Định giá trái phiếu có phiếu dựa trên mô hình nào

1.1. Giá trị thanh lý và giá trị hoạt động

Cặp khái niệm này dùng để  chỉ  giá  trị  của doanh nghiệp dưới hai giác  độ khác nhau:

-  Giá  trị  thanh lý  [liquidation value]  là  giá  trị  hay số  tiền thu  được khi bán doanh nghiệp hay tài sản không còn tiếp tục hoạt động nữa. 

-  Giá  trị  hoạt  động  [goingconcern value]  là  giá  trị  hay số  tiền thu  được khi bán doanh nghiệp vẫn còn tiếp tục hoạt động. Hai loại giá  trị này ít khi bằng nhau, thậm chí giá trị thanh lý đôi khi còn cao hơn cả giá trị hoạt động.

1.2. Giá trị sổ sách và giá trị thị trường

Giá  trị  sổ  sách  [book value],  có  thể  hiểu là  giá  trị  sổ  sách của một tài sản hoặc giá  trị  sổ  sách của một doanh nghiệp. Giá  trị  sổ  sách của tài sản tức là  giátrị  kế  toán của tài sản đó, nó  được tính bằng chi phí  mua sắm tài sản trừ đi phần khấu hao tích lũy của tài sản  đó. Giá  trị  sổ  sách của doanh nghiệp  tức là  giá  trị toàn bộ  tài sản của doanh nghiệp trừ đi giá  trị các khoản nợ phải trả và giá trị cổ phiếu ưu đãi được liệt kê trên Bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp.

-  Giá  trị  thị  trường  [market value]  là  giá  trị  của tài sản hoặc  giá trị của doanh nghiệp  được giao dịch trên thị  trường. Nhìn chung, giá  trị  thị  trường của doanh nghiệp thường cao hơn giá trị thanh lý và giá trị hoạt động của nó.

1.3. Giá trị thị trường và giá trị lý thuyết

Cặp giá trị này thường dùng để chỉ giá trị của chứng khoán, giá trị của các loại tài sản tài chính.

-  Giá  trị thị  trường  [market  value]  của một chứng khoán tức là  giá  trị  của chứng khoán đó khi nó được giao dịch mua, bán trên thị trường.

- Giá trị lý thuyết hay giá trị nội tại [intrinsic value] của một chứng khoán là  giá  trị  của  chứng  khoán  đó  dựa  trên  những  yếu  có  liên  quan  khi  định  giá chứng khoán đó. Nói khác đi, giá trị lý thuyết của một chứng khoán tức là giá trị kinh  tế  của  nó  và  trong  điều  kiện  thị  trường  hiệu  quả  thì  giá  thị  trường  của chứng khoán sẽ phản ánh gần đúng giá trị lý thuyết của nó

Trái phiếu  [bond]:  là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Bằng chứng được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như:  chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử.Trái phiếu  là  công cụ  nợ  dài hạn do Chính phủ  hoặc công ty phát hành nhằm huy động vốn dài hạn. Trái phiếu do chính phủ phát hành gọi là  trái phiếu chính phủ  [government bond]  hay trái phiếu kho bạc [treasury bond]. Trái phiếu do công ty phát hành gọi là trái phiếu công ty [corporate bond].Trên trái phiếu bao giờ cũng có ghi một số tiền nhất định, gọi là mệnh giá của trái phiếu.  Mệnh giá  [face or par value] tức là  giá  trị  được công bố  của tài sản. Ngoài việc công bố  mệnh giá, người ta còn công bố  lãi suất của trái phiếu. 

Lãi suất mà người phát hành công bố đuợc gọi là lãi danh nghĩa của trái phiếu tức là  lãi suất mà  người mua trái phiếu  được hưởng, nó  được tính  bằng  số tiền lãi được hưởng chia cho mệnh giá của trái phiếu tuỳ theo thời hạn nhất định.

-  Định giá  trái phiếu  tức là  xác  định giá  trị  lý  thuyết của trái phiếu một cách chính xác và công bằng. Giá trị của trái phiếu được định giá bằng cách xác định giá  trị  hiện tại  của toàn bộ  thu nhập nhận được trong thời hạn hiệu lực của trái phiếu.

Trái phiếu vĩnh cửu [perpetual bond or consol] là trái phiếu không bao giờ đáo hạn. Giá  trị  của loại trái phiếu này  được xác  định bằng giá  trị  hiện tại  của dòng tiền hàng năm vĩnh cửu mà trái phiếu này mang lại. Giả sử chúng ta gọi:

• I là tiền lãi cố định được hưởng mãi mãi

• Pd là giá trị của trái phiếu

• rd là tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư thì  giá  của trái phiếu vĩnh cửu chính là  tổng giá  trị  hiện tại  của toàn bộ

tiền lãi thu được từ trái phiếu.

