Em hiểu thế nào về câu thơ những cuộc đời đã hóa núi sông ta

dưới đây là bài làm phân tích những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi vọng phu hãy tham khảo ngay với wikisecret nhé.

==>> Phân tích đất nước những người vợ nhớ chồng bài làm của học sinh chuyên văn.

Gợi ý

Đề bài:

Bình giảng đoạn thơ sau:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.

1. Mở bài

Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và Đất nước.

2. Thân bài

“Núi Vọng Phu”: địa danh nổi tiếng gắn với sự tích người vợ hóa đá chờ chồng → khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt của người phụ nữ Việt Nam.

Hòn Trống Mái: hai tảng đá xếp chồng lên nhau nằm trên một ngọn núi ở Sầm Sơn, Thanh Hóa → khẳng định tình cảm, sự gắn bó trong tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng.

Tổ Hùng Vương: gắn với truyền thuyết 99 con voi quây bên đền thờ các vua Hùng để phục Tổ → khẳng định niềm tự hào lịch sử vua Hùng.

Núi Bút, Non Nghiên: có hình cây bút và nghiên mực ở Quảng Ngãi, nói lên truyền thống hiếu học của người Việt Nam.

Hạ Long thành: thắng cảnh Hạ Long, một di sản thiên nhiên thế giới.

Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm: sơn danh của những người có công với nước ở Nam Bộ, tự hào về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc.

Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước.

→ Những địa danh được cảm nhận qua những số phận, những cảnh ngộ của con người, sự hóa thân của những con người không tên tuổi như một phần máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân bao đời đã tạo nên Đất Nước này, đã ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông.

3. Kết bài

Khái quát lại nội dung và giá trị của đoạn trích: Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp phần không nhỏ làm nên sự đa dạng, phong phú cho nền văn học Việt Nam.

Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ cách mạng để sáng tạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Chế Lan Viên nhìn suốt chiều dài lịch sử oanh liệt để khẳng định “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Lê Anh Xuân đã tạc vào thơ một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Tố Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời “Ôi! Việt Nam từ trong biển máu. Người vươn lên như một thiên thần”. Với chương Đất Nước trong Mặt đường khát vọng (1974), Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên những cảm nhận sâu sắc về đất nước, về nhân dân, về dân tộc và trách nhiệm lớn lao của tuổi trẻ Việt Nam trước non sông đất nước qua những vần thơ:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở Thừa Thiên Huế là con nhà phê bình văn học Hải Triều, một nhà phê bình xuất sắc đã từng chủ trì lý thuyết “nghệ thuật vị nhân sinh” trong cuộc tranh luận với Hoài Thanh 1936-1939. Đất Nước được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng (1974). Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ sinh viên các đô thị tạm chiếm ở miền Nam trước 1975 trước vận mệnh hiểm nghèo của đất nước; kêu gọi họ hướng về nhân dân mà xuống đường đấu tranh hoà nhập với cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Trong các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm giầu chất suy tưởng, xúc cảm dồn nén, thể hiện một chiều sâu văn hoá, đặc trưng của thế hệ các nhà thơ thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã có một hành trang văn hoá chuẩn bị khá chu đáo trước khi bước vào chiến trường.

Chương Đất Nước khai triển có vẻ phóng túng tự do như một thứ tuỳ bút thơ, nhưng thực ra tứ thơ vẫn tập trung thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân qua các bình diện chủ yếu, đó là đất nước trong chiều dài thời gian lịch sử, đất nước trong chiều rộng không gian lãnh thổ địa lý, đất nước trong bề sâu truyền thống văn hoá, phong tục, lối sống tâm hồn cốt cách dân tộc.

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại cách mạng. Đoạn trích bình giảng trên đây đã thể hiện một cách sâu sắc và cụ thể sự “hoá thân” của nhân dân vào đất nước muôn đời.

Để nói lên công lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhà thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất tên làng trên mọi miền đất nước từ Bắc chí Nam. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sông, thế núi là sự kết tinh đời sống tâm hồn của nhân dân. Xuất phát từ quan niệm của nhà Phật (hoá thân), tác giả đã trình bày những cảm xúc suy tưởng của mình: chính nhân dân đã hoá thân thành đất nước “hoá thân cho dáng hình xứ sở”, làm nên đất nước vĩnh hằng. Những danh lam thắng cảnh không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa mà đã được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hoá thân của những con người không tên, không tuổi.

Với nghệ thuật sâu sắc, từ ngữ giầu hình ảnh gợi cảm, tác giả đã viết lên những hình tượng sinh động, giầu sức khái quát. Từ hình sông, thế núi, từ truyền thống, tác giả đã tạo nên những liên tưởng độc đáo thú vị, giúp người đọc cảm nhận công lao to lớn của nhân dân tròng quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, khiến cho những địa danh ngàn đời của Tổ quốc, qua cái nhìn sắc sảo đầy khám phá của nhà thơ chính là sự hoá thân của những con người bình dị vô danh “Những con người không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.

“Những người vợ…. hòn Trống Mái” Những địa danh, những hình sông thế núi mang hồn người, linh hồn dân tộc. Chúng là sự tượng hình, kết tinh đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân mang đậm chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo Việt Nam. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái là kết tinh của tình yêu chung thuỷ của biết bao người vợ chờ chồng trong chiến tranh liên miên, của sự gắn kết muôn đời, bất chấp mọi sự bão tố của thời gian:

Không hoá thạch kẻ ra đi mà hoá thạch kẻ đợi chờ

Đợi một dáng hình trở lại giữa đơn cô

Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên mà còn nhìn ra trong đó phẩm chất, truyền thống hiếu học của dân tộc ta từ bao đời nay. Những núi Bút non Nghiên phô bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước Việt hay là hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng của mình vào đây?

Người học trò nghèo… non Nghiên

Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước. Những hình ảnh thân thuộc của non sông đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với truyền thống đánh giặc ngoại xâm oanh liệt của nhân dân ta với truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân, với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của Vua Hùng:

Gót ngựa Thánh Gióng… đất tổ Hùng Vương

Cho đến “những con rồng nằm im” cũng góp phần làm nên “dòng sông xanh thẳm”; con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Và cả những địa danh thật nôm na bình dị “Những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Nguyễn Khoa Điềm đã đặt cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân không tên không tuổi “những người dân nào” không ai biết cũng làm nên tên núi, tên sông, và tất cả những cái bình thường trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân cũng hoá thân thành dáng hình xứ sở.

