Hiện tượng thiên nhiên là gì

Mục lục

  • 1 Từ nguyên
    • 1.1 Tiếng Anh
  • 2 Trái Đất
    • 2.1 Địa chất
      • 2.1.1 Tiến hóa địa chất
    • 2.2 Quan điểm lịch sử
  • 3 Khí quyển, khí hậu, và thời tiết
  • 4 Nước trên Trái Đất
    • 4.1 Đại dương
    • 4.2 Hồ
      • 4.2.1 Ao
    • 4.3 Sông
    • 4.4 Suối
  • 5 Hệ sinh thái
    • 5.1 Vùng hoang dã
  • 6 Sự sống
    • 6.1 Tiến hóa
    • 6.2 Vi sinh vật
    • 6.3 Thực vật và động vật
  • 7 Tương tác với con người
    • 7.1 Thẩm mỹ và vẻ đẹp
  • 8 Vật chất và năng lượng
  • 9 Bên ngoài Trái Đất
  • 10 Xem thêm
  • 11 Chú giải
  • 12 Tham khảo
  • 13 Liên kết ngoài

34 Ví dụ về hiện tượng tự nhiên



Có hàng trăm ví dụ về hiện tượng tự nhiên. Một minh họa cho điều này là lực hấp dẫn thu hút tất cả các vật thể về phía trung tâm Trái đất; không có lực hấp dẫn thậm chí sẽ không có bầu khí quyển, vì vậy sẽ không thể có sự sống trên hành tinh này.

Cũng như lực hấp dẫn, có hàng ngàn ví dụ khác về các hiện tượng vật lý không được chú ý vì con người coi chúng là điều hiển nhiên.

Hiện tượng thiên nhiên là gì

Đó là trường hợp của âm thanh, ánh sáng, bình minh và hoàng hôn, sét, bão, lốc xoáy, sương mù, cầu vồng, thủy triều, trong số những người khác.

Những thứ khác ít phổ biến hơn như nguyệt thực và nhật thực, mặt trăng đỏ, sóng thần, động đất, siêu sao, núi lửa phun trào, mạch nước phun và cực quang..

Hiện tượng tự nhiên có thể được phân loại theo nguyên nhân. Theo cách này, có các hiện tượng sinh học, hóa học, địa chất, khí tượng và vật lý.

Tự nhiên là gì?

Tương tự: thiên nhiên

Tự nhiênhay cũng được gọithiên nhiên,thế giới vật chất,vũ trụthế giới tự nhiên(tiếng Anh:nature) là tất cảvật chấtvànăng lượngchủ yếu ở dạng bản chất. "Tự nhiên" nói đến cáchiện tượngxảy ra trong thế giới vật chất, và cũng nhắc đếnsự sốngnói chung. Phạm vi bao quát của nó từ cấphạ nguyên tửcho tới những khoảng cách lớn trongvũ trụ. Nghiên cứu về tự nhiên là một mảnh ghép lớn trong thế giới khoa học. Dù cho con người hiển nhiên là một phần của tự nhiên, nhưng những hoạt động của con người thường được phân biệt rạch ròi khỏi những hiện tượng tự nhiên.

Từnaturecó nguồn gốc từnaturatrong tiếngLatin, có nghĩa là "phẩm chất thuần khiết, thiên hướng bẩm sinh", và trong thời cổ đại nó có nghĩa đen là "sự sinh nở".Naturatrong tiếng Latin là dịch từphysis(φύσις) trongtiếng Hy Lạp, một từ có nguồn gốc liên quan đến đặc tính nội tại của thực vật, động vật và những đặc trưng khác trong thế giới do chính người cổ đại nghĩ ra hoặc ghi chép lại.Khái niệm tự nhiên theo nghĩa tổng thể, hay vũ trụ vật chất, là một trong vài khái niệm mở rộng của khái niệm ban đầu; nó bắt đầu bằng những cách thông hiểu trọng tâm của từ φύσις bởi các triết gia trướcSokrates, và đã thu được sự chú ý dần dần theo thời gian kể từ đó. Cách sử dụng này dần được chấp nhận trong giai đoạn phát triển củaphương pháp khoa họchiện đại trong vài thế kỷ qua.

Với nhiều cách sử dụng và ý hiểu ngày nay, "tự nhiên" cũng nhắc đếnđịa chấtvà thế giớihoang dã. Tự nhiên cũng bao gồm nhiều loại động thực vật sống khác nhau, và trong một số trường hợp liên quan tới tiến trình của những vật vô tri vô giác – cách mà những kiểu riêng biệt của sự vật tồn tại và làm biến đổi môi trường quanh nó, tỉ nhưthời tiếtvà hoạt động địa chất của Trái Đất, cũng nhưvật chấtvànăng lượngcủa tất cả mọi thứ mà chúng cấu thành lên. Khi hiểu theo nghĩa là "môi trường tự nhiên" hoặcvùng hoang dã– động vật hoang dã, đá, rừng, bờ biển, và nói chung những thứ không bị tác động của con người thay đổi hoặc phản kháng trước những tác động của con người. Ví dụ, các sản phẩm được sản xuất hoặc có tác động bởi con người nói chung sẽ không được coi là thuộc về tự nhiên, trừ khi được định nghĩa thành những lớp lang phù hợp, ví dụ, "bản chất con người" (nhân tính) hay "toàn thể tự nhiên". Khái niệm truyền thống này về các vật tự nhiên mà đôi khi ngày nay vẫn sử dụng hàm ý sự phân biệt giữa thế giới tự nhiên và nhân tạo, với những thứ nhân tạo được ngầm hiểu từ tâm thức hoặctư duycủa con người. Phụ thuộc vào từng ngữ cảnh, thuật ngữ "tự nhiên" cũng có thể khác hẳn với từ "không tự nhiên" hay "siêu nhiên".

Hiện tượng tự nhiên

  • Mới nhất
  • Cũ nhất

Những hiện tượng thiên nhiên kỳ thú

  • Mới nhất
  • Cũ nhất
Hiện tượng thiên nhiên là gì

Từ chỉ các hiện tượng thiên nhiên tự nhiên trong ca dao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.73 KB, 104 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NV

BỘ MÔN NGỮ VĂN

TỪ CHỈ CÁC HIỆN TƯỢNG THIÊN
NHIÊN – TỰ NHIÊN TRONG CA DAO

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn : Th.S NGUYỄN THỊ THU THỦY

Cần thơ, năm 2011


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
A.