Công thức xác  định  giá trị hiện tại của dòng  tiền  vĩnh cửu  do trái phiếu đưa lại như sau

2.2. Định giá trái phiếu có kỳ hạn được hưởng lãi

Trái phiếu có  kỳ  hạn  được hưởng lãi [nonzero coupon bond] là  loại trái phiếu có  xác  định thời hạn  đáo hạn và  lãi suất  được hưởng qua từng thời hạn nhất  định.  Khi  mua  loại  trái  phiếu  này  nhà  đầu  tư  được  hưởng  lãi  định  kỳ, thường là hàng năm, theo lãi suất công bố [coupon rate] trên mệnh giá trái phiếu và được thu hồi lại vốn gốc bằng mệnh giá khi trái phiếu đáo hạn. 

Nếu sử dụng các ký hiệu:

• MV là mệnh giá trái phiếu

• n là số năm trái phiếu còn lưu hành cho đến khi đáo hạn, chúng ta  có  giá  trị  của trái  phiếu  bằng  tổng  giá  trị  hiện tại  của  toàn  bộ dòng tiền thu nhập từ trái phiếu mang lại trong tương lai, được xác định như sau:

Trái  phiếu  kỳ  hạn  không  hưởng  lãi  [zero-coupon  bond]  là  loại  trái  phiếu không trả lãi định kỳ mà được bán với giá thấp hơn nhiều so với mệnh giá. Tại sao nhà  đầu tư  lại mua trái phiếu không  được hưởng lãi? Lý  do là  khi mua loại trái phiếu này họ vẫn nhận được lợi tức, chính là phần chênh lệch giữa giá mua gốc của trái phiếu với m ệnh giá của nó.

Phương pháp định giá loại trái phiếu này cũng tương tự như cách định giá loại trái phiếu kỳ  hạn được hưởng lãi, chỉ  khác  ở  chỗ  lãi suất  ở  đây bằng không nên toàn bộ  phần lãi  định kỳ  bằng không. Do vậy, giá  trị  của trái phiếu không hưởng lãi được định giá như là mệnh giá khi trái phiếu đáo hạn.

2.4. Định giá trái phiếu trả lãi nửa năm

Thông  thường  trái  phiếu  được  trả  lãi  hàng  năm  một  lần  nhưng  đôi  khi cũng có  loại trái phiếu trả  lãi  nửa năm một  lần  tức là  trả  lãi mỗi năm hai lần.

Kết quả  là  mô  hình  định giá  trái phiếu thông thường phải có  một số  thay  đổi  thích hợp để định giá trong trường hợp này.

2.5. Phân tích sự biến động giá trái phiếu

Trong các mô  hình  định  giá  trái phiếu trình bày  ở  các phần trước  có thể thấy rằng giá trái phiếu [Pd] là một hàm số phụ thuộc các biến sau đây:

• I là tiền lãi cố định được hưởng từ trái phiếu

• rdlà tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư

• MV là mệnh giá trái phiếu

• n là số năm trái phiếu còn lưu hành cho đến khi đáo hạn

Trong  đó,  các biến I và  MV không thay  đổi sau khi trái phiếu  được phát hành, trong khi các biến n và  rd thường xuyên thay  đổi theo thời gian và  tình hình biến  động lãi suất trên thị  trường.  Để  thấy  được sự  biến  động của giá  trái phiếu khi lãi suất thay đổi, chúng ta xem ví dụ như sau:

Giả  sử  REE  phát  hành  trái  phiếu  mệnh  giá  1000$  thời  hạn  15  năm  với mức  lãi  suất hàng năm  là  10%. Tỷ  suất lợi nhuận nhà  đầu  tư  đòi  hỏi  trên  thịtrường lúc phát hành là 10%, bằng với lãi suất của trái phiếu. Khi ấy giá bán trái phiếu sẽ là:

Pd= 100[7,6061] + 1000[0,2394] = 1000$

Trong trường hợp này trái phiếu  được bán  ở  mức giá  bằng mệnh giá  của nó. Giả  sử  sau khi phát hành, lãi suất trên thị  trường giảm từ  10% xuống còn 8%. Cả  lãi suất trái phiếu và  mệnh giá  vẫn không  đổi, nhưng giá  trái phiếu bây giờ sẽ là:

