Độc lập tự do hạnh phúc tiếng nhật là gì năm 2024

Chị năm nay ngót nghét 50, con gái con trai đủ cả, kinh tế vững mạnh, đã ly hôn hơn chục năm.. Nhìn con cái là biết nỗ lực của single mom như Chị nhiều đến nhường nào. Chị bảo "Quen rồi, cô đơn thì chả sợ, nhưng có người đồng hành thì vẫn vui hơn". Mà ở Việt Nam, thành kiến nhiều quá, Chị không muốn bị mang tiếng "đang tuyển phi công".

Bạn bè mình thì chuyện single mom cũng khá nhiều. Kinh tế độc lập thì bản lĩnh chính trị vững vàng, cầm lên được thì đặt xuống được. Nhiều người không biết chuyện thì cứ ái ngại, tội cho con cái, tội cho người phụ nữ. Thực ra, sống độc thân có vô vàn điều thú vị.

Nói chuyện với một bạn trẻ chưa ra trường, bạn tâm sự về sự CHÊNH VÊNH của người trẻ, rằng không định hướng được cuộc đời nên cũng chả biết sẽ đi về đâu. Câu trả lời nhiều khi rất vô tình: "Ừ, thì ra trường đi kiếm việc, lương tầm 8-10 triệu là ok". Ủa, sao bạn đánh giá thấp bản thân quá vậy?

Ở Việt Nam mình, câu chuyện SỐNG ĐỘC LẬP TỰ DO như vầy đang và sẽ ngày càng nhiều hơn, đơn giản là vì CHÚNG TA CÓ NHIỀU CHỌN LỰA HƠN SO VỚI NGÀY XƯA. Thời Ông Bà, Bố Mẹ chúng ta, khi cưới xong thì sẽ cố gắng vun vén cho gia đình, có bực nhau chuyện này chuyện kia thì vẫn lấy ĐẠI CỤC LÀM TRỌNG, ở đây hàm ý là GIA ĐÌNH LÀ NỀN MÓNG ĐỂ THẾ HỆ CON CÁI YÊN TÂM PHÁT TRIỂN. Nên với thế hệ trước mình, hai chữ ĐẶT GIA ĐÌNH, CON CÁI LÊN TRÊN BẢN THÂN nó là bình thường, tất yếu. Ngày nay, có thể đã đi chung một đoạn đường, nhưng một vài cảm xúc tiêu cực tích tụ, một vài tụ kiểu "anh em nương tựa" thì hai bên có thể ra quyết định DỪNG CUỘC CHƠI trong 1 nốt nhạc.

Trước sự THỰC TẾ NÓI TRÊN, Cơ hội nào cho Single Mom Việt nam? Cơ hội nào cho các bạn GenZ đang chênh vênh? Nếu chúng ta hướng tầm nhìn rộng ra hơn một tí, đôi khi vấn đề nó sẽ khác.

1. Với người Nhật, có một quy tắc là người phụ nữ kết hôn xong là coi như ở nhà luôn, chăm lo việc sinh con và nuôi dạy con. Nên đàn ông mà không lo được cho gia đình thì coi như đừng mơ có cửa lấy vợ.

2. Với người Hàn Quốc, Trung Quốc, phải rất giàu có: nhà lầu, xe hơi, sổ tiết kiệm 6-7 chữ số $, bố mẹ có NỀN TẢNG thì mới mong lấy được vợ.

3. Với người Pakistan, Mã Lai, Indo, Ấn Độ, rất nhiều người cũng có mô típ tương tự, rằng kết hôn là điều khá khó khăn, chủ yếu phải đủ năng lực kinh tế.

4. Với đàn ông Âu Mỹ thì lại càng rõ hơn chuyện trân trọng người phụ nữ. Ra đường rất dễ thấy cảnh đàn ông Châu Âu/Mỹ cưng con, xánh đồ cho Vợ đi thong dong. Họ cực kỳ sợ ly hôn vì thiệt hại của họ sẽ rất kinh hoàng nếu đi đến cảnh chia tay.

5. Còn với khá nhiều đàn ông Việt vẫn nuôi tư tưởng gia trưởng, "từ chối sản phẩm lỗi", muốn người yêu mình còn trinh nguyên cơ hoặc nhất định không lấy single mom, muốn vợ mình "trung hậu, đảm đang" cơ, muốn gia đình mình là chuẩn mực cơ.. Rồi thì đàm tiếu, hạ thấp mấy cô Single mom, mấy cô FA ngoài 35.