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích chọn đề tài
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

B.

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG


I. Những vấn đề chung về từ
1. Từ là gì?
2. Các thành phần nghĩa của từ
3. Sự chuyển nghĩa của từ trong hệ thống
4. Sự chuyển nghĩa của từ trong hoạt động

II. Từ chỉ các sự vật, hiện tượng thiên nhiên – tự nhiên
1. Khái niệm thiên nhiên – tự nhiên
2. Từ chỉ các hiện tượng thiên nhiên – tự nhiên
2.1 Từ chỉ các hiện tượng của đất trời
2.2 Từ chỉ thế giới thực vật
2.3 Từ chỉ thế giới động vật


Chương 2:TỪ CHỈ CÁC HIỆN TƯỢNG THIÊN NHIÊN,
TỰ NHIÊN TRONG CA DAO
I. Tổng quan
II. Ý nghĩa của các từ chỉ các hiện tượng thiên nhiên - tự nhiên
trong ca dao
1. Từ chỉ các hiện tượng của đất trời
1.1 Từ “trăng”
1.2 Từ “sông”
1.3 Từ “gió”
1.4 Từ “mây”
2 Từ chỉ thế giới thực vật
2.1 Từ chỉ các cây nói chung
2.2 Từ chỉ các loài hoa nói chung
2.3 Từ “trầu”, “cau”
2.4 Từ “cây đa”
2.5 Từ “cây tre”

3. Từ chỉ thế giới động vật
3.1 Từ chỉ các loài chim nói chung
3.2 Từ “con trâu”

C.

PHẦN KẾT LUẬN


TÀI LIỆU THAM KHẢO


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Thiên nhiên là một thế giới rộng lớn bao gồm những gì thuộc về vũ trụ và

các sự vật hiện tượng trong tự nhiên. Con người cũng là một sinh thể nhỏ bé trong
thế giới đó. Thiên nhiên phong phú và đa dạng các loài động vật, thực vật, các
hiện tượng của vũ trụ đất trời. Đời sống con người phụ thuộc chặt chẽ vào thiên
nhiên và các sự vật, hiện tượng đó. Thiên nhiên là nơi có nguồn lương thực, nguồn
tài nguyên, nơi cư trú và là điều kiện tất yếu để con người tồn tại. Tuy nhiên, thiên
nhiên cũng là một thế giới kỳ bí mà con người không thể nào khám phá hết. Đó là
vẻ đẹp của mỗi chiếc lá, bông hoa, đàn chim, hồ nước, là cái nắng, cơn mưa,…tất
cả các sự vật, hiện tượng được khái quát thành những tên gọi phù hợp với đặc
điểm của chúng, con người thông qua đó có thể hiểu biết thêm về ngôi nhà chung
của mình.
Thông qua thiên nhiên con người bộc lộ quan niệm văn hóa của mình về vũ
trụ, tình cảm, thái độ ứng xử trong giao tiếp. Chính vì thế mà có thể nói rằng lịch

sử phát triển văn hóa xã hội của loài người từ xưa tới nay có mối quan hệ mật thiết
với thiên nhiên.
Có thể nói về thiên nhiên ở nhiều phương diện khác nhau. Các nhà nghệ sĩ
tìm hiểu thiên nhiên qua hội họa, điêu khắc, qua âm nhạc,…Tác giả dân gian lại có
lối tư duy rất cụ thể, để diễn tả những điều muốn nói, họ thường tìm đến các sự
vật, hiện tượng trong thế giới xung quanh mình. Họ hướng về thiên nhiên như:
mây, gió, trăng, hoa, núi, sông, các loài chim muông,…để bầu bạn, chia sẻ tâm sự.
Cho nên ta thấy trong ca dao mọi sự biểu hiện của tình cảm con người đều liên hệ
mật thiết với những hình tượng thiên nhiên. Thiên nhiên trong ca dao là là phương
tiện nghệ thuật đặc biệt để con người có thể thể hiện tình cảm, tâm trạng của mình.


Người viết từ cái nhìn, sự cảm nhận của người dân lao động tiếp cận thiên
nhiên thông qua ca dao. Với các phương pháp phân tích văn học dân gian, đi từ
góc độ ngôn ngữ, phân tích các từ chỉ sự vật hiện tượng thiên nhiên trong ca dao.
Tìm hiểu, nghiên cứu đề tài, người viết hiểu được cái hay, nét đẹp và giá trị của ca
dao Việt Nam, thấy được sự giàu đẹp phong phú của thiên nhiên, vai trò của thiên
nhiên trong đời sống con người. Người viết tìm hiểu cụ thể qua các từ chỉ các hiện
tượng thiên nhiên – tự nhiên, đi vào phân tích ý nghĩa của các từ cũng như ý nghĩa
biểu trưng của các sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, phân tích giá trị sử dụng
của từ được dùng để chỉ các sự vật hiện tượng thuộc về thiên nhiên - tự nhiên qua
ca dao.
Đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về ca dao ở nhiều phương diện: nội
dung, hình ảnh biểu trưng, thi pháp, phương ngữ trong ca dao Nam Bộ, từ xưng
hô. Tuy nhiên, ở góc độ ngôn ngữ đặc biệt là vấn đề đi vào phân tích các từ chỉ các
sự vật, hiện tượng thiên nhiên – tự nhiên trong ca dao thì vẫn chưa có một tài liệu
nghiên cứu nào thật sự có tính chất quy mô. Người viết muốn đi sâu vào khai thác
vấn đề này, tiếp cận ca dao từ góc độ ngôn ngữ. Hệ thống các từ chỉ các hiện
tượng thiên nhiên – tự nhiên trong ca dao rất phong phú và đa dạng, là điều kiện
để người viết dễ dàng tìm hiểu và thực hiện đề tài một cách hiệu quả và khái quát

được vấn đề.
Ngoài ra, người viết cũng được kế thừa từ các công trình nghiên cứu ca dao
trước đó, có nhiều tài liệu tham khảo để người viết có thể hoàn thành tốt luận văn
tốt nghiệp của mình.

2.

