Để chuẩn bị kháng chiến nhà Trần tổ chức cuộc tập trận lớn và duyệt binh ở địa điểm nào

sự chuẩn bị của nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai [1285]?

Nhà Trần chuẩn bị kháng chiến chống quân Nguyên lần 2: CHƯƠNG III. NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI TRẦN [THẾ KỈ XIII – XIV]. Sau khi biết tin quân Nguyên mượn đường đánh Cham-pa nhưng chỉ là tìm cớ xâm lược Đại Việt, vua Trần triệu tập hội nghị các vương hầu, quan lại ở Bình Than [Chí Linh, Hải Dương] để bàn kế đánh giặc.

Sau khi biết tin quân Nguyên mượn đường đánh Cham-pa nhưng chỉ là tìm cớ xâm lược Đại Việt, vua Trần triệu tập hội nghị các vương hầu, quan lại ở Bình Than [Chí Linh, Hải Dương] để bàn kế đánh giặc.Trần Quốc Tuấn [Trần Hưng Đạo] được vua Trần giao trọng trách Quốc công tiết chế – chỉ huy cuộc kháng chiến. Ông soạn Hịch tướng sĩ để động viên tinh thần chiến đấu của quân đội.Đầu năm 1285, vua Trần mở Hội nghị Diên Hồng, mời các bậc phụ lão có uy tín trong cả nước về Thăng Long họp để bàn cách đánh giặc. Nhà Trần tổ chức cuộc tập trận lớn và duyệt binh ở Đông Bộ Đầu rồi chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu.

cả nước được lệnh chuẩn bị sẵn sàng đánh giặc. Quân sĩ đều thích vào cánh tay hai chữ “Sát Thát” [giết giặc Mông cổ].

Lý thuyết:

Mục 2

2. Nhà Trần chuẩn bị kháng chiến

- Vua Trần triệu tập Hội nghị các vương hầu, quan lại tại Bình Than [Chí Linh, Hải Dương] để bàn kế đánh giặc.

- Trần Quốc Tuấn - chỉ huy cuộc kháng chiến soạn “Hịch tướng sĩ” để động viên tinh thần chiến đấu của quân đội.

- Đầu năm 1285, vua Trần mở Hội nghị Diên Hồng, mời các bậc phụ lão có uy tín trong cả nước về Thăng Long để họp bàn cách đánh giặc => Tại đây, các cụ bô lão đã cùng thế hiện ý chí quyết tâm đánh giặc.

- Chuẩn bị khác:

+ Tổ chức cuộc tập trận lớn và duyệt binh ở Đông Bộ Đầu rồi chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu.

+ Nhân dân luyện tập, cả nước được lệnh chuẩn bị sẵn sàng đánh giặc.

+ Binh sĩ đều thích vào cánh tay 2 chữ “Sát thát” [giết giặc Mông Cổ].

Nội dung chính:

Các bước chuẩn bị kháng chiến chống quân Nguyên của nhà Trần.

Quân đội nhà Trần là tổ chức quân đội của vương triều Trần trong lịch sử Việt Nam, tồn tại trong thế kỷ 13 và 14. Hoạt động quân sự nhà Trần diễn ra ở cả trong nước lẫn bên ngoài biên ải. Quân đội thời nhà Trần được đánh giá cao trong lịch sử quân sự Việt Nam vì những chiến công quân sự hiển hách, đặc biệt là sau ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông xâm lược. Quân đội nhà Trần nổi tiếng tinh nhuệ, thiện chiến, kỉ luật cao, một phần nhờ vào khả năng chỉ huy tốt những vị tướng xuất chúng mà điển hình là Tiết chế Quốc công Trần Hưng Đạo hay Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải.

Mục lục

  • 1 Tổng quát
  • 2 Cơ cấu tổ chức
  • 3 Ngân sách
    • 3.1 Cấm quân
      • 3.1.1 Các vệ cấm quân khác
    • 3.2 Biên quân, lộ quân
      • 3.2.1 Biên quân
      • 3.2.2 Lộ quân
    • 3.3 Gia nô quân
  • 4 Các loại binh chủng
    • 4.1 Thủy binh
      • 4.1.1 Thuyền chiến Mông đồng
    • 4.2 Kị binh
    • 4.3 Bộ binh
    • 4.4 Tượng binh
  • 5 Chính sách, chiến lược và chiến thuật đặc trưng
  • 6 Danh sách các cuộc chiến và trận đánh
  • 7 Xem thêm
  • 8 Tham khảo
  • 9 Chú thích

Đối với các định nghĩa khác, xem Bình Than.