Pd= 100[8,5595] + 1000[0,3152] = 1171,15$

Trong trường hợp này trái phiếu  được bán  ở  mức giá  cao hơn mệnh giá của nó. Giả sử sau khi phát hành lãi suất trên thị trường tăng lên đến 12%. Cả lãi suất trái phiếu và mệnh giá vẫn không đổi, nhưng giá trái phiếu bây giờ sẽ là:

Pd= 100[6,8109] + 1000[0,1827] = 863,79$

Trong trường hợp này trái phiếu  được bán  ở  mức giá  thấp hơn mệnh giá của nó. Từ việc phân tích 3 trường hợp trên đây có thể rút ra một số nhận xét đối với trái phiếu có lãi suất cố định:

-  Khi trái phiếu được lưu hành, giá của trái phiếu được hình thành trên thị trường do  cung và  cầu  quyết  định. Một yếu  tố  tác  động trực  tiếp đến giá  trái phiếu  hiện hành là lãi  suất thị  trường. Sự  biến động  lãi suất thị  trường sẽ  tác động đến giá trái phiếu hiện hành nhưng ngược chiều  với sự biến động của lãi suất.

- Khi lãi suất thị trường bằng lãi suất danh nghĩa của trái phiếu thì giá của trái phiếu đang lưu hành được bán bằng với mệnh giá.

-  Khi lãi suất thị trường tăng và cao hơn lãi suất danh nghĩa của trái phiếu thì giá trái phiếu đang lưu hành sẽ giảm và thấp hơn mệnh giá.

-  Khi lãi suất thị trường giảm và thấp hơn lãi suất danh nghĩa thì giá trái phiếu đang lưu hành sẽ tăng và cao hơn mệnh giá.

-  Càng tiến tới gần ngày đáo hạn, thì giá của trái phiếu đang lưu hành có xu hướng càng tiếp cận dần gần với mệnh giá của nó, ngoại trừ trái phiếu của các Công ty có nguy cơ mất khả năng thanh toán hay phá sản.

Trong các phần trước chúng ta đã biết cách định giá trái phiếu dựa trên cơ sở  biết trước lãi  được trả  hàng năm và  tỷ  suất lợi nhuận mà  nhà  đầu tư  đòi hỏi dựa trên lãi suất thị  trường, mệnh giá  và  thời hạn của trái phiếu. Ngược lại, nếu biết trước giá trái phiếu và các yếu tố khác như  lãi hàng năm được hưởng, mệnh giá  hoặc giá  thu hồi trái phiếu trước hạn và  thời hạn của trái phiếu chúng ta có thể xác định được tỷ suất lợi nhuận hay lãi suất đầu tư trái phiếu.

+ Lãi suất đầu tư trái phiếu đáo hạn [Yield to maturity] Giả  sử  bạn mua một trái phiếu có  mệnh giá  1000$, thời hạn 14 năm và được hưởng lãi suất hàng năm là  15% với giá  là  1368,31$. Bạn giữ  trái phiếu này cho đến khi đáo hạn, lãi suất đầu tư trái phiếu này là bao nhiêu? Để xác định lãi suất đầu tư khi trái phiếu đáo hạn, chúng ta giải phương trình sau

Sử dụng máy tính tài chính hoặc Excel để giải phương trình trên, chúng ta có được lãi suất đầu tư rd= 10%.

+ Lãi suất đầu tư trái  phiếu được thu hồi [Yield to call]  Đôi  khi  công  ty  phát  hành  trái  phiếu  có  kèm  theo  điều  khoản  thu  hồi 

[mua lại] trái phiếu trước hạn.  Điều này thường xảy ra nếu như  công ty dự  báo lãi suất sẽ  giảm sau khi phát hành trái phiếu. Khi  ấy công ty sẽ  thu hồi lại trái phiếu  đã  phát hành với lãi suất cao và  phát hành trái phiếu mới có  lãi suất thấp hơn để thay thế  và nhà  đầu tư  sẽ nhận được lợi suất cho  đến khi trái phiếu được thu hồi [YTC] thay vì nhận lãi suất cho đến khi trái phiếu đáo hạn [YTM]. Công thức tính lãi suất trái phiếu lúc thu hồi hay còn gọi là lãi suất hoàn vốn như sau:

Trong đó n là số năm cho đến khi trái phiếu được thu hồi, Pc là giá thu hồi trái phiếu và rd là lãi suất khi trái phiếu được thu hồi hay còn gọi là lãi suất hoàn vốn. Nếu  biết giá của trái phiếu [Pd] và giá khi thu hồi trái phiếu [Pc] và  lãi suất hàng năm [I] chúng ta có thể giải phương trình trên để tìm lãi suất khi trái phiếu được thu hồi [rd= YTC].