Lịch sử vấn đề
Đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về ca dao Việt Nam, các nhà nghiên

cứu đi vào tìm hiểu nhiều vấn đề khác nhau xung quanh ca dao.
Trong Tạp chí Ngôn Ngữ và Đời Sống số 5_1996, Lương Duyên có nói
đến hình ảnh của loài vật trong từ ngữ dân gian, qua đó nói đến một số hình ảnh


biểu trưng của con vật nhưng chưa đi sâu vào giải thích ngữ nghĩa của nó bằng các
đặc điểm của từ. Chỉ dùng từ ngữ dân gian để kể tên hình ảnh của loài vật mà chưa
phân tích rõ giá trị biểu trưng và ý nghĩa của từ nêu tên gọi hình ảnh đó.
Hà Công Tài có bài: “ Biểu tượng trăng trong thơ ca dân gian” Tạp chí
văn hóa số 5 _ 1998. Trong bài viết tác giả chỉ đề cập tới một biểu tượng duy nhất
trong thơ ca dân gian, đó là “ trăng”. Hà Công Tài đã giải thích biểu tượng “trăng”
trong ca dao Việt Nam. Trong đó tác giả có nhắc đến biểu tượng “trăng” xuất hiện
cùng những hình ảnh sóng đôi.
Nguyễn Thị Ngọc Điệp: “ Tìm hiểu nguồn gốc biểu tượng trong ca dao”,
kỷ yếu khoa học năm 1999, khoa Nhân văn, Trường Đại học Sư phạm TPHCM.
Bài viết thể hiện sự quan tâm nghiên cứu về nguồn gốc của các biểu tượng trong
ca dao. Theo tác giả, có ba điểm xuất phát làm thành biểu tượng trong ca dao.
Điểm thứ nhất là do phong tục tập quán của người Việt Nam, từ quan niệm dân
gian, tín ngưỡng dân gian. Điểm thứ hai từ văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc.
Điểm thứ ba là từ sự quan sát trực tiếp hằng ngày của nhân dân.

Tạp chí Ngôn Ngữ và Đời Sống số 1 – 1997, Hà Quang Năng đi vào phân
tích hình ảnh “con trâu” trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Tác giả đã lí giải nghĩa
của các thành ngữ, tục ngữ, ca dao nói về con vật tiêu biểu này. Hơn nữa đã đưa
được các giá trị biểu trưng ở hình ảnh “con trâu”. Nhưng chỉ dừng lại ở nghĩa biểu
trưng của hình ảnh và chỉ xét riêng về một con vật duy nhất là “con trâu”. Chưa
xét ở góc độ rộng hơn là các loài động vật nói chung tiêu biểu trong ca dao, chưa
giải thích ý nghĩa của từ chỉ hình ảnh con vật này.
Năm 1977 Nxb Khoa học xã hội có quyển: “Tục ngữ ca dao Việt Nam” .
Trong lời giới thiệu, tác giả Vũ Ngọc Phan đã khẳng định: “Nhân dân Việt Nam đã
đem hình ảnh con cò và con bống vào ca dao – dân ca là đưa một nhận thức đặc
biệt về một khía cạnh của cuộc đời vào văn nghệ, lấy cuộc đời của những con vật
để tượng trưng vài nét đời sống của mình” (Lời giới thiệu).


Cũng năm 1977, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp xuất bản quyển
“ Văn học dân gian” (tập 2). Trong đó, tác giả Chu Xuân Diên đã đề cập đến các
“đồ vật”, ông gọi đây là “thiên nhiên thứ hai – thứ thiên nhiên do con người tạo
ra” . Thiên nhiên không chỉ là vật “gợi hứng” mà còn là một kho tàng nguyên liệu
vô tận cho việc xây dựng hình tượng trong ca dao Việt Nam.
Trên Tạp chí văn học số 1_ 1988 có đăng bài viết “Biểu tượng thơ ca” của
Bùi Công Hùng. Tác giả viết: “ Khi lần lại từng câu thơ, ca dao, tục ngữ, người ta
có thể phục hiện các biểu tượng gốc đầu tiên. Biểu tượng thì rất nhiều vì sự liên
quan đến khối lượng từ chỉ vật, chỉ thiên nhiên, chỉ con người,…khá nhiều” . Ông
đã liệt kê nhiều biểu tượng Thiên nhiên, nhưng chỉ nói nhiều đến một biểu tượng
trong vật thể nhân tạo là “thuyền”.
Tác giả Hà Thị Quế Hương với bài viết “ Hàm ý biểu trưng của từ chỉ hoa
và tên hoa trong ca dao” trong Tạp chí Văn học dân gian số 3_2001. Trong bài
viết, tác giả tìm hiểu hàm nghĩa của từ chỉ hoa và các tổ hợp có tên các loài hoa,
chưa đi vào phân tích cụ thể ý nghĩa và giá trị sử dụng của các từ chỉ tên hoa trong
ca dao một cách cụ thể.

Tác giả Nguyễn Thị Phương Châm trong bài viết về “Hoa hồng trong ca
dao” . Trong bài viết, tác giả đề cập đến hoa hồng, chỉ ra các nét nghĩa biểu tượng
của hoa hồng ở phương Tây cũng như phương Đông, đặc biệt trong ca dao Việt
Nam. Nhưng vẫn chưa đi vào tìm hiểu ở phạm vi rộng là các từ chỉ Thế giới các
loài thực vật trong ca dao mà chỉ dừng lại ở một biểu tượng hoa hồng.
Nguyễn Xuân Kính trong quyển “Thi pháp ca dao”, Nxb Đại học Quốc Gia
Hà Nội. Tác giả dành nguyên một chương bảy (Từ trang 309 – 350) để nói về “
Một số biểu tượng hình ảnh” trong ca dao, trong đó ông nói đến các hình ảnh
trong thiên nhiên – tự nhiên và phân loại các từ chỉ các hiện tượng trong ca dao
thành hai tiểu mục (1. Thế giới các hiện tượng tự nhiên bao gồm: các hiện tượng
tự nhiên, thế giới các loài thực vật, thế giới các loài động vật; 2. Thế giới các vật
thể nhân tạo bao gồm: đồ dùng cá nhân, dụng cụ sinh hoạt gia đình, công cụ sản


xuất, công trình kiến trúc. Giá trị biểu trưng nghệ thuật của các vật thể nhân tạo
trong ca dao cổ truyền Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa dân gian, H, số 3, tr. 46 – 52.
Nhìn chung, chưa có một tài liệu nào nghiên cứu một cách toàn diện về các
từ chỉ các hiện tượng thiên nhiên – tự nhiên trong ca dao, mà phổ biến chỉ dừng ở
một biểu tượng, hay một vài biểu tượng riêng lẻ. Có người chỉ dừng lại ở các từ
chỉ các vật thể nhân tạo, có người chỉ nghiên cứu vào các loài thực vật hoặc động
vật. Đó cũng là động lực thúc đẩy người viết đào sâu tìm hiểu, tự do khai thác
nhiều điều mới về ca dao ở góc độ ngôn ngữ, đặc biệt ở giới hạn ở các từ chỉ các
hiện tượng thiên nhiên – tự nhiên trong ca dao.
Tục ngữ và ca dao đều có những từ chỉ các hiện tượng thiên nhiên – tự
nhiên gần như giống nhau, nhưng về các từ chỉ các hiện tượng thiên nhiên – tự
nhiên trong ca dao lại ít được nói đến và đi sâu nghiên cứu như tục ngữ. Đó cũng
là động lực cho người viết hoàn thành tốt phần nghiên cứu đề tài này, góp phần
nhỏ vào các công trình nghiên cứu trước đó và mở rộng tìm hiểu cụ thể nhiều vấn
đề mới từ ca dao Việt Nam.


