán không chỉ là món ăn giàu chất dinh dưỡng mà còn là món ăn góp phần tạo nên nền ẩm thực Việt với những đặc trưng và sự độc đáo riêng biệt. Món ăn này tuy dễ thực hiện nhưng lại đòi hỏi sự kì công và khéo léo nên người chế biến cần có sự tập trung nhất định. Đây còn là một trong những món ăn thu hút khách quốc tế khi đến thăm Việt Nam. Có thể nói, món nem rán nói riêng và ẩm thực Việt nói chung đang ngày càng khẳng định được giá trị trên thế giới.

Vốn là mảnh đất ngàn năm văn hiến, Hà Nội đã hình thành cho mình một nét văn hóa ẩm thực rất riêng. Sau những ngày Tết bộn bề với thịt mỡ, bánh chưng… Người Hà Nội lại làm những bữa bún thang thanh đạm mà không kém phần hấp dẫn.

Bạn đang đọc: Thuyết minh về món ăn truyền thống của quê hương em

Bún thang sinh ra từ khi nào không ai rõ. Chỉ biết rằng hình ảnh bát bún thang từ lâu đã gắn bó với hình ảnh những cô gái của Thành Phố Hà Nội ba mươi sáu phố phường duyên dáng, khôn khéo .Để làm được món bún thang phải chuẩn bị sẵn sàng nguyên vật liệu khá cầu kì : bún, thịt gà, trứng gà, tôm nõn, nem chạo, xương lợn, rau thơm .Việc lựa chọn và chế biến những nguyên vật liệu ấy cũng rất tinh xảo. Bún phải là thứ bún sợi nhỏ, trắng trong, không có mùi chua. Thịt gà luộc chín xé sợi nhỏ. Trứng gà lựa lấy lòng đỏ, tráng những lớp mỏng mảnh và khô rồi cuộn lại thái thành những sợi nhỏ. Với tôm nõn ta phải ngâm một lát, để ráo nước rồi giã bông. Rau thơm rửa sạch, thái nhỏ, riêng với nem chạo thì ta để nguyên .Xương lợn là nguyên vật liệu dùng để nấu nước dùng thế cho nên ta nên chọn xương ống, vừa rẻ vừa ngọt nước. Ta rửa sạch xương, chặt đôi từng khúc cho vào luộc sơ qua rồi rửa sạch. Xương sau khi rửa mới hoàn toàn có thể nấu làm nước dùng. Khi nấu, ta cho vừa đủ gia vị, nếm vừa miệng là được. Ban đầu để lửa to, sau khi sôi để lửa nhỏ cho xương nhanh nhừ .Sau khi đã chế biến xong những nguyên vật liệu, ta sẵn sàng chuẩn bị cho bữa ăn. Lấy một bát to, ta đặt vào đó lần lượt : bún, thịt gà xé sợi, trứng gà thái sợi, tôm bông, nem chạo, rau thơm rồi cho nước dùng vào. Ta sẽ có bát bún thang với màu trắng của bún, màu trắng ngà của thịt gà, màu vàng của trứng, màu hồng của tôm bông, màu nâu của nem chạo, màu xanh của rau thơm. Đặc biệt, sự trong vắt của nước dùng sẽ làm nổi lên những sắc tố mê hoặc của bát bún .Hương vị của bún thang rất thanh đạm khác hẳn cái béo ngậy của thịt mỡ hay đồ nếp. Bún thang thường được dùng sau những ngày Tết ồn ào hay trong những ngày hè cần một món ăn nhẹ nhàng, mát dịu .Bún thang cùng với phở, bánh tôm … đã trở thành đặc trưng của ẩm thực ăn uống TP.HN. Bát bún thang chứa đựng trong đó sự khôn khéo, tinh xảo, tỉ mỉ của những “ nghệ nhân ” ẩm thực ăn uống đất Hà thành. Và vì vậy, bún thang đã “ để thương để nhớ ” cho tâm hồn bao người con đất Kinh kì cũng như những hành khách như mong muốn trong đời có lần được đến với Thủ đô .Cùng tìm hiểu thêm thêm một số ít bài văn thuyết minh hay khác tiếp theo nhé :