Hội nghị Bình Than là một hội nghị quân sự do vua Trần Nhân Tông triệu tập vào tháng 11 năm 1283[1] để bàn phương hướng kháng chiến khi quân Mông Nguyên sang xâm lược Đại Việt lần thứ hai.

Hội nghị Bình Than được tổ chức vào tháng 10 âm lịch năm 1282 ở Bình Than, gần vũng Trần Xá[2][3]. Nguyên tác:

Mùa đông, tháng 10, vua ngự ra Bình Than đóng ở vũng Trần Xá họp vương hầu và trăm quan, bàn kế sách công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu.

Đây là hội nghị của những người nắm giữ trọng trách lãnh đạo sự nghiệp giữ nước và chỉ bàn hai vấn đề thiết yếu nhất: đó là xác định phương hướng chiến lược chống xâm lăng và tổ chức bộ máy chỉ huy chống xâm lăng. Ở hội nghị Bình Than, vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã quyết định trao quyền Tổng chỉ huy quân đội cho Trần Quốc Tuấn; Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư làm Phó đô tướng quân[2][3].

Trần Khánh Dư tuy trước đó có công, nhưng vì thông dâm với công chúa Thiên Thuỵ, vợ của Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Trần Quốc Tuấn, nên bị đoạt hết quan tước, tịch thu tài sản. Trần Khánh Dư về ở Chí Linh làm nghề bán than. Lúc vua Trần tới bến Bình Than, Khánh Dư đội nón lá, mặc áo ngắn ở trên một chiếc thuyền lớn chở than củi. Vua Trần thấy vậy cho mời vào[2][3].

Chính tại hội nghị này, Trần Quốc Toản vì quá trẻ tuổi nên không được dự đã bóp nát quả cam đang cầm trong tay rồi về tập trung hơn một nghìn gia nô và thân thuộc tham gia kháng chiến[2][3].

Theo trang 105 trong Đồng Khánh địa dư chí, phần chép về tỉnh Hải Dương thì Bình Than là nơi cùng hội tụ của bốn con sông [Triêm Đức/Thiên Đức[4], Nguyệt Đức[5], Nhật Đức[6] và sông Minh Đức ở huyện Phượng Nhãn[7]] để rồi chia thành hai con sông khác là Hàm Giang[8] và sông Thủ Chân[9]. Như thế Bình Than là khu vực xung quanh cửa Đại Than [nơi bắt đầu của sông Thái Bình và sông Kinh Thầy] và vùng đất ven cửa Đại Than [ngày nay thuộc về các huyện như Chí Linh [xã Nhân Huệ], Nam Sách [các xã Hiệp Cát, Nam Hưng], Gia Bình [xã Cao Đức], Lương Tài [các xã Trung Kênh, An Thịnh]] đều có khả năng là nơi diễn ra hội nghị Bình Than.

Theo chú thích số 821 và 822 của Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Bình Than là đoạn sông Lục Đầu chảy qua huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng ngày nay [nay là Hải Dương], và vũng Trần Xá [Trần Xá loan] có lẽ là chỗ hợp lưu hai con sông Thái Bình và Kinh Thầy. Chỗ này về sau vẫn còn xã Trần Xá[10][11]. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục cũng ghi chú trong phần lời chua rằng Bình Than là tên bến đò ở địa phận xã Trần Xá, huyện Chí Linh; và Chí Linh là đất Bàng Châu xưa, một tên nữa là Bàng Hà [điều này thì có lẽ không chuẩn, do Bàng Hà là tên cũ của vùng đất ngày nay là 2 huyện Thanh Hà và Tiên Lãng]; thời thuộc Minh đổi là huyện Chí Linh; nhà Lê cũng theo tên ấy; nay thuộc tỉnh Hải Dương[12]. Ngày nay tại khu vực ven sông Kinh Thầy này vẫn còn làng Trần Xá thuộc xã Nam Hưng, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương ở tọa độ khoảng 21°4′7″B 106°19′38″Đ / 21,06861°B 106,32722°Đ / 21.06861; 106.32722, tương đương với xã Trần Xá, tổng Cao Đôi, huyện Chí Linh được chép tại trang 106 trong Đồng Khánh địa dư chí.