3.

Mục đích nghiên cứu
Ca dao thể hiện nhiều vấn đề khác nhau của đời sống con người. Tìm hiểu

văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng là việc làm nhiều ý nghĩa. Thông
qua việc phân tích các từ chỉ các hiện tượng thiên nhiên – tự nhiên trong ca dao,
người viết có thể hiểu rõ hơn về phong tục, tập quán, nếp sống sinh hoạt của người
lao động. Sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người trong đời sống thông qua ca
dao là sự gắn bó vô cùng mật thiết.
Bằng đặc điểm trữ tình tha thiết của ca dao, các từ chỉ các hiện tượng trong
đời sống hằng ngày của con người trở nên sinh động và mang nhiều ý nghĩa, càng
thể hiện được sự gần gũi gắn bó với con người. Trong đề tài này, người viết đi vào
phân tích các từ chỉ các hiện tượng thiên nhiên – tự nhiên có mối quan hệ mật thiết
với đời sống của người dân lao động. Từ các hình ảnh quen thuộc đó, tìm hiểu ý


nghĩa và giá trị của từ từ góc độ ngôn ngữ, làm nổi bật giá trị biểu trưng của các
hình ảnh trong ca dao. Phân tích để thấy được sự phong phú của hệ thống các từ
chỉ các hiện tượng trong thiên nhiên – tự nhiên qua ca dao. Tìm hiểu tính cách và
nếp sống của người Việt Nam xưa và nay từ những câu lục bát thấm nhuần giá trị
truyền thống dân tộc.

4.

Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, người viết giới hạn phạm vi nghiên cứu trong những câu ca

dao có chứa các từ chỉ các hiện tượng thiên nhiên – tự nhiên. Cụ thể thông qua các
từ để phân tích giá trị biểu trưng của các hình ảnh vốn đã rất quen thuộc với người

dân lao động.
Thế giới trong thiên nhiên – tự nhiên là thế giới các hiện tượng có sẵn, rất
phong phú và đa dạng. Đối tượng chính trong đề tài này là các từ chỉ các hiện
tượng tự nhiên thuộc về vũ trụ như: trăng, gió, mây, mưa,…và các từ chỉ thế giới
các loài thực vật, động vật như: cỏ cây, hoa, lá, chim muông,…
Người viết đi vào cụ thể các câu ca dao có các từ chỉ các hiện tượng thiên
nhiên – tự nhiên, thống kê và khảo sát để đi vào ngữ nghĩa của từ chỉ các hiện
tượng đó ở góc độ ngôn ngữ. Ngữ liệu khảo sát của đề tài này là công trình
nghiên cứu “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” của tác giả Vũ Ngọc Phan, Nxb
Thời Đại.

5.

Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã sử dụng một số phương

pháp khoa học chung. Người viết đã sử dụng phương pháp thống kê, khảo sát để
xác định tần số xuất hiện của các từ chỉ các hiện tượng thiên nhiên – tự nhiên
trong ca dao. Để thấy được vai trò và giá trị biểu trưng của các từ và các hình ảnh
trong ca dao, người viết dùng biện pháp so sánh, đối chiếu giữa các câu ca dao,
giữa các hình ảnh biểu trưng. Để làm sáng tỏ những luận điểm, ý kiến đưa ra thì
biện pháp chứng minh giúp ích rất nhiều cho người viết thực hiện thao tác này.


Trong quá trình thực hiện đề tài, phương pháp phân tích, tổng hợp, chọn lọc những
hình ảnh tiêu biểu nhất cũng góp phần quan trọng không kém. Ngoài ra, người viết
còn sử dụng một số phương pháp liên ngành : lịch sử, văn hóa,..từ đó mổ xẻ, lí
giải, phân tích những vấn đề một cách logic và chặt chẽ hơn.



B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ
1. Từ là gì?
Cho đến nay, vẫn chưa tìm được sự thống nhất trong cách định nghĩa về từ.
Theo G.S Cao Xuân Hạo: “Chúng ta hiểu tính đa dạng về tên gọi mà các tác giả
khác nhau đã đề nghị cho đơn vị khác thường đó của các ngôn ngữ đơn lập là: tiết
vị (syllabophoneme), hình tiết (morphosyllabeme), từ tiết (wordssyllabe), đơn tiết
(monosyllabe) hoặc đơn giản là từ (word). Thực ra nó chính là âm, hình vị, hoặc
từ và tất cả là đồng thời nếu chúng ta so sánh với các ngôn ngữ Châu Âu về cơ cấu
xoay quanh ba trục được tạo thành bởi các đơn vị cơ bản là âm vị, hình vị và từ thì
cơ cấu của Tiếng Việt hầu như là sự kết hợp ba trục đó thành một trục duy nhất,
âm tiết” [43;7]
Nguyễn Thiện Giáp: “ Từ của Tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ba
nghĩa để tạo ra câu nói; nó có hình thức, có một âm tiết, một chữ viết rời” [17;72]
Theo quan niệm của Trương Văn Chính, Nguyễn Hiến Lê: “Từ là âm có
nghĩa, dùng trong ngôn ngữ để diễn đạt một ý đơn giản nhất, nghĩa là ý không thể
phân tích ra được” [41;67]
Nguyễn Văn Tu cho rằng: “ Từ là đơn vị nhỏ nhất và đơn lập, có hình
thức vật chất (vỏ âm thanh là hình thức) và có nghĩa, có tính biện chứng và lịch
sử” [41;75]
Tác giả Nguyễn Kim Thản viết: “Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ có thể
tách khỏi đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và một khối hoàn
chỉnh về ngữ âm( từ vựng, ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp” [40;14]