3. Định giá cổ phiếu ưu đãi

Cổ phiếu là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.

Bằng chứng được thể hiện dưới nhiều hình thức như: chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử.

Xét theo quyền lợi của nhà đầu tư, cổ phiếu được chia thành 2 loại là cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu mà công ty phát hành cam kết trả tỷ lệ cổ tức cố định hàng năm và không có tuyên bố ngày đáo hạn. Rõ ràng loại cổ phiếu  này có  những tính chất giống như  trái phiếu vĩnh cửu. Do  đó, mô  hình định giá trái phiếu vĩnh cửu có  thể  áp dụng để  định giá  cổ  phiếu  ưu  đãi. Giá  trị  cổ  phiếu ưu đãi được xác định theo công thức sau:

Trong đó  Dps là  cổ  tức hàng năm của cổ  phiếu ưu đãi và  rps là  tỷ  suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư.

4.1. Cơ sở

Cổ phiếu thường là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của  người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần thường của công ty cổ phần. Cổ  phiếu thường là  chứng chỉ  chứng nhận  đầu tư  vào công ty cổ  phần. Người mua cổ  phiếu thường  được chia  lợi nhuận hàng năm từ  kết quả  hoạt  động của công ty và  được sở  hữu một phần giá  trị  công ty tương  ứng với giá  trị  cổ  phiếu 

họ đang nắm giữ.Khi định giá  trái phiếu và  cổ  phiếu  ưu  đãi chúng ta thấy  giá  trị  trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi chính là tổng giá trị hiện tại của dòng tiền thu nhập tạo ra cho nhà đầu tư.

Tương tự, giá  trị  cổ  phiếu thường cũng được xem như  là  tổng  giá  trị  hiện tại của  dòng tiền thu nhập tạo ra cho nhà  đầu tư  từ  cổ  phiếu thường. Do  đó, mô hình định giá cổ phiếu thường nói chung có dạng như sau:

Trong đó dt là cổ tức một cổ phiếu thường được chia ở thời kỳ t và re là tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư. Tuy nhiên mô hình này chỉ phù hợp với tình huống nhà đầu tư mua cổ phiếu và giữ mãi mãi để hưởng cổ tức. Nếu nhà đầu tư mua cổ phiếu và chỉ giữ nó 2 năm sau đó bán lại với giá là P2, thì giá trị cổ phiếu sẽ là:

4.2. Mô hình chiết khấu cổ tức

Mô hình chiết khấu cổ tức được thiết kế để tính giá trị nội tại hay giá trị lý thuyết  [intrinsic value]  của cổ  phiếu thường. Mô  hình này được sử  dụng với giả định: [1] biết  được  động thái tăng trưởng của cổ  tức, và  [2] biết trước tỷ  suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư. 

Mục tiêu hàng đầu của phân tích cơ bản là tìm ra giá hợp lý của cổ  phiếu. Trên cơ  sở  đó  có  thể  so sánh và  đối chiếu với giá  cổ  phiếu trên thị  trường  để xem xét, cổ  phiếu đang được thị  trường đánh giá  cao hay bị  đánh giá thấp từ đó giúp cho người đầu tư đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Ước định giá cổ phiếu  hay xác  định giá  trị  nội tại của cổ  phiếu cần phải dựa trên cơ  sở  xem xét tình hình hiện tại và tương lai của doanh nghiệp.

Người đầu tư vào cổ phiếu hy vọng sẽ  thu được các khoản thu nhập trong tương lai do cổ  phiếu  đưa lại. Vì  thế, có  thể  coi giá  cổ  phiếu là  giá  trị  hiện tại của các khoản thu được trong tương lai do cổ  phiếu mang lại bao gồm khoản cổ tức hàng năm có  thể  nhận  được và  khoản tiền có  thể  thu  được khi nhượng bán lại cổ phiếu. Do vậy, giá cổ phiếu có thể ước định theo công thức tổng quát sau.

Trong đó:   Pe: Giá trị cổ phiếu thường được ước định.

dt: Khoản cổ tức dự tính nhận đuợc ở năm thứ t

Pn: Giá bán lại cổ phiếu dự tính ở cuối năm thứ nr

e: Tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư

n: Số năm nắm giữ cổ phiếu của nhà đầu tư.