Đó là lý do mà trước đây ở miền Tây mình nở rộ phong trao lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc.. với cái giá vô cùng rẻ mạc. Những "chàng rễ" ấy vốn đã bị "bít cửa" lấy vợ ở nước nhà mới phải lo đi kiếm vợ ở các nước đang phát triển. Chỉ thương cho các "cô dâu Việt xuất ngoại", tiếng Anh không có, trình độ không có, nhiều khi chỉ vì muốn có khoản tiền giúp cho gia đình vốn quá nghèo mà "cắn răng đi làm dâu xứ người". Một phần của lý do phụ nữ ở miền Tây thà đi lấy chồng nước ngoài là do văn hoá của nam giới miền Tây, tối ngày nhậu nhẹt, bê trễ chuyện gia đình, không có nền tảng tài chính vững vàng nên cuộc đời hay rơi vào bế tắc.

Nếu chúng ta biết được chọn lựa không nằm ở 50 triệu đàn ông Việt mà là 1 tỷ đàn ông châu Á hay rộng hơn là 3 tỷ đàn ông trên thế giới, thì câu chuyện SỐNG HẠNH PHÚC THEO Ý MÌNH nó giản đơn hơn rất nhiều. Ở Việt Nam nhiều thành kiến, thôi thì qua Pakistan nè, qua Nhật nè, qua Hàn nè, qua Sing, Hongkong, Thượng Hải.. nè. Cơ hội bao la mà!

Vậy nên, nghĩ rộng một chút, chuẩn bị cho mình vốn tiếng Anh, tiếng Hoa, tiếng Hàn, tiếng Nhật..[nên lưu loát ít nhất 1 ngoại ngữ] là đã có giá trong thị trường hơn 1 tỷ đàn ông châu Á nói trên. Rồi thì chuẩn bị cho mình một PHONG THÁI Á ĐÔNG là trai nước ngoài ghiền mình luôn. Rồi thì đi du lịch nhiều nhiều, mở rộng tầm nhìn, kết nối bạn bè trên thế giới, thì cơ hội tìm được người phù hợp để đồng hành nó dễ ẹc à. Rồi thì BỎ TYNDER ĐI, BƯỚC RA NGOÀI VÀ TIẾP XÚC OFFLINE ĐI. Nhớ một điều, làm gì thì làm, PHẢI LÀM CHỦ VỀ KINH TẾ và TRÍ TUỆ!

Sắc lệnh luật số 50 ngày 9-10-1945, văn bản luật đầu tiên có ghi tiêu ngữ: "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc"

Tiêu ngữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" ghi dưới Quốc hiệu Việt Nam từ 1945 đến nay [từ Việt Nam dân chủ cộng hòa sang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam] vẫn không thay đổi nội dung và hình thức trình bày; chỉ càng ngày càng được nhận thức đầy đủ bản chất và ý nghĩa lịch sử thiêng liêng, trọng đại.

Tại sắc lệnh Luật số 50 ngày 9-10-1945, lần đầu tiên 6 chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" đứng trang trọng giữa đầu trang sắc lệnh.

Đọc văn bản sắc lệnh số 49 ngày 12-10-1945 mới thấy rõ hơn những căn cứ: "Xét vì bắt đầu từ ngày 2-9-1945 nước Việt Nam đã tuyên bố độc lập cho toàn thể quốc dân và thế giới biết; Xét vì ngày 24-8-1945 Vua Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị và giao chính quyền lại cho Chính phủ dân chủ cộng hoà; Xét vì cần nêu cao một kỷ nguyên mới để đánh dấu vào lịch sử nước ta, nhưng độc lập, tự do và hạnh phúc mà chính thể dân chủ cộng hòa mang lại cho dân chúng".

Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành sắc lệnh "Khoản I: Các công văn, công điệp, phiếu, trát, đơn từ, các báo chí, chúc tự, điếu văn, khấn vái, cúng lễ... bắt đầu từ ngày ký sắc lệnh này đều phải tiêu đề: Việt Nam dân chủ cộng hòa".

Quốc hiệu là tên gọi chính thức của một quốc gia có chủ quyền hoàn toàn gắn với một thể chế chính trị được lựa chọn khách quan bởi lịch sử. Tiêu ngữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" ghi dưới Quốc hiệu từ đó đến nay [từ Việt Nam dân chủ cộng hòa sang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam] vẫn không thay đổi nội dung và hình thức trình bày; chỉ càng ngày càng được nhận thức đầy đủ bản chất và ý nghĩa lịch sử thiêng liêng, trọng đại.