Hồ Lê nêu ý kiến: “ Từ là đơn vị ngôn ngữ có chức năng định danh phi
liên kết hiện thực, hoặc chức năng mô phỏng tiếng động có khả năng kết hợp tự
do, có tính vững chắc về cấu tạo và tính nhất thể về ý nghĩa.”[35;8]
Lưu Văn Lãng cho rằng:” Những đơn vị dùng tách biệt nhỏ nhất mới là

từ. Có thể nói từ là đơn vị tách biệt nhỏ nhất. Nói cách khác, từ là ngữ đoạn (tĩnh)
nhỏ nhất và từ có thể gồm nhiều tiếng không tự do kết hợp lại không theo quan hệ
thuần cú pháp Tiếng Việt” [41;8]
Đỗ Hữu Châu quan niệm: “ Từ của tiếng việt là một hoặc một số âm tiết
cố định bất biến, có ý nghĩa nhất định, nằm trong một phương thức (hoặc kiểu cấu
tạo) cấu tạo nhất định, tuân theo những kiểu đặc điểm ngữ pháp nhất định, lớn
nhất trong từ vựng và nhỏ nhất để tạo câu” [5;139]
Qua các định nghĩa nêu trên, chúng tôi nhận thấy có thể khái quát về khái
niệm từ như sau: Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ có nghĩa. Từ mang tính sẵn
có, cố định và là đơn vị nhỏ nhất trực tiếp tạo câu.

2. Các thành phần nghĩa của từ
Mỗi khi học nghĩa của một từ, chúng ta bằng cách liên hội từ với những
cái mà nó chỉ ra (trước hết là sự vật, hiện tượng, hành động, hoặc thuộc tính,…mà
từ đó làm tên gọi cho nó). Mặt khác, nghĩa của từ cũng được thông qua các tình
huống giao tiếp ngôn ngữ mà từ đó được sử dụng.
Từ có liên hệ với nhiều nhân tố, nhiều hiện tượng. Nghĩa của từ không
phải chỉ có một thành phần. Khi nói về nghĩa của từ, người ta thường phân biệt các
thành phần nghĩa sau đây:

2.1 Nghĩa biểu vật (denotative)
Những sự vật, quá trình, tính chất hoặc trạng thái mà từ biểu thị được gọi
là nghĩa biểu vật của từ. Hay nói cách khác, nghĩa biểu vật của từ là các ánh xạ của


các sự vật, thuộc tính ngoài ngôn ngữ vào ngôn ngữ. Biểu vật có thể hiện thực
hoặc phi hiện thực, hữu hình hay vô hình, có bản chất vật chất hoặc phi vật chất.
Ví dụ: đất, trời, mây, mưa, nắng, nóng, lạnh, thánh, thần,…
Ánh xạ của các sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan được phản
ánh vào ngôn ngữ không hoàn toàn đồng nhất với các ánh xạ được phản ánh trong

tự nhiên. Ánh xạ trong ngôn ngữ có sự cải tạo lại, sáng tạo những cái có trong thực
tế theo cách nhận thức của từng dân tộc. Ta có thể chứng minh điều này dựa vào
phạm vi biểu vật của các thực từ trong ngôn ngữ cụ thể và dựa vào việc so sánh,
đối chiếu phạm vi biểu vật giữa các ngôn ngữ.

* Biểu hiện thứ nhất của sự không trùng nhau đó là: trong thực tế sự vật
luôn luôn tồn tại trong dạng cá thể và cụ thể, còn nghĩa biểu vật trong ngôn ngữ lại
mang tính đồng loạt, khái quát…

* Biểu hiện thứ hai của sự không trùng nhau đó là sự chia cát hiện thực
khách quan khác nhau về nghĩa biểu vật của các ngôn ngữ.

2.2 Nghĩa biểu niệm ( significative)
Sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan có các thuộc tính, các thuộc
tính đó phản ánh vào tư duy hình thành các khái niệm. Hay nói cách khác, khái
niệm là phạm trù của tư duy, được hình thành từ những hiểu biết trong thực tế.
Đấy là những dấu hiệu bản chất về sự vật, hiện tượng.
Các thuộc tính đó phản ánh vào ngôn ngữ hình thành các nét nghĩa. Tập
hợp của các nét nghĩa đó trong ngôn ngữ, hình thành nghĩa biểu niệm. Như vậy,
nghĩa biểu niệm một mặt thông qua các nghĩa biểu vật mà liên hệ với hiện thực
khách quan, mặt khác, lại có quan hệ với khái niệm, qua khái niệm mà liên hệ với
hiện thực ngoài ngôn ngữ.


Các nét nghĩa bắt buộc từ các thuộc tính của các sự vật trong thực tế. Mỗi
dân tộc, tùy theo ngôn ngữ của mình, chọn một số thuộc tính cơ bản có tác dụng
xác lập nghĩa của từ trong hệ thống.
Nghĩa biểu niệm chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong từ vựng-ngữ học,.
Cần phải hiểu mối liên hệ mà chúng ta nói tới trong quan niệm về nghĩa của từ ở
đây chính là mối liên hệ chỉ xuất, mối liên hệ phản ánh, cho nên nghĩa biểu hiện

cũng có thể hiểu là sự phản ánh sự vật – biểu vật (đúng hơn là phản ánh các thuộc
tính, các đặc trưng của chúng) trong ý thức con người, được tiến hành bằng từ.

* Nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng,
khía quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa có
mối quan hệ nhất định. Tập hợp này ứng với một số nghĩa biểu vật của từ. Chính
vì nghĩa biểu niệm của từ là một tập hợp có tổ chức, có quan hệ, cho nên còn có
thể gọi nó là cấu trúc biểu niệm.
Ví dụ: Nước biển, nước mắm, ngồi ghế, ngồi chồm hổm, cái bàn, quần
áo,…

2.3 Nghĩa biểu thái (pragmatical meaning)
Nghĩa ngữ dụng còn gọi là nghĩa biểu thái, là mối liên hệ giữa từ với thái
độ chủ quan, cảm xúc của người nói.
Thuộc phạm vi nghĩa biểu thái của từ bao gồm những nhân tố đánh giá
như: “to nhỏ”, “mạnh yếu”,…nhân tố cảm xúc như: “dễ chịu”, “khó chịu”, “sợ
hãi”, …Nhân tố thái độ như: “trọng”, “khinh”, “yêu”, “ghét”,…mà từ gợi ra cho
người nói và người nghe.