Với quan điểm đầu tư vào cổ phiếu là đầu tư vào Công ty, người đầu tư là chủ  sở  hữu Công ty. Với quan  điểm này thì  việc  đầu tư  vào cổ  phiếu là  đầu tư dài hạn với hy vọng vào tương lai phát triển của doanh nghiệp từ  đó  thu  được  những khoản thu nhập ngày càng lớn hơn và do vậy, khi n→ thì:

Như  vậy, trên quan  điểm đầu tư  dài hạn thì  giá  cổ  phiếu là  giá  trị  hiện tại của dòng cổ  tức nhận  được trong tương lai và  vì  thế  biểu thức  [2]  được gọi là"Mô  hình chiết khấu cổ  tức" trong  định giá  cổ  phiếu.  Để  ước  định  được giá  cổ phiếu thường cần  ước tính số  cổ  tức có  thể  nhận  được hàng năm. Vì  thế, thông  thường người ta phân biệt làm 3 trường hợp.

+ Trường hợp cổ tức tăng đều đặn hàng nămTrong trường hợp này, giả  định Công ty trả  cổ  tức hàng năm cho cổ đông theo một tỷ lệ tăng đều đặn là g và d0 là cổ tức được trả ở năm trước. Vậy, cổ tức dự tính nhận được ở năm thứ nhất là d1=d0+d0.g = d0[1+g] và ở năm thứ hai là d2= d1[1+g] = d0[1+g]2.... từ đó, giá cổ phiếu được xác định:

Biến đổi công thức trên có thể rút ra:

+ Trường hợp cổ tức hàng năm không tăng, không giảm.

Trong  trường hợp cổ  tức hàng năm chia cho cổ  đông không thay  đổi, tức là g=0. Vậy, giá cổ phiếu được ước định bằng công thức sau:

+ Trường hợp cổ tức tăng không đều đặn.

Trong thực tế  khó  có  một Công ty nào phát triển theo một    tốc  độ  bất biến. Một cách tiếp cận thực tế  hơn có  thể  thấy rằng các công ty có  chu kỳ  sống và  trong  đó, có  thể  chia thành các giai  đoạn khác nhau. Mỗi giai  đoạn cũng có  sự  tăng trưởng khác nhau và  theo  đó  công ty có  định hướng phân chia cổ  tức với tỷ  lệ tăng trưởng không giống nhau cho mỗi giai đoạn hay thời kỳ.

Một mô hình đơn giản nhất về chu kỳ sống của một Công ty là có thể chia  thành hai giai  đoạn: Giai  đoạn  tăng trưởng  và  giai  đoạn  phát triển ổn định. Giai  đoạn tăng trưởng  là  giai đoạn đầu của Công ty với tốc  độ  tăng trưởng  cao. Tiếp đó là giai đoạn phát triển với tốc độ tăng trưởng ổn định.Nếu giả  định một công ty có  giai  đoạn  tăng trưởng  trong T năm và  trong giai  đoạn này tỷ  lệ  tăng cổ  tức [%] hàng năm là  Gs và  sau  đó  là  giai  đoạn  phát triển  với tỷ  lệ  tăng cổ  tức [%] hàng năm đều nhau là  g, vậy theo mô  hình chiếu khấu cổ  tức, giá  cổ  phiếu thường của công ty có  thể  xác  định theo công thức tổng quát sau:

4.3.  Phương  pháp  định  giá  cổ  phiếu  theo  hệ  số  PE  [Price-Earnings ratio]

Phương pháp này đưa ra cách tính giá cổ phiếu rất đơn giản bằng cách lấy lợi nhuận kỳ vọng trên mỗi cổ phiếu nhân với hệ số PE bình quân của ngành.

Ví  dụ  một công ty kỳ  vọng sẽ  kiếm được lợi nhuận sau thuế  trên mỗi cổ phiếu là 3$ trong năm tới và hệ số PE bình quân của ngành là 15 thì giá cổ phiếu  sẽ là:

V = [Ln sau thuế kỳ vọng trên cổ phiếu] x [Hệ số PE bình quân ngành] 

V = 3$ x 15 = 45$

Phương pháp này đơn giản, dễ áp dụng nhưng có nhiều hạn chế;

-  Thứ  nhất  việc  định giá  cổ  phiếu thường không chính xác do  phụ  thuộc vào việc ước lượng lợi nhuận kỳ vọng trên cổ phiếu. 

-  Thứ  hai,  làm thế  nào để  chọn được hệ  số  PE phù hợp và  liệu nhà  đầu tư có  tin tưởng vào  hệ  số  PE bình quân của ngành hay không, nếu có  thì  vẫn còn  sai số giữa hệ số PE của ngành và PE của công ty

Bạn nên xem lại bài viết: rủi ro và tỷ suất sinh lời

Chúc bạn thành công !

Video liên quan

Chủ Đề