Hồ Chủ tịch gọi đó là "ba chính sách" và tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa [9-11-1946], Người phát biểu: "Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém".

Trả lời một nhà báo nước ngoài [16-7-1947], Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tuyên bố "Chính sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc".

Trong Lời kêu gọi Thi đua ái quốc [11-6-1948], Người nói đến việc thực hiện "Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc. Ba chủ nghĩa mà nhà đại cách mạng Tôn Văn đã nêu ra".

Tuy đề cao "Tam dân chủ nghĩa" của Tôn Văn nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói đến "chủ nghĩa" chung chung mà Người viết cụ thể dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Người đặc biệt luôn đặt ở hàng đầu hai chữ "Độc lập" như điều kiện tiên quyết tối cần thiết để đảm bảo mọi tự do, hạnh phúc thực sự có cho bất cứ dân tộc, dân quyền hay dân sinh nào.

Còn nhớ khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa kết thúc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người dân An Nam gửi đến Hội nghị quốc tế ở Versseilles, Pháp [năm 1919] Bản yêu sách 8 điểm đòi tự do độc lập cho thuộc địa, trong đó rất nhấn mạnh đến dân quyền khi nêu các điểm cụ thể: "3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. Tự do lập hội và hội họp; 5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ".

Ngay trong năm ấy, khi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp hỏi mong muốn điều gì, Nguyễn Ái Quốc trực diện đối đáp thẳng: "Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập" và năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Lenin, tìm thấy con đường cách mạng vô sản cũng từ khát khao "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu".

"Độc lập" là giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, tức là phải "tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi"; nhưng "Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin".

"Độc lập" theo con đường cách mạng triệt để là "làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người", "nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do, bình đẳng giả dối".

Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, đọc tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2-9-1945 - Ảnh: T.ĐIỂU

"Độc lập" ở Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 "đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân... xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng dân chủ cộng hòa và thống nhất độc lập". "Độc lập" ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm "Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"; dù "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!"

Nhưng "Độc lập" không tách biệt với "Tự do", "Hạnh phúc" mà phải gắn liền một cách hữu cơ và biện chứng với nhau như những điều kiện và mục tiêu tối thượng.

Trong thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng [17-10-1945], Hồ Chủ tịch nói rõ "Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì".

Phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc [10-1-1946], Người lý giải: "Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ".

"Tự do" và "Hạnh phúc" là kết quả của "Độc lập" nhưng phải là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi vì "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc".

Nói "Tự do" và "Hạnh phúc" là nói đến người dân được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do Chính phủ chăm lo và bản thân mỗi con người biết mưu cầu chính đáng. "Tự do" và "Hạnh phúc" cơ bản nhất, tối thiểu nhất theo cách nói của Hồ Chí Minh là "đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"; người dân từ chỗ có ăn, có mặc, được học hành đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc và cống hiến...

Điều đó trong chế độ dân chủ cộng hòa thì mỗi người dân được pháp luật đảm bảo điều kiện trong việc tự cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính độc lập cá nhân và phát triển toàn diện; việc mưu cầu hạnh phúc và đem lại phúc lợi xã hội cho con người trở thành quyền công dân, mỗi người dân và toàn xã hội đều có nghĩa vụ và trách nhiệm chung.

Như thế ta hiểu tại sao 6 chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" cần có gạch nối 3 từ không thể tách biệt, như là điều kiện và mục đích của nhau vậy. Kể từ năm 1945, đó là nhiệm vụ và quyền lợi của "tất cả đồng bào Việt Nam, không phân biệt gái trai, già trẻ, giàu nghèo, tôn giáo, chủng tộc, cùng nhau đoàn kết để giữ vững nền độc lập và mưu cầu hạnh phúc tự do".

Càng tiến xa hơn trong dòng chảy lịch sử, chúng ta càng thấy rõ tầm chiến lược nhưng rất thiết thực của mục tiêu-đích đến-khát vọng của dân tộc, dân quyền và dân sinh; càng hiểu thêm bản Tuyên ngôn Độc lập được mở đầu bằng "Lời bất hủ": "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"; càng hiểu thấu đời người - như Chủ tịch Hồ Chí Minh "chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".

Và cả 8 mục tiêu chung trong Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc tháng 9-2000 [xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; đạt phổ cập giáo dục tiểu học; tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ; giảm tỉ lệ tử vong ở trẻ em; tăng cường sức khỏe bà mẹ; phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; bảo đảm bền vững về môi trường; thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển] suy cho cùng cũng vẫn không ngoài 6 chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" trong di sản Hồ Chí Minh.

Chủ Đề