Tính khái quát của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là một hình dáng của tư thế, truyền thống Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc có 4000 năm lịch sử. Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi, chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.

Hình tượng thơ càng được nâng dần lên và chốt vào một câu đầy trí tuệ:

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta

Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tư nhiên và được viết theo thể tự do, câu thơ mở rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hoá linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức biểu hiện và sức khái quát cao. Đó là hình ảnh Đất Nước của Nhân dân – Nhân dân đã hoá thành đất nước. Bởi trên khắp ruộng đồng, gò, bãi, núi, sông đâu đâu cũng là hình ảnh của văn hoá, của lịch sử, của đời sống tâm hồn, cốt cách của Việt Nam./.

wikisecret.com

VĂN MẪU LỚP 12PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ NHỮNG NGƯỜI VỢ... Đà HĨA NÚI SƠNG TATRONG ĐOẠN TRÍCH ĐẤT NƯỚC NGUYỄN KHOA ĐIỀMBÀI MẪU SỐ 1:I/ Mở bài :- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhândân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ơng.- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khátvọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.- Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làmnên không gian địa lý - bức tranh văn hóa đất nước mn màu mn vẻ:“ Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi vọng phu,…………………………………………………………………………Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta”.II/ Thân bài :- Thật vậy, đây là 12 câu thơ mở đầu phần hai của đọan thơ “Đất Nước” với nội dungngợi ca, khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân.1. Trước hết, tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ,có chiều sâu địa lý về những danhlam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Nhà thơ đã kể, liêt kêmột loạt kì quan thiênnhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đấtnước.Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay,ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc.Những ngọn núi, nhữngdịng sơng kia chỉ trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với con người, được cảm thụ qua tâmhồn, qua lịch sử dân tộc.+ Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thươngthủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những biểu tượngvăn hóa .Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để ta có những“ao đầm”…như những di tích lịch sử về q trình dựng nước và giữ nước hào hùng…“ Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống MáiNgười học trị nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”+ Thật sự, nếu khơng có những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến thìkhơng có sự cảm nhận về núi Vọng Phu.Cũng như nếu khơng có truyền thuyết Hùng Vươngdựng nước thì khơng thể có sự cảm nhận nét hùng vĩ của núi đồi quanh đền Hùng.Nói cáchkhác, những núi Vọng Phu, những hịn Trống Mái, những núi Bút, non Nghiên khơng cịn lànhững cảnh thiên nhiên thuần túy nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, sốphận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân củanhững con người khơng tên, khơng tuổi.2.Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâmhồn, máu thịt của nhân dân .Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này,đã đặt tên, ghidấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dịng sơng, tấc đất này.Từ những hình ảnh, nhữngcảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng chaƠi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sơng ta…”.=> Với cấu trúc quy nạp ( đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh…đến khái quát mang tínhtriết lý) , dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng cảnh và những nétđẹp văn hóa dân tộc vơ cùng phong phú, đa dạng trên khắp đất nước.Nên cuối cùng, nhà thơđã khẳng định : trên không gian địa lý đất nước, mỗi địa danh đều là một địac chỉ văn hóađược làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn người Việt.III/ Kết bài:- Đoạn thơ thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của trường ca “Mặt đường khát vọng” củaNguyễn Khoa Điềm : chất chính luận hài hịa chất trữ tình, giọng thơ tự sự ; ngơn từ, hìnhảnh đẹp, giàu sức liên tưởng.- Viết về đề tài đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mangnhững nét riêng, mới mẻ, sâu sắc . Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trongviệc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý-văn hóa càng gợi lên lịng u nước, tinhthần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người. BÀI MẪU SỐ 2:MỞ BÀI1. Dẫn dắt vào đề:Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ Cách mạng để sángtạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhìn suốt chiều dài lịch sửoanh liệt để khẳng định: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Lê Anh Xuân đã tạc vàothơ một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh: “Từ dáng đứng của anh giữa đường băng TânSơn Nhất; Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xn”. Tố Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời:“Ơi! Việt Nam từ trong biển máu; Người vươn lên như một thiên thần”.Với chương Đất Nước trong Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên nhữngcảm nhận sâu sắc về đất nước, về nhân dân, về dân tộc và trách nhiệm lớn lao của tuổi trẻViệt Nam trước non sông đấtnước.2. Vài nét về tác giả và tác phẩm.- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở Thừa Thiên Huế, là con nhà phê bình vănhọc Hải Triều, một nhà phê bình xuất sắc đã từng chủ trì lý thuyết “nghệ thuật vị nhân sinh”trong cuộc tranh luận với Hoài Thanh năm 1936 – 1969.- Đất Nước thuộc chương V của trường ca Mặt đường khát vọng (1974). Bản trường ca viếtvề sự thức tỉnh của tuổi trẻ sinh viên các đô thị tạm chiếm ở miền Nam trước năm 1975trước vận mệnh hiểm nghèo của đất nước; kêu gọi họ hướng về nhân dân mà xuống đườngđấu tranh hoà nhập với cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.- Trong các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tưởng, xúc cảmdồn nén, thể hiện một chiều sâu văn hoá, đặc trưng của thế hệ các nhà thơ thời kỳchống Mỹ cứu nước đã có một hành trang văn hóa chuẩn bị khá chu đáo trước khi bước vàochiến trường.