3. Sự chuyển nghĩa của từ trong hệ thống
3.1 Nguyên nhân
Sự chuyển nghĩa của từ xảy ra do nhiều nguyên nhân trực tiếp và gián
tiếp, bên trong và bên ngoài khác nhau như sự phát triển không ngừng của thực tế


khách quan, nhận thức của con người thay đổi, hiện tượng kiêng cữ, sự phát triển
và biến đổi của hệ thống ngôn ngữ…Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng nhất
chính là “nhu cầu giao tiếp của con người”. Thay đổi nghĩa của một từ có sẵn,
thổi vào chúng một luồng sinh khí mới là một biện pháp tiết kiệm, sống động, giàu
tính dân tộc, dễ dàng được sư chấp nhận của nhân dân, đáp ứng được kịp thời nhu

cầu của giao tiếp.
3.2 Các dạng chuyển nghĩa của từ
- Dạng móc xích
- Dạng tỏa ra
3.3 Phương thức chuyển nghĩa của từ
Một từ có thể có một hoặc nhiều nghĩa, nhưng đó không phải là những tổ
chức lộn xộn.
Nếu là một từ nhiều nghĩa (đa nghĩa) thì các nghĩa đó của từ có quan hệ
với nhau, được sắp xếp theo những cơ cấu tổ chức nhất định.
Trong từng nghĩa của mỗi từ cũng vậy, chúng gồm những thành tố nhỏ
hơn, có thể phân tích ra được và cũng được sắp xếp theo một tổ chức nào đó.
Như vậy, xét cơ cấu nghĩa của từ là ta xác định xem từ đó có bao nhiêu
nghĩa, mỗi nghĩa có bao nhiêu thành tố nhỏ hơn, và tất cả chúng được sắp xếp
trong quan hệ với nhau như thế nào.
Để xây dựng, phát triển thêm nghĩa của các từ, trong ngôn ngữ có nhiều
phương thức. Tuy nhiên, có hai phương thức quan trọng nhất thường gặp trong các
ngôn ngữ là: chuyển nghĩa ẩn dụ (metaphor) và chuyển nghĩa hoán dụ
(metonymy).


3.3.1 Phương thức ẩn dụ
Là phương thức lấy tên gọi A của sự vật a để gọi tên các sự vật b, c, d vì
giữa a, b, c, d có điểm giống nhau. Hay nói cách khác, ẩn dụ là phương thức
chuyển nghĩa dựa vào qui luật liên tưởng tương đồng.
Ví dụ: Từ CÁNH trong tiếng Việt có nhiều nghĩa. Khi định danh cho
cánh chim, cánh chuồn chuồn, cánh bướm,... nó có nghĩa là: Bộ phận dùng để bay
của chim, dơi, côn trùng; có hình tấm, rộng bản, tạo thành đôi đối xứng ở hai bên
thân và có thể khép vào, mở ra.
Trên cơ sở so sánh nhiều sự vật khác có hình dạng tương tự (hoặc người
Việt liên tưởng và cho là chúng tương tự nhau), người ta đã đã chuyển CÁNH

sang gọi tên cho những bộ phận giống hình cánh chim ở một vật: cánh máy bay,
cánh quạt, cánh hoa; cánh chong chóng, cánh cửa, ngôi sao năm cánh; kề vai sát
cánh đấu tranh, cánh tay, cánh buồn; cánh rừng, cánh đồng, cánh quân,... (những
tên gọi về sau này đã khác rất xa so với cánh chim).

* Có hai hình thức chuyển nghĩa:
- Dùng cái cụ thể để nói cái cụ thể (ẩn dụ cụ thể - cụ thể)
- Dùng cái cụ thể để gọi tên những cái trừu tượng (ẩn dụ cụ thể - trừu
tượng)
3.3.2 Phương thức hoán dụ
Là phương thức lấy tên gọi A của sự vật a để gọi tên cho sự vật b, c, d vì
giữa a, b, c, d tuy không giống nhau nhưng có một quan hệ gần nhau nào đó về
không gian hay thời gian. Hoán dụ là phương thức chuyển nghĩa dựa vào quy luật
liên tưởng tiếp cận.
Ví dụ: Vụng vá vai (áo) tài vá nách (áo)
Ở đây, tiếng Việt đã lấy bộ phận thân thể để gọi tên bộ phận trang phục có vị trí
tương ứng.


* Các dạng chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ
a. Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa bộ phận và toàn thể. Dạng chuyển nghĩa
này có các cơ chế chuyển nghĩa cụ thể sau:
Lấy tên gọi của một bộ phận cơ thể gọi tên cho người hay cho cả toàn thể.
Lấy tên gọi của tiếng kêu, đặc điểm hình dáng của đối tượng gọi tên cho
đối tượng.
Lấy tên gọi của đơn vị thời gian nhỏ gọi tên cho đơn vị thời gian lớn.
Lấy tên gọi của toàn bộ gọi tên cho bộ phận.
b. Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa vật chứa và vật bị chứa hay lượng vật
chất được chứa.
c. Lấy tên nguyên liệu gọi tên cho hoạt động hoặc sản phẩm được chế ra

từ nguyên liệu đó.
d. Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa đồ dùng hoặc dụng cụ và người sử dụng
hoặc ngành hoạt động sử dụng dụng cụ đó.
e. Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa cơ quan chức năng và chức năng.
f. Hoán dụ dựa vào quan hệ giữa tư thế cụ thể và hành vi hoặc trạng thái
tâm- sinh lí đi kèm.
g. Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa tác giả hoặc địa phương và tác phẩm
hoặc sản phẩm của họ hoặc ngược lại.
Tóm lại, hiện tượng nhiều nghĩa một mặt phản ánh độ dày của ngôn ngữ,
một mặt đáp ứng quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ; mặt khác phản ánh độ phong
phú của tư duy, tình cảm, những kinh nghiệm sống của mỗi dân tộc. Hiện tượng
nhiều nghĩa còn giúp ta có thêm căn cứ để hiểu sâu sắc bản chất ý nghĩa của từ
cũng như tính hệ thống của chúng.