Bài số 1Mỗi vương quốc, dân tộc bản địa lại có một nền văn hóa truyền thống nhà hàng siêu thị khác nhau. Người ta biết đến sushi Nhật Bản, kim chi Nước Hàn và bè bạn quốc tế đều biết đến phở Nước Ta. Phở không những là món ăn dân tộc bản địa mà còn là văn hóa truyền thống siêu thị nhà hàng Việt trên trường quốc tế .Không có tư liệu đúng chuẩn nào về nguồn gốc của phở. Nhiều người cho rằng phở định hình vào đầu thế kỉ 20. Có quan điểm cho rằng phở vốn bắt nguồn từ món xáo trâu ( dạng sợi bún ) Nước Ta. Có quan điểm khác lại cho biết phở bắt nguồn từ một món ăn Quảng Đông hoặc nguồn gốc của phở là chiêu thức chế biến món thịt bò hầm của Pháp. Dù không rõ phở có nguồn gốc đúng chuẩn từ đâu nhưng vào những năm 40 của thế kỉ 20, phở đã rất nổi tiếng ở Tỉnh Nam Định, TP. Hà Nội .Phở mang nhiều mùi vị khác nhau tùy tay người chế biến. Những thành phần chính của phở gồm bánh phở và nước dùng. Bánh phở dạng sợi, thường chế biến từ gạo. Nước dùng có mùi thơm từ gừng, quế, hồi và thảo quả nướng phối hợp với vị ngọt từ xương lợn được ninh nhừ, thịt bò hoặc thịt gà được thái mỏng mảnh và trần vào bát phở cùng với những loại rau thơm. Nước dùng là yếu tố quyết định hành động độ ngon của một bát phở, nên khâu sẵn sàng chuẩn bị chế biến nước dùng cần bảo vệ kỹ lưỡng. Từ việc chọn xương sao cho ngọt ngon nhất đến ninh xương, nêm nếm gia vị. Vị ngọt của nước dùng phải từ xương thì mới ngon. Nước dùng còn phải có mùi thơm và màu trong. Những nhu yếu này yên cầu người đầu bếp phải có kinh nghiệm tay nghề. Ngoài ra khi ăn phở, người ta hay ăn kèm rau thơm, thêm vị chua thanh thanh từ chanh. Tất cả cùng hòa quyện khiến bát phở thơm ngon đúng điệu không rơi lệch đi một chút ít nào .Qua nhiều quy trình tiến độ tăng trưởng của phở và sự phát minh sáng tạo của người đầu bếp từ thế hệ đi trước đến thế hệ sau, phở có nhiều loại hơn tương ứng cách chế biến của nó. Tuy nhiên có ba món phở chính là : phở nước, phở xào và phở áp chảo. Phở nước là loại được ưu thích hơn cả. Phở nước gồm phở bò, phở gà, phở tim gan. Khác nhau như vậy sở dĩ là do nước dùng cùng thịt ăn kèm. Trong số đó, nổi tiếng nhất là phở bò. Phở được trình diễn trong bát sứ với độ lớn vừa phải. Khi ăn phở, phải tích hợp dùng cả đũa và thìa để chiêm ngưỡng và thưởng thức được toàn vẹn mùi vị của một bát phở. Ăn phở phải ăn nóng và không ăn kèm thêm bất kể món ăn, đồ uống nào khác bởi mùi vị của nó vốn đã rất không thiếu, hoàn hảo nhất rồi .Phở đã trở thành nét tinh xảo trong văn hóa truyền thống ẩm thực dân tộc. Bốn mùa xuân hạ thu đông, cả ngày sáng trưa chiều tối, bất kể khi nào muốn tất cả chúng ta đều hoàn toàn có thể chiêm ngưỡng và thưởng thức phở. Trên khắp mọi miền của tổ quốc thân yêu, quán ăn nào cũng ship hàng phở. Có những quán phở đã thành danh từ năm này qua năm khác, có những nơi đã trở thành làng nghề. Phở là một phần không hề thiếu trong tâm hồn mỗi người con Nước Ta, để rồi khi xa quê nhà, ở quốc tế người ta vẫn khao khát được ăn một bát phở Nước Ta đúng nghĩa. Bạn bè trên quốc tế đến với Nước Ta, ai cũng một lần thử qua món phở và thú vị mùi vị của nó. Thậm chí, có nhiều người lặn lội từ vì lẽ đó đã gắn liền với quốc gia và con người Nước Ta. Nếu hỏi một người quốc tế rằng họ biết gì về Nước Ta, chắc như đinh sẽ không có câu vấn đáp nào khác ngoài phở. Phở còn trở thành đề tài cho bao tác phẩm đồ sộ của những tác giả như Thạch Lam, Vũ Bằng … Cùng với tình yêu quê nhà, ngày qua ngày, người ta luôn cố gắng nỗ lực giữ gìn nét ẩm thực ăn uống độc lạ của quốc gia mình .