- Chương Đất Nước khai triển có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút thơ, nhưng thậtra tứ thơ vẫn tập trung thể hiện tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” qua các bình diện chủyếu: Đất Nước trong chiều dài thời gian lịch sử, Đất Nước trong chiều rộng không gian lãnhthổ địa lý, Đất Nước trong bề sâu truyền thống văn hoá, phong tục, lối sống tâm hồn, cốtcách dân tộc.- Tư tưởng “đất nước của nhân dân” là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại Cáchmạng. Đoạn trích bình giảng trên đây đã thể hiện một cách sâu sắc và cụ thể sự “hoá thân”của nhân dân vào đất nước muôn đời.THÂN BÀI Trọng tâm của đoạn thơ nằm ở phần lí giải: “Ai làm nên Đất Nước?” và bằng lí giải đầy sứcthuyết phục của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định: Nhân dân làm nên đất nước, “ĐấtNước này là đất nước của nhân dân”.a. Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về thiên nhiên địa lí của đấtnước:- Để nói lên cơng lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhà thơđã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất, tên làng trên mọi miền đất nước từNam chí Bắc.+ Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sơng, thế núi là sự kết tinh đời sống tâm hồn củanhân dân. Xuất phát từ quan niệm của nhà Phật (hóa thân), tác giả đã trình bày những cảmxúc, suy tưởng của mình: chính nhân dân đã hố thân thành đất nước “hóa thân chodáng hình xứ sở” làm nên đất nước vĩnh hằng.+ Qua cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, những danh lam thắng cảnh khơng cịn là nhữngcảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa mà đã được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, sốphận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự “hố thân” củanhững con người khơng tên khơng tuổi.Chúng chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với cuộc sống của nhân dân, với con người,được tiếp nhận, cảm thụ quan tâm hồn nhân dân và qua lịch sử của dân tộc.- Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” khiến cho những địa danh ngàn đời của Tổ quốc quacái nhìn sắc sảo đầy khám phá của nhà thơ chính là sự hố thân của những con người bìnhdị, vơ danh những con người “khơng ai nhớ mặt đặt tên” “nhưng họ đã làm ra đất nước”:“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái”+ Những địa danh, những hình sơng thế núi mang hình người, linh hồn dân tộc. Chúng là sựtượng hình kết tinh đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân mang đậm chủ nghĩa nhânvăn, nhân đạo Việt Nam.+ Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định…, hòn Trống Mái ở Sầm Sơn là do"những người vợ nhớ chồng" hoặc những "cặp vợ chồng yêu nhau" mà "góp cho", "gópthêm", làm đẹp thêm, tơ điểm cho Đất Nước. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái cũng là kết tinhtình yêu thuỷ chung của biết bao người vợ chờ chồng trong chiến tranh liên miên, của sựgắn kết muôn đời, bất chấp mọi bão tố của thời gian:“Khơng hố thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờĐợi một dáng hình trở lại giữa đơn cơi” - Tác giả khơng chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên mà cịn nhìn ratrong đó phẩm chất, truyền thống hiếu học và khát vọng trí tuệ của dân tộc ta từ bao đờinay.+ Những núi Bút, non Nghiên phô bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước Việt hay là hìnhtượng những người học trị nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng của mình vào đấy:“Người học trị nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên”"Nghèo" nhưng “người học trị” vẫn góp cho đất nước ta “núi Bút non Nghiên”, làm rạng rỡnền văn hiến Đại Việt, văn hiến Việt Nam. Đó cũng chính là truyền thống hiếu học, vượtkhó vươn lên của nhân dân ta.- Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước. Những hình ảnhthân quen của non sống đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với truyền thống đánh giặcngoại xâm oanh liệt của nhân dân ta qua truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặcÂn:“Ta như thuở xưa thần Phù ĐổngVụt lớn lên đánh đuổi giặc ÂnSức nhân dân khoẻ như ngựa sắtChí căm thù ta rèn thép thành roiLửa chiến đấu ta phun vào mặtLũ sát nhân cướp nước hại nòi”(Tố Hữu)cùng với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của vua Hùng:“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi vẻ đẹp của Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống.Chính cái "gót ngựa của Thánh Gióng" đã "để lại" cho đất nước bao ao đầm ở vùng Hà Bắcngày nay. "Chín mươi chín" núi con Voi đã quần tụ, chung sức chung lịng "góp mình dựngđất tổ Hùng Vương”.- Cho đến “những con rồng nằm im” cũng góp phần làm nên “dịng sơng xanh thẳm”, “concóc, con gà q hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh” và cả những địa danh thậtnơm na, bình dị “những ơng Đốc, ơng Trang, bà Đen, bà Điểm”. + “Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm”. Những dịng sơng trên đất nước talà do rồng "nằm im" từ bao đời nay. Nhờ đó mà quê hương ta có "dịng sơng xanh thẳm",thơ mộng cho nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa.+ Tư tưởng "Đất Nước của nhân dân" cũng thể hiện trong kì quan nổi tiếng, những tên tuổicó cơng với dân với nước:"Con cóc con gà q hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên ơng Đốc, ơng Trang, bà Đen, bà Điểm"Theo cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có"con cóc, con gà quê hương cùng góp cho".Những tên làng, tên núi, tên sơng như "Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm " là donhững con người vơ danh, bình dị làm nên.+ Nguyễn Khoa Điềm đã đặt cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân khơng tên khơngtuổi, “những người dân nào” không ai biết cũng làm nên tên núi, tên sơng và tất cả nhữngcái bình thường trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân cũng hoá thân thành “dáng hìnhxứ sở”. Những địa danh ở vùng cực Nam đất nước xa xôi này tượng trưng cho tinh thần xảthân vì cộng đồng, đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhândân ta.