3. Sự chuyển nghĩa của từ trong hoạt động
Trong hoạt động nhận thức và giao tiếp, từ có thể được chuyển nghĩa
(chuyển tên gọi từ một đối tượng cũ sang một đối tượng mới) dựa trên mối quan
hệ nào đó giữa các đối tượng được gọi tên.
Tác giả Cù Đình Tú nói đến sự chuyển nghĩa của từ trong quyển Phong
cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt, Nxb Giáo dục,2001, theo quan niệm của
ông thì các cách tu từ cấu tạo theo quan hệ liên tưởng là trong một văn cảnh cụ
thể, từ ngữ có hiện tượng lâm thời chuyển đổi nghĩa. Ở đây, nghĩa của từ vốn biểu
thị đối tượng này nay được lâm thời chuyển sang biểu thị đối tượng khác dựa trên
một quan hệ liên tưởng nhất định (liên tưởng nét tương đồng và liên tưởng có tính
logic khách quan) về mối quan hệ có thực xảy ra giữa hai đối tượng. Tùy vào đặc
trưng của từng đối tượng, tùy thuộc vào đặc trưng mối quan hệ liên tưởng giữa hai
đối tượng mà chúng ta có những cách tu từ: ẩn dụ tu từ, hoán dụ tu từ, tượng trưng
tu từ,…
3.1 Ẩn dụ tu từ

Ẩn dụ tu từ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi biểu thị đối tượng này
dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên cơ sở của mối quan hệ liên tưởng về nét
tương đồng giữa hai đối tượng. [7;60]
Ví dụ :

“Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
(Ca dao)
Trong tâm trí người bình dân Việt Nam, hình ảnh “cây đa bến cũ” thường
gắn với cái gì vững bền, không thay đổi. Người ta liên tưởng đến dấu hiệu tương
tự ở một con người thủy chung. Và “bến” được ca dao lấy làm ẩn dụ để lâm thời
biểu thị con người có lòng thủy chung.


3.2 Hoán dụ tu từ
Hoán dụ tu từ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi của đối tượng này
dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên mối quan hệ liên tưởng loogic khách quan
giữa hai đối tượng.[7;64]
Ví dụ: Đầu xanh có tội tình gì?
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi
(Nguyễn Du)
_ “Đầu xanh” ( bộ phận cơ thể), biểu thị cho con người ở tuổi trẻ trung
_ “Má hồng” (bộ phận cơ thể), biểu thị người đàn bà sống trong lầu xanh
3.3 Tượng trưng
Tượng trưng là cách tu từ biểu thị đối tượng định miêu tả bằng ước lệ có
tính chất xã hội. Người ta qui ước với nhau rằng: từ ngữ này có thể được dùng để
biểu thị một đối tượng khác ngoài cái nội dung ngữ nghĩa thông thường của
nó…[7;65]
Ví dụ: “Trăm năm dầu lỗi hẹn hò

Cây đa bến cũ, con đò khác xưa”
(Ca dao)
“Cây đa”, “bến cũ”, con đò tượng trưng cho những người yêu nhau. Nói
về sự đổi thay trong tình yêu.

* Phân biệt ẩn dụ và hoán dụ tu từ với ẩn dụ và hoán dụ từ vựng
- Ẩn dụ và hoán dụ tu từ được sử dụng nhằm giúp cho sự diễn đạt tăng
tính hình ảnh, biểu cảm, chứ không có tác dụng tạo nghĩa mới làm giàu cho hệ


thống ngữ nghĩa của ngôn ngữ dân tộc. Ẩn dụ và và hoán dụ tu từ là sáng tạo của
cá nhân do đó nghĩa tu từ mang tính tạm thời, lệ thuộc hoàn toàn vào văn cảnh,
tách khỏi văn cảnh, nghĩa tu từ biến mất.
- Ẩn dụ tu từ và hoán dụ từ vựng có tác dụng tạo nghĩa mới cho hệ
thống từ vựng – ngữ nghĩa của dân tộc, do đó sự chuyển nghĩa đó là sản phẩm của
toàn dân, được cố định hóa trong kho từ vựng tiếng Việt, được ghi vào từ điển như
một nghĩa sẵn có, được tái dụng một cách tự do trong lời nói.

II. TỪ CHỈ CÁC HIỆN TƯỢNG THIÊN NHIÊN – TỰ NHIÊN
1. Khái niệm thiên nhiên – tự nhiên
Theo quyển Từ điển Tiếng Việt Nxb Văn hóa thông tin (trang 1259), phần
tự nhiên: 1. Tự nhiên là tất cả những gì tồn tại mà không phải do có con người mới
có. (Ví dụ: quy luật của tự nhiên ) 2. Thuộc về tự nhiên hoặc có tính chất của tự
nhiên, không phải do có con người mới có, không có tác động hoặc sự can thiệp
của con người. 3. Sự việc xảy ra không có hoặc có lí do, tựa một hiện tượng thuần
túy trong tự nhiên vậy.
Thiên nhiên: là tự nhiên, những gì do trời sinh ra, không do có con người
mới có.
Trang wed kiến thức Vi.wikipeadia.org có đăng bài nói về thiên nhiên và tự
nhiên như sau: “Tự nhiên cũng được gọi là thiên nhiên, thế giới vật chất và thế

giới tự nhiên. Là tất cả vật chất và năng lượng chủ yếu ở dạng bản chất.
Tính về độ lớn “tự nhiên” bao gồm những thứ thật lớn như vũ trụ đến
những thứ thật nhỏ như hạt nguyên tử. Tức là bao gồm tất cả các thú vật, thực vật,
khoáng vật, tất cả tài nguyên, những quá trình liên quan vật chất vô sinh và hữu
sinh.


Trang wed oldct.com cũng có phần từ điển định nghĩa về thiên nhiên như
sau: Thiên nhiên (danh từ) : Toàn bộ những gì đang có xung quanh con người mà
không phải do con người tạo nên. Ví dụ: cảnh thiên nhiên tươi đẹp.
Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, Nxb Tp. HCM, 1998 định
nghĩa tự nhiên: “Tự nhiên là toàn thể những vật vốn có trong tự nhiên, không do
con người làm ra…” [26;352]
Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội, 1992 định
nghĩa: ‘Tự nhiên là tất cả nói chung những gì tồn tại mà không phải do con người
mới có, không có tác động hoặc sự can thiệp của con người”.
Từ một số định nghĩa nên trên, ta thấy thiên nhiên và tự nhiên đều mang
những đặc điểm chung đó là: là những gì thuộc về vũ trụ. Các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, không phải do con người mới có. Vậy, các hiện tượng trong thiên
nhiên và tư nhiên đều có sự tương đồng với nhau về nghĩa và không có sự phân
biệt rõ rệt dù thiên nhiên và tự nhiên là hai từ riêng biệt. Do vấn đề khảo sát là từ
chỉ các hiện tượng thiên nhiên – tự nhiên nên chúng tôi chọn các từ thuộc từ loại
danh từ cho khái niệm về thiên nhiên và tự nhiên.
Tác giả Nguyễn Xuân Kính nhập chung các hiện tượng thiên nhiên và tự
nhiên. Trong quyển “Thi Pháp Ca Dao” [310;390], ông cho rằng các sự vật hiện
tượng thuộc về thế giới của thiên nhiên và tự nhiên trong ca dao bao gồm: (các
hiện tượng của đất trời, thế giới thực vật, thế giới động vật) .Người viết theo quan
điểm và sự phân loại này để thực hiện đề tài “ Từ chỉ các hiện hiện tượng thiên
nhiên – tự nhiên trong ca dao”.