Bên cạnh đó còn có xã Đại Than thuộc tổng Vạn Tư [thời Nguyễn, xem Đồng Khánh địa dư chí, phần tỉnh Bắc Ninh], một địa danh nay thuộc xã Cao Đức [ở tọa độ khoảng 21°5′21″B 106°17′5″Đ / 21,08917°B 106,28472°Đ / 21.08917; 106.28472], huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, bên bờ nam sông Đuống nơi đổ vào Lục Đầu Giang. Vào khoảng năm 1992 đã một cuộc Hội thảo khoa học về Hội nghị Bình Than tổ chức tại Bắc Ninh, cho rằng Hội nghị Bình Than đã diễn ra tại địa danh nằm trong tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên, hội nghị này không đạt kết quả do địa danh thuộc tỉnh Bắc Ninh không phù hợp với ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư cũng như của sách địa dư chí [trong cả hai huyện Gia Bình và Lương Tài thời Nguyễn đều không có xã Trần Xá]. Song dù vậy, sách Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, trang 224, xuất bản năm 1997 vẫn viết:

"Bình Than là bến sông lớn trên cửa sông Đuống đổ vào sông Lục Đầu [nay thuộc xã Đại Than, Gia Lương[13], Bắc Ninh] gần thái ấp Vạn Kiếp của Trần Hưng Đạo, là địa điểm quân sự hiểm yếu".

Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng tháng 2 năm 1242 nhà Trần chia cả nước ra thành 12 lộ[14]. Sử cũ không chép rõ, nhưng căn cứ những tài liệu ghi chép từ trước, thì thấy các lộ như sau: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng, Khoái, Thanh Hóa, Hoàng Giang, Diễn Châu[15]. Vùng đất ngày nay là hai huyện Gia Bình và Lương Tài thì thời Trần thuộc về huyện Yên Định, lộ Bắc Giang, tới thời Minh là huyện An Định thuộc châu Gia Lâm[16]; trong khi hai huyện Chí Linh và Nam Sách [thời Trần đều thuộc Bàng Châu trong lộ Hải Đông, trong quyển 1 sách An Nam chí lược của Lê Tắc chép là Nam Sách Giang lộ], cho nên có thể thấy kiến giải về hội nghị Bình Than gần vũng Trần Xá là địa điểm thuộc Bắc Ninh có vẻ khiên cưỡng, không phù hợp với các kiến giải của 2 bộ cổ sử.

Cho đến thời điểm hiện tại [năm 2011], các di tích lịch sử xuất xứ, gắn bó với nhà Trần đã được hoàn chỉnh, chỉ duy nhất có Hội nghị Bình Than vẫn còn bỏ ngỏ. Chính vì sự chậm trễ này nên sách giáo khoa lớp 7 về môn lịch sử và Đại cương lịch sử Việt Nam có lẽ đã biên soạn không đúng về địa danh đã được chỉ rõ trong Đại Việt Sử ký Toàn thư và Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục.

  • Hội nghị Diên Hồng
  • Trần Hưng Đạo
  • Nhà Trần
  • Trần Khánh Dư
  • Trần Quốc Toản

  1. ^ “Lịch sử Tư tưởng Quân sự Việt Nam tập 1”. Chú thích có tham số trống không rõ: |Bộ Quốc phòng Việt Nam - Viện Lịch sử= [trợ giúp]; |url= trống hay bị thiếu [trợ giúp]
  2. ^ a b c d Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Toàn Thư - Quyển V: Kỷ Nhà Trần - Nhân Tông hoàng đế
  3. ^ a b c d Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, trang 224.
  4. ^ Ngày nay gọi là sông Đuống.
  5. ^ Ngày nay gọi là sông Cầu.
  6. ^ Ngày nay gọi là sông Thương.
  7. ^ Ngày nay gọi là sông Lục Nam.
  8. ^ Ngày nay gọi là sông Thái Bình
  9. ^ Ngày nay gọi là sông Kinh Thầy.
  10. ^ Chú thích 821
  11. ^ Chú thích 822
  12. ^ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, trang 225.
  13. ^ Năm 1999, huyện Gia Lương tách ra thành 2 huyện Gia Bình và Lương Tài.
  14. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư - Quyển V: Kỷ Nhà Trần - Thái Tông Hoàng Đế
  15. ^ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, trang 199.
  16. ^ Đồng Khánh địa dư chí, tỉnh Bắc Ninh, tr. 508.

  • Hội nghị Bình Than tại Từ điển bách khoa Việt Nam

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Hội_nghị_Bình_Than&oldid=68608859”

Video liên quan

Chủ Đề