+ Để khẳng định và nhấn mạnh tư tưởng "Đất nước của nhân dân" và chính nhân dân vơtận, những người vô danh không tên không tuổi đã làm nên đất nước, ở đoạn thơ trên tác giảđã sử dụng rất thành cơng điệp từ "góp", một động từ diễn đạt hành động "cùng mọi ngườiđưa cái riêng của mình vào thành cái chung" (Từ điển Tiếng Việt - trang 758)+ Đọc đoạn thơ này ta cảm thấy ngạc nhiên thích thú trước những lí giải của Nguyễn KhoaĐiềm. Ai ngờ những điạ danh, thắng cảnh quá thân quen lại có khả năng nói được nhiềuđiều sâu xa như thế. Số phận, cảnh ngộ, công lao của mỗi người đã đóng góp, hố thân vàoĐất Nước. Đất Nước thấm sâu vào tâm hồn, máu thịt của nhân dân.b. Từ đó, Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận mang tính khái quát sâu sắc giàu chấtsuy tư và triết luận về sự hoá thân của nhân dân vào đất nước:- Tính khái qt của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là một hình dáng của tư thếtruyền thống Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc có bốn nghìn năm lịch sử:“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gị bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha”Ơi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sống ta…” + Thì ra trên mọi miền Đất Nước của Tổ quốc Việt Nam, những tên núi, tên sông, tênlàng, tên bản, tên ruộng đồng , gò bãi… đều mang đậm “một dáng hình, một ao ước, một lốisống ơng cha”.+ Chính cuộc đời của cha ơng ta – những người dân không tên tuổi – đã làm nên ĐấtNước. Tất cả đều do nhân dân tạo ra, đều kết tinh từ công sức và khát vọng của nhân dân những con người bình thường, vơ danh.+ Nhưng tầm vóc của Đất Nước và nhân dân khơng chỉ trên bình diện địa lí "mênh mơng"mà cịn ở dịng chảy thời gian lịch sử “bốn nghìn năm” "đằng đẵng".KẾT BÀI- Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể tự do. Câu thơ mở rộng kéodài nhưng khơng nặng nề mà biến hố linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức biểu hiện và sứckhái quát cao.- Đó là hình ảnh “Đất Nước của nhân dân” – nhân dân đã hoá thành đất nước. Bởi trên khắpruộng đồng gị bãi, núi sơng đâu đâu cũng là hình ảnh của văn hoá, của đời sống tâm hồn,cốt cách của Việt Nam. BÀI MẪU SỐ 3:“Đất nước” đó là nguồn thi hứng dạt dào trong thơ ca từ xa xưa đến tận bây giờ và có lẽ cảtrong tương lai. Và cái nguồn thi ca dào dạt ấy, đã được thể hiện rất thành công trong vănchương kháng chiến. Chúng ta đã có “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, có “Bên kia sơngĐuống” của Hồng Cầm và chúng ta lại có thêm “Đất nước” trong trường ca “Mặt trời khátvọng” của Nguyễn Khoa Điềm.“Đất nước” là một bài thơ được trích từ trường ca “Mặt trời khát vọng” được nhà thơ trẻNguyễn Khoa Điềm sáng tạo nên. Với thi sĩ ấy, thì đất nước thân yêu phải là đất nước củanhân dân, đất nước của ca dao thần thoại, đất nước của những con người cần cù chất phácthủy chung son sắt, đất nước của những con người luôn vượt lên nghèo khổ để trở thànhnhững người hiền tài giúp nước, giúp quê hương.Có lẽ đoạn thơ sau sẽ góp phần làm rõ cái tư tưởng cốt lõi nhất của đất nước: đất nước củanhân dân, đất nước của ca dao thần thoại:“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu.Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hịn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳmNgười học trị nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên...Những cuộc đời đã hố núi sơng ta”Đây có lẽ là những đoạn thơ hay nhất, thể hiện rõ nhất tư tưởng đất nước của nhân dân, đấtnước của ca dao thần thoại.Đối với nhà thơ, “Đất nước” khơng phải là cái gì to lớn quá, trừu tượng quá mà nó rất cụthể, nó là những gì diễn ra trong cuộc sống hàng ngày từ xa xưa đến tận bây giờ:“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu.Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái”Đất nước khơng phải là cái gì đó q xa xơi mà nó ở ngay trong tình cảm của những ngườivợ người chồng, họ thuỷ chung son sắt, họ sống với thời gian của họ, họ hạnh phúc rồi khinào họ phải xa rời nhau thì họ vẫn ln thuỷ chung nhớ về nhau. Không chỉ họ sống với thời hiện tại của họ, mà họ còn lưu lại cho mai sau và mãi mãi những hình tượng, những dấuấn, những di tích như “Núi Vọng Phu”, như “Hịn Trống Mái”, những di tích mà họ để lại sẽgiúp cho con cháu đời đời học tập và noi theo. Nó trở thành truyền thống trong mỗi conngười mang dịng máu của tiên rồng, nó tựa như một phương thức sống.Tình cảm vợ chồng thuỷ chung sâu nặng cũng chỉ là một phần làm nên đất nước. Nhưng đâuchỉ có vậy, nhân dân ta là một nhân dân có lịng u nước nồng nàn, đó cũng chính là mộttruyền thống q báu vơ cùng của dân tộc ta:“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm”Thánh Gióng xưa đi đuổi giặc, một mình với sức mạnh phi thường đã dùng những cây trecủa quê hương để bảo vệ quê hương, bảo vệ xóm làng thân thuộc. Rồi ngay cả những convoi, những con vật của quê hương giàu lòng yêu nước, sau khi đánh thắng giặc đã cùng vớicác vua Hùng dựng nên đất Tổ Hùng Vương. Hẳn ai đó là cháu con của vua Hùng không thểquên được câu ca dao giờ đã hằn in trong nếp nghĩ của tất cả mọi người dân đất Việt: “Dù aiđi ngược về xuôi. Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”. Đúng vậy, liệu có một quêhương, một đất nước nào đó mà nhân dân có chung một ngày giỗ Tổ? Chắc là khơng có, mànếu có thì cũng rất ít.Người Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, đó là một trong những nét văn hố tinh anhmà các lớp cha anh đi trước truyền lại cho con cháu mai sau để rồi cái tinh thần hiếu học ấyđã xây dựng nên một tượng đài:“Người học trị nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên”Vậy đấy, con người Việt Nam quả thật đáng khâm phục. Họ tuy nghèo về đời sống vật chất,nhưng cuộc sống văn hố tinh thần thì họ có cả một bề dày lịch sử. Những “Núi Bút nonNghiên” là những hình ảnh cụ thể minh chứng cho điều đó. Cịn gì hạnh phúc hơn khi đấtnước ln là niềm tự hào trong những “anh học trị nghèo” mà có những phẩm chất cao đẹpnhư thế?