Bao thế hệ đã đi qua, nhưng phở vẫn còn mãi dưới đôi tay khéo léo của người đầu bếp. Bát phở nghi ngút khói trong cái se se lạnh của đất nước nhiệt đới ẩm đã lặng lẽ khắc ghi trong trái tim con người Việt Nam niềm tự hào dân tộc.

Xem thêm: Bán kính quay xe ô tô là gì? 2 cách tính bán kính tối thiểu

Xem thêm : Thuyết minh về Tết Nguyên đán truyền thống Nước TaBài số 2Nhắc đến quốc gia hình chữ S có biết bao nhiêu món ăn đặc sản nổi tiếng dân tộc bản địa, mỗi vùng miền lại có những món ăn khác nhau. Đến Thành Phố Hà Nội hành khách phải thử một lần món phở, món ăn đại diện thay mặt cho truyền thống văn hóa truyền thống dân tộc bản địa Nước Ta .Món phở sinh ra vào đầu thế kỷ 20, nơi Open tiên phong vẫn còn tranh cãi, người thì nói Tỉnh Nam Định nhưng cũng có người cho rằng TP.HN là nơi biến món ăn trở nên nổi tiếng đại diện thay mặt cho nền ẩm thực ăn uống nước ta .Món phở theo thời hạn có nhiều biến chuyển, trước kia chỉ là phở bò chín nhưng từ từ Open phở tái, phở gà, phở cuốn, phở xào, phở rán … rất nhiều những loại phở khác nhau làm phong phú thêm những món ăn của nền ẩm thực ăn uống Việt .Phố có đặc thù rất riêng không liên quan gì đến nhau khi chỉ ăn một mình không dùng kèm với những món ăn khác, người TP. Hà Nội thường ăn phở đa phần vào buổi sáng, còn hành khách đến với TP.HN hoàn toàn có thể ăn vào bất kỳ thời hạn nào trong ngày đều được, những quán xá mở suốt ngày chuẩn bị sẵn sàng ship hàng. Phở dùng nguyên vật liệu chính là bánh phở màu trắng thành phần chính từ gạo. Nước dùng hay còn gọi là nước lèo chính là tinh túy của món phở, nước dùng ninh bằng những loại xương và hương liệu khác như gừng, quế, hoa hồi, đinh hương, thảo quả … mỗi người lại có tuyệt kỹ riêng để nấu nước dùng giúp thực khách ngon miệng. Mỗi bát phở sẽ ăn kèm với 1 số ít rau gia vị ví dụ hành tây, rau húng, vài miếng chanh, rau thơm, tương ớt … ăn kèm với loại rau nào cũng tùy theo vùng miền .Khi đến một quán phở Thành Phố Hà Nội, chủ quán sẽ mang đến cho bạn menu chọn loại phở ví dụ như phở bò, phở gà. Khi người mua gọi 5 phút sẽ có một bát phở nóng giãy, thơm lừng đặt trước mặt, thực khách thêm vào ớt, chanh và hạt tiêu. Trộn đều lên với nhau, cầm bát lên ngang mặt và chiêm ngưỡng và thưởng thức sự tinh túy bên trong .Nhắc đến phở nhiều nhà văn đã đưa vào thơ ca ví dụ như Nguyễn Tuân, Vũ Bằng ( Miếng ngon Thành Phố Hà Nội ), Thạch Lam ( TP. Hà Nội 36 phố phường ), … theo thời hạn phở truyền thống cũng chuyển sang phở công nghiệp theo dạng đóng gói như phở chay, phở ăn liền giúp người ăn thuận tiện nhanh gọn chiêm ngưỡng và thưởng thức mà không cần phải ra quán xá. Chính điều này đã giúp món ăn này trở nên rất phổ cập len lỏi vào từng mái ấm gia đình .Nền nhà hàng nước ta phong phú, đa dạng và phong phú, trong đó phở là hình tượng nhà hàng siêu thị Việt. Món ăn bổ dưỡng này đã được phổ cập trên toàn quốc tế, người Việt xa xứ hoàn toàn có thể đến quán ăn có món phở chiêm ngưỡng và thưởng thức bất kỳ khi nào khi nhớ về quê nhà. Còn gì tuyệt vời khi mỗi buổi sáng được ăn một bát phở nóng nực, thơm ngon và giàu dinh dưỡng .Xem thêm : Thuyết minh về cây đào ngày Tết

Cứ mỗi độ thu về TP. Hà Nội lại nồng nàn hương cốm. Từ lâu cốm là loại quà đặc trưng của Thành Phố Hà Nội và được phần đông người dân Thành Phố Hà Nội yêu quý, cốm mang trong mình mùi vị riêng của TP. Hà Nội, nên để chiêm ngưỡng và thưởng thức cốm cùng phải thật tinh xảo .“ Thành Phố Hà Nội mùa thu, mùa thu Thành Phố Hà Nội mùa hoa sữa về thơm từng cơn gis. Mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua … ”, những câu hát của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã thay cho lời chào sâu lặng, đặc trưng của mùa thu TP.HN !Những câu hát du dương ấy như xoáy vào lòng ta nỗi nhớ bâng khuâng về mùa thu TP. Hà Nội, về hoa sữa, về cơm nguội vàng, về cây bàng lá đỏ và không hề thiếu đó là hương cốm nồng nàn .

Cốm được làm từ lúa nếp non, ngon nhất là cốm làm từ nếp cái hoa vàng trong cả hai mùa lúa chiêm và lúa mùa. Và người làm cốm thường dùng lúa mùa vào  khoảng cuối hè đầu thu (khoảng rằm tháng 7 đến hết tháng 9 âm lịch). Vào tháng 4 tháng 5 âm lịch có nơi như ở cánh đồng Gôi (Dịch vọng, Từ Liêm, Hà Nội) đã lúa sớm nên đã có cốm bán gọi là cốm chiêm.

Nằm ở phía Tây Hà Nội, làng Vòng thuộc phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy. Từ bao đời nay cốm làng Vòng đã nức tiếng khắp cả nước. Nói đến cốm Vòng phải là thử cốm dẹt, màu xanh non làm từ nếp cái hoa vàng qua kỳ đồ sữa. Để làm nên những hạt cốm thơm ngon phải qua rất nhiều công đoạn. Khi cây lúa hoe hoe vàng, chỉ mười ngày nữa là gặt rộ cũng là lúc người làng Vòng đi chọn ngắt từng bông dài, hạt mấy về chế biến. Muốn cốm ngon thì phải cắt lúa đúng lúc. Lúc già hạt cốm không còn xanh, cứng và gãy nát. Lúa non quá, hạt cốm bết vào vỏ trấu, nhào mất ngon. Thường lúa gặt hôm nào đem rang và giã luôn hôm đó. Rang lúa sao cho vừa lửa, hạt cốm chín tới, không giòn mà tróc trấu là công đoạn khó nhất trong nghề làm cốm. Giã cốm bằng loại cối riêng, nhịp chày nhè nhẹ, nhịp nhàng, đều đều và khoan thai như vậy cốm mới mịn và dẻo.

Mang trong mình mùi vị riêng của TP. Hà Nội, nên để chiêm ngưỡng và thưởng thức cốm cũng phải thật tinh xảo. Cốm được gói vào lá sen già ấp ủ hương hoa sen tinh khiết hoặc lá khoai ráy xanh non, bóng nõn mỡ màng và buộc bằng sợi rơm vàng óng .Các bà, những mẹ bán cốm thường ăn mặc theo lối xưa với khăn xếp, áo cánh cổ lá sen, gánh đôi thúng với một bó lạt bằng rơm nếp nhuộm mạ trong xanh gắn trên đầu quang gánh. Chiếc mẹt đặt úp trên một bên thúng xếp vài chiếc lá sen để gói cốm. Hình ảnh ấy dù đã trở thành quá vãng nhưng vẫn mãi là hình ảnh đẹp, thơ và trong lành của nghề cốm nói riêng và người TP.HN nói chung .

Giờ đi qua các con phố của Hà Nội, đâu đó thoảng trong hơi gió cái hương thơm nhè nhẹ của cốm. Hà Nội vào thu thật đẹp, cảnh sắc khí trời đều khiến con người ta muốn đắm chìm, muốn yêu thương và muốn hòa mình cùng thiên nhiên huyền ảo. Thu Hà Nội với cảnh sắc vàng của lá, sắc trắng của hoa và sắc xanh non của cốm đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp, gieo rắc trong lòng người nhiều nỗi niềm bâng khuâng!

Xem thêm: Phèn nhôm là gì? Công thức và các loại phèn nhôm sunfat

Xem thêm : Thuyết minh về mâm ngũ quả ngày TếtNguồn : Sưu tầm và tổng hợp .Trên đây là một số ít bài văn mẫu thuyết minh về món ăn truyền thống mà những em hoàn toàn có thể tìm hiểu thêm để hoàn thành xong bài văn của mình nhé !