2. Từ chỉ các hiện tượng thiên nhiên – tự nhiên
2.1 Từ chỉ các hiện tượng của đất trời
Có rất nhiều từ chỉ các hiện tượng của đất trời. Tất cả các hiện tượng như:
mây, gió, trăng, sao, sông, suối, biển, mưa, bão, giông, lốc, sóng thần, thủy triều,
núi, đồi,sa mạc, nước, đất, lạch, hồ,…đều vốn đã có sẵn trong vũ trụ không do con


người mới có, con người cũng không thể nào ngăn các hiện tượng tự nhiên mà chỉ
có thể dự báo để đề phòng và khắc phục hậu quả.
Trong phần nghiên cứu của mình, người viết đi vào bốn hiện tượng xuất
hiện phổ biến trong ca dao : trăng, sông, mây gió.

2.2 Từ chỉ thế giới thực vật
Từ chỉ thế giới các loài thực vật cũng vô cùng phong phú và đa dạng : Thực
vật nói chung có muôn vàn chủng loài khác nhau (cây đa, cây tre, cây lúa, cây
gạo, trầu, cau, ngô đồng, cây tùng, bách, cây liễu, cây bồ đề, cây trúc, cây nhãn,
cây quýt, cam, hạnh, cây đào, cây mận, cây bưởi,…), các loài rau, củ, quả (ngò,
khoai lang, hành, ớt, rau muống, cây cải,…), các loài hoa nói chung (hoa lan, hoa
sen, hoa hồng, hoa đào, hoa cúc, hoa nhài, hoa bưởi, hoa mai, hoa mười giờ, hoa
phượng,…). Tất cả các loài kể trên đều xuất hiện trong ca dao tục ngữ với nhiều ý
nghĩa khác nhau, thể hiện nhiều nội dung khác nhau trong đời sống người lao
động. Người viết chỉ khái quát ở mức độ tương đối và tập trung vào các từ thường
được dùng trong ca dao.
Người viết đi vào các từ tiêu biểu nhất trong ca dao: trúc, mai, hoa nhài,
hoa sen, trầu, cau, cây đa, cây tre.

2.3 Từ chỉ thế giới động vật
Trong thiên nhiên, các loài động vật cũng vô cùng phong phú. Do đặc điểm
sinh sản và lai tạo chủng loài mà các loài động vật phát triển rất nhanh về số lượng
và loại. Các từ chỉ thế giới các loài động vật cũng vì thế trở nên vô cùng phong

phú. Do tính giới hạn của đề tài nghiên cứu, người viết tập trung ở các từ chỉ các
loài vật thường xuyên xuất hiện trong ca dao như: các loài chim (vạc, nông, cò,
chim quyên, chim sâu, quạ, chìa vôi, hạc,…) các loài cá (cá chạch, cá rô, cá lìm
kìm,…), rồng, phượng, gà, trâu, lợn, chó, ong, bướm, rắn, tôm, tép, chuột, vượn,
cuốc, bò, ve, hùm, cóc, hươu, rận, vịt, ếch, lươn, lạch, mèo, tò vò, ốc, chuồn


chuồn, dế, kiến, khỉ, gián, ba ba, sâu, ruồi, cá sấu, dơi, đĩa, đom đóm, thỏ, nhện,
cua, …
Người viết đi vào ba loài vật được sử dụng phổ biến và có giá trị biểu trưng
trong ca dao : cò, chim quyên, trâu.


Chương 2 : TỪ CHỈ CÁC HIỆN TƯỢNG THIÊN NHIÊN –
TỰ NHIÊN TRONG CA DAO
I. Tổng quan
1. Từ chỉ các hiện tượng của đất trời
Khảo sát từ hơn 900 lời ca dao, từ chỉ các hiện tượng của đất trời xuất hiện 250
lời (27,7%). Người viết chọn 4 từ tiêu biểu nhất.

STT

TỪ

SLXH

TỶ LỆ (%)

1


Trăng

48

19,2

2

Sông

42

16,8

3

Gió

32

12,8

4

Mây

22

8,8


2. Từ chỉ thế giới thực vật
Từ chỉ thế giới các loài thực vật xuất hiện 290 lần (32%). Người viết chọn các từ
tiêu biểu nhất.

STT

TỪ

SLXH

TỶ LỆ (%)

1

Trầu - cau

40

13,8

2

Cây đa

18

6,2

3


Hoa sen

16

5,5


Hiện tượng tự nhiên. Các ví dụ giải thích được hiện tượng không giải thích được và

Thế giới của thiên nhiên xung quanh chúng ta là đầy ắp những bí ẩn khác nhau và câu đố. Các nhà khoa học trong nhiều thế kỷ tìm kiếm câu trả lời và cố gắng để giải thích đôi khi sự thật không thể giải thích, nhưng ngay cả những suy nghĩ tốt nhất của loài người vẫn không là đối tượng của một số hiện tượng tự nhiên tuyệt vời.

Đôi khi có vẻ như đèn flash lạ trên bầu trời, một cách tự nhiên di chuyển những tảng đá không có nghĩa là bất cứ điều gì đặc biệt. Nhưng đào sâu vào những biểu hiện bí ẩn quan sát trên hành tinh này, bạn biết rằng câu trả lời cho nhiều câu hỏi là không thể. Thiên nhiên che giấu bí mật của nó, và người đưa ra giả thuyết mới, cố gắng để giải quyết chúng.

Hôm nay chúng ta nhìn vào hiện tượng vật lý trong tự nhiên sẽ làm cho bạn mất một cái nhìn mới về thế giới xung quanh chúng ta.