Đất nước ta không chỉ đẹp bởi tình cảm thuỷ chung vợ chồng, bởi truyền thống lịch sử hàohùng, bởi những anh học trò nghèo nhưng đầy trí tuệ, mà đất nước ta cịn đẹp bởi nhữngthắng cảnh quê hương:“Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”Những con vật gắn đến truyền thuyết rồi đến những con vật rất đỗi quen thuộc hàng ngàycũng góp phần làm nên đất nước. Nếu như thi sĩ Hoàng Cầm tự hào với quê hương Kinh Bắc tươi đẹp bởi “lúa nếp thơm nồng”, tranh Đông Hồ và dịng sơng Đuống, thì NguyễnKhoa Điềm lại tự hào về núi Bút, non Nghiên, về thắng cảnh Hạ Long và có lẽ một điều đặcbiệt ta nhận thấy trong thơ ơng đó là niềm tự hào về người dân:“Những người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ơng cha”Vâng, nhân dân chính là ngọn nguồn của mọi sự sáng tạo, chúng ta tự hào vì chúng ta cónhững ơng Đốc, ơng Trang, và Đen, bà Điểm.Có lẽ trong văn thơ giai đoạn kháng chiến, hình tượng về những người dân áo vải đứng lênthành những anh hùng dân tộc đã xuất hiện rất nhiều, như trong “Đất nước” của NguyễnĐình Thi chẳng hạn:“Ơm đất nước những người áo vảiĐã đứng lên thành những anh hùng”Những con người rất đỗi bình dị ấy đã trở thành những tấm gương sáng cho con cháu noitheo, lớp con cháu đi sau vẫn luôn mong ước được sống “một lối sống của ông cha”. Vậyđấy, lớp trẻ sẽ luôn luôn kế tiếp truyền thống của cha ông. Nếu đặt trong hoàn cảnh NguyễnKhoa Điềm lúc viết bài thơ này, hẳn chúng ta sẽ hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về câu thơ trên.Kết thúc đoạn thơ trên, nhà thơ viết:“Ơi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hố núi sơng ta”Đất nước với bốn nghìn năm xây dựng và bảo vệ, đất nước tươi đẹp và thật đáng yêu. Trongbốn nghìn năm ấy, con người ln là hình ảnh đẹp, họ nối tiếp truyền thống tốt đẹp của chaanh để rồi đi đâu và ở đâu ta cũng thấy “Những cuộc đời đã hố núi sơng ta”. Con người đãhố thân vào đất nước. Tất cả đã tạo nên một đất nước văn hiến giàu truyền thống lịch sử.Qua đoạn thơ trích giảng, ta thấy rất rõ tư tưởng đất nước của nhân dân, đất nước của ca daothần thoại, đất nước của truyền thống lịch sử. Mỗi con người trong chúng ta hiện nay muốnlàm nên đất nước muôn đời hãy cố gắng vươn lên và thực hiện như ý nguyện của nhà thơ:“Em ơi em phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước mn đời” BÀI MẪU SỐ 4:Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.Trường ca Mặt đường khát vọng là tác phẩm sâu sắc, mang vẻ độc đáo cùa ông được sángtác vào năm 1971 tại núi rừng chiến khu Trị - Thiên. Bài Đất Nước là chương V của trườngca này. Tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo các chất liệu - thi liệu từ tục ngữ, ca dao dânca, từ truyền thuyết cổ tích đến phong tục, ngơn ngữ., của nền văn hóa dân tộc để khơinguồn cảm hứng về Đất Nước, một Đất Nước có nguồn gốc lâu đời, một Đất nước của Nhândân vĩnh hằng muôn thuở.Đoạn thơ 12 câu này trích trong phần II bài Đất Nước đã ca ngợi Đất Nước hùng vĩ, tự hàokhẳng định những phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta. Câu thơ mở rộng đến 13,14, 15 từ, nhưng vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu âm điệu và nhạc điệu gợi cảm:Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu(…)Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta.Tám câu thơ đầu nói về tượng hình Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn gấmvóc. Khắp nơi trên mọi miền Đất Nước ta, ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. NúiVọng Phu, hịn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cáinhìn khám phá, nhân văn. Núi ấy, hòn ấy là do “những người vợ nhớ chồng”, hoặc “cặp vợchồng yêu nhau” mà đã “góp cho", đã “góp nên”, làm đẹp thêm, tơ điểm thêm Đất Nước.Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp thêm hòn Trống MáiNúi Vọng Phu ớ Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định... hịn Trống Mái ớ sầm Sơn khơng chỉlà vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam.Vợ có "nhớ chồng”, cặp vợ chồng có “yêu nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, mới “gópnên” những núi Vọng Phu, hịn Trống Mái ấy. Tình u lứa đơi có thắm thiết, tình nghĩa vợchồng có thủy chung thì Đất Nước mới có tượng hình kì thú ấy. Tác giả đã vượt lên lối liệtkê tầm thường để có một cách nhìn, một cách diễn đạt mới mẻ, nhân văn.Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Cái “gótngựa của Thánh Gióng ấy để lại” cho Đất Nước ta bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay!Chín mươi chín núi con Voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lịng “góp mìnhdựng đất Tổ Hùng Vương”. Các từ ngữ: “đi qua cịn... để lại”, “góp mình dựng" đã thế hiệnmột cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sứcmạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước: Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương.Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sơng dài. Có sơng Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”. Có sơngMã “bờm ngựa phi thác trắng”. Và cịn có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ơm ấphuyền thoại kiêu sa:Những con rống nằm im góp dịng sông xanh thẳm.Rồi “nằm im” từ bao đời nay mà Nam Bộ mến u có “dịng sơng xanh thẳm’' cho quêhương nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông bỉến lúa bốn mùa. Phải chăng nhàthơ trẻ qua vẻ đẹp dịng sơng Chín Rồng đế ca ngợi giang sơn gấm vóc, con người ViệtNam rất đỗi tài hoa?Quảng Nam, Quáng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Châu Trinh Huỳnh ThúcKháng., có núi An sơng Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên, NguyễnKhoa Điềm khoong nghĩ về địa linh nhân kiệt mà nghĩ về người học trò nghèo về truyềnthống hiếu học về tấm lịng tơn sư trọng đạo của nhân dân ta.Người học trị nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.“nghèo” mà vẫn góp cho Đất Nước ta núi Bút non Nghiên, làm rạng rỡ nền ăn hiến ĐạiViệt..nghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng.Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng gópcho”. Và những tên làng, tên núi, tên sơng như Ơng Đốc, Ơng Trang. Bà Đen, Bà Điểm... ởvùng cực Nam Đất Nước xa xôi đã do “những ngườ dân nào đã góp tên”, đã đem mồ hôi,xương máu bạt rừng, lấn biển, đào bắt sấu, bộ hổ... làm nên? Nhà thơ đã có một cách nóibình dị mà thấm thía ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạocủa.nhân dân ta, khẳng định nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã “làm nên Đất Nướcmn đời”.Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ông Trang, Ba Đen, Bà Điểm.Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiện niềm tựhào và biết ơn Đất Nước cùng Nhân Dân. Các thi liệu – hình ảnh người vợ, cặp vợ chồng,gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trị . con cóc con gà, những người dân nào... dướingòi bút của Nguyễn Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, cho trítuệ và tài năng đức tính cần cù và tinh thần dũng cảm., của nhân dân ta qua trường kì lịchsử. Chính nhân dân vĩ đại đã “góp cho”, “góp nên”, “để lại”, “góp mình”, “đã góp tên”... đãlàm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. Nhà thơ đem đến cho những động từ - vị ngữ ấy (góp cho, góp nên...) nhiều ý thơ mới mẻ. nhiều sắc thái biểu cảm với bao liên tưởng đầytính nhân văn như nhà thơ Chê Lan Viên đã viết:Tăm hồn tơi khi Tổ quốc soi vàoThấy nghìn núi trăm sơng diễm lệ.(Chim lượn trăm vòng)Bốn câu thơ cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm ngọt ngào. Từ cụ thể thơ được nâng lêntầm khái quát,tính chính luận kết hợp một cách hài hịa với chất trữ tình đằm thắm:Và ở đâu trên khắp ruộng đơng gị bãiChẳng mang một dáng hình, một ao nước, một lối sống ơng chaƠi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sơng ta.Ruộng đồng gị bãi... là hình ảnh của quê hương đất nước. Những tên núi, tên sông, tên làng,tên bản, tên ruộng đồng, tên gò bãi... bất cứ ở đâu trên đất Việt Nam thân yêu đều mangtheo “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha”. Hình tượng đất nước cùng là điệutâm hồn, phong cách, ước mơ,hoài bão cùa ông cha ta, tổ tiên ta mấy nghìn năm lịch sử dựng nước. “Những cuộc đời đãhóa núi sơng ta” là một câu thơ rất hay, rất đẹp ca ngợi tâm hồn Việt Nam, nền văn hóa ViệtNam. Chữ “một” được điệp lại 3 lần, chữ “ta” được láy lại 2 lần, kết hợp từ “ôi” cảm thánđã tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm tự hào về cảm xúc.Vừa đĩnh đạc, hào hùng, vừa thiết tha, lắng đọng, vẻ dẹp nhân văn chan hịa trên nhữngdịng thơ tráng lệ. Tầm vóc của Đất Nước và dân tộc được hiện diện một cách sâu sắc rộnglớn khơng chỉ trên bình diện địa lí “mênh mơng” mà cịn ở dịng chảy của thời gian và lịchsử bốn nghìn năm “đằng đẵng".Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bàiĐất Nước. Câu thơ mờ rộng đậm đặc chất văn xi. Yếu tố chính luận và chất trữ tình, chấtcảm xúc hịa quyện, làm cho chất thơ dào dạt, ý tưởng sâu sắc, mới mẻ. Đất nước hùng vĩ,nhân dân anh hùng, cần cù, hiếu học, ân hghĩa thúy chung... được nhà thơ cảm nhận với tấtcả lịng u mến tự hào.Chất liệu văn hóa dân gian được tác giả vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng đất nước mà nhàthơ ca ngợi tám hồn nhân dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam.Thiên nhiên đất nước đã được nhân dân sáng tạo nên. Nhân dân là chủ nhân của đất nước.Thơ đích thực khơi gợi hồn người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơnhư một tiếng nói tâm tình “dịu ngọt”, nhà thơ như đang đối thoại cùng ta về đất nước và nhân dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc dộng nghĩ về hai tiếng ViệtNam thân thương:Ôi! Việt Nam! Yêu. suốt một đời...(Tố Hữu)Ta cảm thấv hãnh diện và lớn lên cùng đất nước. BÀI MẪU SỐ 5:Ôi! Nếu thiên thần lên tiếng gọiBỏ nước Nga lên sống ở thiên đườngTôi sẽ đáp thiên đường xin để đấyCho tôi ở cùng Tổ quốc yêu thươngTình yêu tha thiết của Ênixin dành cho nước Nga cũng là tiếng lòng của biết bao nhiêunghệ sĩ khắp dải đất Việt Nam. Cùng thể hiện tình yêu quê hương, đât nước sâu nặng nhưngmỗi nhà thơ lại có tiếng nói riêng độc đáo. Trường ca “Mặt đường khát vọng” với “ĐấtNước” đã đưa chúng ta đến một Đất Nước giản dị mà rất đỗi đời thường – Đất Nước củanhân dân. Với một lối đi cho riêng mình, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện sâu sắcvề địa lí, lịch sử, văn hóa của Đất Nước:Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho những núi Vọng Phu………………………………………………………Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta…Chia sẻ về ý tưởng đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm từng khẳng định: Tôi cốgắng … khác. Quả đúng như vậy, kháp phá vẻ đẹp của Đất Nước trong không gian mênhmông, Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ngợi ca núi sông hùn vĩ mà thơ mộng với rừngxanh đồi cọ đồi trè, đồng xanh ngào ngạt, biển lúa mênh mông, cánh cị dập dờn… như TốHữu, Nguyễn Đình Thi và bao nhà thơ khác. Với một lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã cónhững phát hiện mới mẻ sâu sắc.Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam,từ miền ngược tới miền xi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh củaĐất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địadanh mang tên: ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm.Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hịn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lạiChín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng năm in góp dịng sơng xanh thẳmNgười học trị nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên Con có, con gà quê hương cùng góp cho Hà Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmThực chất những danh thắng ấy là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từhàng ngàn, hàng vạn năm chứ. Khơng khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ sâu sắc,Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh ấy.Những núi vọng phu: trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính làsự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụnữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ ấy. Hịn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở QuảngNinh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõitiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện hóa đá để mn đời ở mãi bên nhau. Những ao đầmdày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước nồng nàn, khíphách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt. Khơng có tinh thần đồn kết mộtlịng tất khơng thể có Tổ quốc linh thiêng, hùngvĩ. Khơng có tinh thần vượt khó, hiếu học,khơng có núi bút non Nghiên. Và bất cứ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ Scũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóathân diệu kì, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sơng dáng núi, bóng đèo đều indấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những conugười Đất Việt Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt.Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhândân. Khơng có nhân dân bao đời với tâm hồn cao q, khát vọng lãng mạn thì khơng cónhững thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng.Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng củaĐất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát tính chiết luận:Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng màng một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng chaƠi Đất Nước sau bốn nghìn năn ta cũng thấyNhũng cuộc đời đã hóa núi sơng ta…Đâu chỉ có những địa dnah như núi vọng phu, hòn Trống Mái,sự hóa thân diệu kì của nhândân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gị bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ,khát vọng, lối sống của ơng cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thốngcủa ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạorực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọcnguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đâycó sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú vànguyễn khoa điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hìnhảnh giàu chất thơ. Mạch thơ thể hiện rõ tư duy logic, đi từ cụ thể đến khái quát, một cách khái quát đầy cảm xúc, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dângian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian độc đáo, mớimẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng.Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một q trính phát triển trong lịch sửdân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đãtừng nói lên vai trị của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Đến giai đoạn vănhọc cách mạng, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trịvà đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh ác liệt. Điều này đượcthể hiện qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước (Nguyễn Đình Thi), Đường tới thànhphố (Hữu Thỉnh),… Tuy nhiên, chỉ khi đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởngcủa nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã trởthành hệ quy chiếu khiến nhà thơ có những khám phá mới mẻ, sâu sắc về Đất Nước quakhơng gian địa lí, thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Đặc biệt, Đất Nước của nhân dânđã vang lên thành lời thành tiếng:Để Đất Nước là Đất Nước của nhân dân.Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.Thành công của đoạn trích Đất Nước là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một khơng khí, mộtgiọng điệu, đưa ta vào thế giới gần gũi của ca dâ dân ca, truyền thuyết văn hóa. Đó chính lànét đặc sắc thẩm mĩ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của da daothần thoại”.Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ởđây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và trữ tình, suy tư sâu lắng và cảm xúcnồng nàn. Chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng Đất Nướcmà nhà thơ ngợi ca tâm hồn nhân dân, khẳng định nòi giống mà dáng đừng Việt Nam. Nhândân là chủ Đất Nước, Đất Nước là của nhân dân. BÀI MẪU SỐ 6:I/ MỞ BÀI_ Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có nhữngcảm nhận và cách thể hiện riêng_ Nếu như các nhà thơ cùng thời thường cảm nhận về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ,mỹ lệ hay qua các triều đại phong kiến thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi,bình dị : Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại._ Với tư tưởng ấy nhà thơ đã đi lý giải ai đã làm nên đất nước :Những người vợ….giỗ tổ(Đất Nước trích Mặt đường khát vọng)II. THÂN BÀI1/ (Xuất xứ chủ đề)_ Mặt đường khát vọng được Nguyễn khoa Điềm hình thành ở chiến khu Trị Thiên năm1971, in lần đầu năm 1974._ Thời điểm này miền Nam bị tạm chiến, đế quốc Mĩ và bọn tay sai ra sức chống phá cáchmạng, lôi kéo mua chuộc thanh niên vào chốn ăn chơi mà quên đi trách n hiệm với đấtnước._ Đoạn trích Đất Nước (trích chương V của trường ca Mặt đường khát vọng) ra đời đã đánhthức tinh thần trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước.2/ (khái quát ý đoạn thơ trước)Nếu ở đoạn thơ trên, Nguyễn Khoa Điềm nêu cảm nhận chung về đất nước, thì ở đoạn thơnày, nhà thơ đi lý giải ai đã làm lên đất nước.a/Và theo bước chân của nhà thơ, một diện mạo non sơng gấm vóc hiện ra kì vĩ tránglệ nhưng cũng gần gũi thân thiết biết bao :Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau cịn góp nên hịn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳmNgười học trị nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non NghiênCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmĐất nước ta vô cùng tráng lệ với núi cao, biển rộng, sơng dài, cánh đồng bát ngát thẳngcánh cị bay. Những tên núi tên sơng đã soi bóng vào thơ ca dân tộc như Bạch Đằng giangphú của Trương Hán Siêu, Dục Thuý sơn, Côn sơn ca của Nguyễn Trãi, Qua Đèo Ngangcủa Bà Huyện Thanh Quan… Nguyễn Khoa Điềm cũng nói về núi sơng của đất nước,nhưng ơng khơng nói đến địa linh nhân kiệt, quan hà hiểm trở, mà theo ông :_/ Đất nước là những địa danh, những danh lam thắng cảnh kỳ thú.Núi Bút non Nghiên, hịn Trống Mái, núi Vọng Phu, vịnh Hạ Long, sơng Cửu Long, ƠngĐốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm…Đó là những danh lam thắng cảnh tươi đẹp. Nhưngmỗi địa danh khơng phải là một dịng tên vơ nghĩa._/ Đằng sau tên đất, tên rừng, tên núi tên sông là cuộc đời, gắn với những kỳ tích , huyềnthoại, là tâm hồn nhân dân hoá thân mà thành+ Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định…, hịn Trống Mái ở Sầm Sơn là do“những người vợ nhớ chồng” hoặc những “cặp vợ chồng yêu nhau” mà “góp cho”, “gópthêm”, làm đẹp thêm, tô điểm cho Đất Nước.