Dấu ấn thời lý trên đất thanh hóa

Triều Lý [1009 - 1225] là một triều đại lớn đầu tiên của đất nước. Từ khi triều Lý được thành lập, công cuộc xây dựng đất nước được đẩy mạnh với nhiều dấu ấn sâu đậm trên mọi phương diện văn hóa, tôn giáo, pháp luật, kinh tế, chính trị: định đô tại Thăng Long, đặt quốc hiệu Đại Việt, hoàn chỉnh hệ thống quan lại, ban hành bộ luật Hình Thư, tổ chức quân đội chính quy, lập Văn Miếu – Quốc Tử Giám, xây dựng hệ thống đê điều, có nhiều chính sách khuyến khích nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, ngoại thương, phát triển văn hoá nghệ thuật, đồng thời đánh đuổi quân Tống xâm lược [1077]. Với hơn 200 năm tồn tại, nhà Lý đã có công làm cho đất nước trở nên cường thịnh, củng cố nền tự chủ, thúc đẩy văn minh Đại Việt phát triển hùng mạnh.

Nhận xét về đất và người Thanh Hóa, trải qua thời gian đã có nhiều học giả trong nước và nước ngoài có cái nhìn và nhận xét khá xác đáng về miền đất này. Sử gia Phan Huy Chú cảm khái trước người và đất xứ Thanh đã ghi những dòng tuyệt bút: “Thanh Hóa mạch núi cao vót, sông lớn lượn quanh, biển ở phía Đông… Núi sông rất đẹp, là một chỗ đất có cảnh đẹp ở nơi xung yếu… Vẻ non sông tốt tươi chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ quý, cũng khác mọi nơi. Bởi đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường, vượng khí chung đúc nên xứng đáng đứng đầu cả nước”.

Liên tiếp các triều đại vua, chúa phát tích từ đất Ái Châu mà ra, nên trong không phải vô cớ mà người Việt Nam có câu ngạn ngữ truyền đời: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”, ý nói Thanh Hóa là nơi phát tích của các triều đại đế vương. Còn xứ Nghệ An là nơi có các tôi thần giỏi giang giúp vua trị nước. Trong bài viết này, Cổng thông tin du lịch Thanh Hóa xin phép được điểm qua những vị Vua, Chúa được sinh ra từ vùng đất Xứ Thanh.

LỆ HẢI BÀ VƯƠNG – TRIỆU THỊ TRINH

Năm Mậu Thìn [248], Lệ Hải bà vương Triệu Thị Trinh phất cờ khởi nghĩa đánh quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa. Khi bị địch lập mưu lừa lấy chồng là tướng địch bà khảng khái nói “Ta đây muốn đạp cơn sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lẽ nào chịu làm thê thiếp cho người”. Bà cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt hiệu triệu quần hùng nổi dậy đánh giặc Ngô, làm quân giặc khiếp đảm tôn phục với câu cửa miệng “Hoành qua đương hổ dị. Đối diện bà Vương nan” [Múa giáo chống hổ dễ. Đối mặt vua bà khó].

GIAO CHÂU TIẾT ĐỘ SỨ – DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ

Dương Đình Nghệ quê làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Năm 931, ông cất quân đánh báo thù cho họ Khúc khi bị nhà Nam Hán xâm lược. Liên tiếp đánh bại 2 đạo quân Nam Hán, Dương Đình Nghệ tự xưng làm Tiết Độ sứ, nhưng thực ra đã là một “vua không ngai” khi tiếp nối được nền độc lập, tự chủ do dòng họ Khúc dựng nên từ năm Ất Sửu [905].

ĐẠI HÀNH HOÀNG ĐẾ – LÊ HOÀN

Lê Hoàn, tức vua Lê Đại Hành vốn quê xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Ông là vị vua chiến binh của người Việt, bắc phá Tống, nam bình Chiêm. Bên trong thì dẹp yên nội loạn của các tướng cũ họ Đinh. Tháng 7 năm Canh Thìn [980] Ông được hoàng hậu Dương Vân Nga tôn lên ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Đại Hành hoàng đế.

HỒ QUÝ LY

520 năm sau, cũng năm Canh Thìn [1400], ngoại thích Hồ Quý Ly thoán đoạt ngôi vị nhà Trần lập nhà Hồ với tên nước là Đại Ngu, kinh đô ở thành Tây Giai, tức Tây Đô của Thanh Hóa. Tổ tiên ông vốn ở Chiết Giang, Trung Quốc, sau di cư sang sống ở Diễn Châu, Nghệ An rồi chuyển ra hương Đại Lại, Thanh Hóa lập nghiệp. Nhà Hồ truyền qua hai đời vua trong 7 năm [1400 – 1407].

Di sản Thanh Nhà Hồ – danh lam thắng cảnh Thanh hóa không thể bỏ qua khi đi du lịch.

THÁI TỔ HOÀNG ĐẾ – LÊ LỢI

Người sáng nghiệp nhà Hậu Lê là Lê Thái Tổ [Lê Lợi] sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh. Ông quê ở xã Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giai đoạn Lê sơ trải qua 10 vị vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng, được xem là thời thịnh trị của chế độ phong kiến Đại Việt với đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông trị vì. Giai đoạn Lê Trung hưng đánh dấu sự phục hồi của nhà Lê sau khi bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi với vị vua đầu tiên Lê Trang Tông, và kết thúc với vua thứ 16 Lê Chiêu Thống.

NHÀ NGUYỄN

Triều đại cuối cùng của Việt Nam là nhà Nguyễn do Nguyễn Ánh Gia Long hưng khởi, tổ tiên của ông là chúa Nguyễn Hoàng vốn bản quán ở Gia Miêu ngoại trang thuộc huyện Tống Sơn [xã Hà Long, huyện Hà Trung nay], đất Thanh Hóa.

Trong lịch sử nước Nam ta, ghi nhận chính thức có hai dòng chúa là chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Cả hai dòng chúa đều phát tích từ xứ Thanh.

MINH KHANG THÁI VƯƠNG – TRỊNH KIỂM

Chúa Trịnh thời vua Lê – chúa Trịnh thế kỷ XVI – XVIII do Trịnh Kiểm lập nên. Ông vốn xuất thân nghèo nàn từ làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tuy tiếng là phò giúp nhà Lê, nhưng quyền lực thực tế của các chúa Trịnh lại át cả vua Lê, có cung vua thì có phủ chúa. Vua Lê có Lục Bộ thì chúa Trịnh có Lục phiên. Vua Lê dạo Trung hưng chỉ có hư vị mà thôi. Thế nên dân gian mới có câu: “Phi đế phi bá, quyền nghiêng thiên hạ” để chỉ thế lực của chúa Trịnh.

TIÊN CHÚA – NGUYỄN HOÀNG

Chín đời chúa Nguyễn được lập nên sau thời chúa Trịnh. Vào năm Mậu Ngọ [1558], Nguyễn Hoàng nghe theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên “Hoành Sơn nhất đại, vạn đại dung thân” đã vào trấn trị đất Thuận Hóa. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chính là con trai thứ của An Thành hầu Nguyễn Kim người Gia Miêu được nói tới ở trên. Dòng dõi chúa Nguyễn trải qua 9 đời từ Nguyễn Hoàng cho tới Nguyễn Phúc Thuần, có công lập nên và khai phá đất Đàng Trong, mở rộng dần về phía Nam đất nước cho tới tận Mũi Đất, Cà Mau.

THANH HÓA – VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH – NHÂN KIỆT

Thanh Hoá là nơi giao nhau giữa Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, có thể xem như là yết hầu của nước Nam nơi cõi Bắc vậy. Nhờ có địa thế tự nhiên với Tam Điệp, Biện Sơn che chở, ở trong thì sông Mã, sông Lương, sông Ngọc Giáp hợp nhau, nên vùng đất này có được cái thế hiểm yếu hiếm có trong quân sự. Chẳng thế mà sau này quân Tây Sơn lại chọn lui về Tam Điệp giao nhau giữa Ninh Bình, Thanh Hóa để ngăn bước tiến quân Thanh.

THANH HÓA – VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH – NHÂN KIỆT

Hình thế đắc địa như một vương quốc riêng như vậy, cũng từ đó mà hình thành nên tính cách, phong tục của người dân nơi đây kiên cường, mưu trí và quật khởi. Chính từ địa lợi, nhân hòa ấy, góp phần cho vùng đất Ái châu trở thành nơi thiên thời cho việc xưng vương, dựng nước.

Cũng vì là đất đế vương, cho nên không phải ngẫu nhiên mà nhà Trần đã từng phải cho người đục núi, lấp sông ở nơi đây để trấn yểm các huyệt mạch đế vương. Vậy nên, nói Thanh Hóa là vùng đất địa linh, nhân kiệt từ ngàn xưa đến nay quả chẳng ngoa chút nào.

Chủ Đề