→vượt lên lối liệt kê tầm thường Nguyễn Khoa Điềm đã có một cách nhìn, một cách diễnđạt mới mẻ, nhân văn. Ơng không chỉ chiêm ngưỡng những cảnh đẹp của thiên nhiên màcịn nhìn ra trong đó tình u thuỷ chung của biết bao người vợ chờ chồng trong chiến tranhliên miên, bất chấp mọi bão tố của thời gian để có sự gắn kết mn đời,“Khơng hố thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờĐợi một dáng hình trở lại giữa đơn côi”+ Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ thấy vẻ đẹp mỹ lệ của nó phơbày giữa đất trời nước Việt, và nhà thơ không nghĩ địa linh nhân kiệt,” mà ông nghĩ vềngười học trị nghèo“Người học trị nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên” “Nghèo” nhưng “người học trị” ấyvẫn góp cho đất nước ta “núi Bút non Nghiên”, làm rạngrỡ nền văn hiến Đại Việt, văn hiến Việt Nam. Núi Bút, non Nghiên trở thành biểu tượngcủa truyền thống hiếu học, vượt khó vươn lên của nhân dân ta+ Theo mạch cảm xúc, nhà thơ đã về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc hình sơng thế núi :“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”“Gót ngựa của Thánh Gióng” đã “để lại” cho đất nước bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay.“Chín mươi chín” núi con Voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lịng “góp mìnhdựng đất tổ Hùng Vương”.Những hình ảnh thân quen của non sống đất nước gợi lên truyềnthống đánh giặc hào hùng của cha ông ta qua truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổigiặc Ân, cùng với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của các vua Hùng.Các từ ngữ: “đi quacịn… để lại”, “góp mình dựng” đã thể hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêngcủa Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trongcông cuộc xây dựng và bảo vệ Đất Nước+ Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sơng dài. Có sơng Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”.Có sơngMã “bờm ngựa phi thác trắng”. Và cịn có Cửu Long Giang – dịng sơng Chín Rồng vớidáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa:“Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm”.Sự hiền hịa và trù phú của Cửu Long giang được nhà thơ đã ví nó như một sinhthể“Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm”, góp”cho q hương nhiều nướcngọt phù sa, nhiều tôm cá, bốn mùa lúa và hoa trái tốt tươi.+ Trong cảm nhận của nhà thơ,“Đất Nước của nhân dân” khơng chỉ được thể hiện qua cáckì quan nổi tiếng, và tên tuổi những người có cơng với dân với nước như Hạ Long, nhữngông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”. Mà theo ơng“Con cóc, con gà q hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmHạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng gópcho”. Và những tên làng, tên núi, tên sơng như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… ởvùng cực Nam Đất nước xa xơi, đó là do “những người dân nào đã góp tên”, đã đem mồhơi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào kênh, bắt sấu, bộ hổ… làm nên ? Nhà thơ đã đặt cáinhìn trân trọng của mình vào “những người dân nào” khơng ai biết mặt biết tên, nhưngbằng đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo, họ đã “góp cho”, “gópnên”, “để lại”, “góp mình”, “cùng góp cho”, “đã góp tên làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. Nhà thơ đã đem đến cho những động từ – vị ngữ ấy (góp cho, góp nên…)nhiều ý nghĩamới mẻ, nhiều sắc thái biểu cảm với bao liên tưởng đầy tính nhân văn.. Để từ đó khẳng địnhchính họ – những con người không tên không tuổi – những anh hùng vơ danh, đãhố thânthành “dáng hình xứ sở, “làm nên Đất Nước muôn đời”Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiệnniềm tự hào và biết ơn Đất Nước cùng Nhân dân. Các thi liệu – hình ảnh: người vợ, cặp vợchồng, gót ngựa, chín mươi chín con voi, con rồng, người học trị nghèo, con cóc con gà,những người dân nào… dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưngcho tâm hồn trung hậu, cho trí tuệ và tài năng, đức tính cần cù và tinh thần dũng cảm,… củanhân dân ta qua trường kì lịch sửThủ pháp liệt kê với hàng loạt các địa danh, những thắng cảnh kết hợp phép điệp được sửdụng thành công với nhiều cấp độ: như điệp từ: những (chỉ số nhiều, đơng đảo), góp (chỉ sựtự nguyện, chung tay vun đắp mỗi cái riêng để thành cái chung lớn). Hay điệp cấu trúc: (Agóp cho Đất Nước B”) được lặp lại trong suốt phần đầu đoạn thơ góp phần thể hiện sự nốitiếp, liền mạch của quá trình nhân dân dựng xây, giữ gìn đất nước.(b/ Bốn câu còn lại)Nếu phần đầu đoạn thơ là giọng điệu say sưa kể mãi về những đóng góp của nhân dân choĐất Nước thì bốn câu cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào :“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gị bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng chaƠi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sơng ta..”Hình tượng thơ từ cụ thể nâng lên tầm khái quát, tính chính luận kết hợp một cách hài hịavới chất trữ tình đằm thắmRuộng đồng gị bãi… là hình ảnh thân quen của q hương đất nước. Và nhà thơ cho rằngbất cứ ở đâu trên đất nước Việt Nam đều mang theo “một dáng hình, một ao ước, một lốisống ơng cha”. Chữ “một”được điệp lại 3 lần như nhấn mạnh : Bao trùm lên xứ sở thân yêulà điệu tâm hồn, phong cách, ước mơ hồi bão của ơng cha ta là phong tục tập quán, là vănhóa Đại ViệtĐoạn thơ được kết lại trong cảm xúc ngây ngất tự hào :Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sơng ta..” Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử, Đất Nước có biết bao“cuộc đời đã hóa núi sơng ta” màthành. Từ cảm thán “ôi” kết hợp chữ “ta” được láy lại 2 lần, đã tạo nên những vần thơ dudương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm tự hào về cảm xúc. Giọng điệu thơ vừa đĩnh đạc hàohùng, vừa thiết tha lắng đọng. Vẻ đẹp nhân văn chan hòa trên những dịng thơ tráng lệ. Tầmvóc của Đất Nước và dân tộc được hiện diện một cách sâu sắc rộng lớn khơng chỉ trên bìnhdiện địa lí “mênh mơng” mà còn ở dòng chảy của thời gian và lịch sử bốn nghìn năm “đằngđẵnglà một câu thơ rất hay, rất đẹp ca ngợi tâm hồn Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam.,. “.Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài“Đất Nước”. Câu thơ mở rộng đậm đặc chất văn xi. Yếu tố chính luận và chất trữ tình,chất cảm xúc hoà quyện, làm cho chất thơ dào dạt , ý tưởng sâu sắc, mới mẻ. Đất nước hùngvĩ, nhân dân anh hùng, cần cù, hiếu học, ân nghĩa thủy chung… được nhà thơ cảm nhận vớitất cả lòng yêu mến tự hào.Chất liệu văn hóa dân gian được tác giả vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng đất nước mà nhàthơ ca ngợi tâm hồn nhân dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam.