Khi bị thực dân pháp đô hộ quảng trường ba đình có tên là gì?

Quảng trường Ba Đình - Nơi ghi dấu lịch sử

Đọc bài Lưu

QPTĐ-Cùng với Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội, Quảng trường Ba Đình là một phần của Thủ đô ngàn năm văn hiến. Nơi đây đã chứng kiến bao lịch sử thăng trầm của dân tộc. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào đủ các tầng lớp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước toàn thể quốc dân và nhân dân thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.

Khi bị thực dân pháp đô hộ quảng trường ba đình có tên là gì?

Quảng trường Ba Đình lịch sử-Nơi 75 năm trước Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Quảng trường Ba Đình xưa là cổng phía Tây của Kinh thành Thăng Long, nơi đây còn được gọi là Quảng trường Tròn (Rond Point Puginier). Đó là một khu đất gồm những bãi đất hoang và hồ ao mới lấp, rộng hàng chục héc-ta cạnh Phủ Toàn quyền Pháp (sau này là Phủ Chủ tịch). Khu vực Quảng trường Tròn này trong một thời gian dài hầu như chẳng có gì thay đổi. Mặc dù năm 1922 và năm 1938, Phủ Toàn quyền Pháp đã có ý định quy hoạch lại Quảng trường Tròn. Song không hiểu vì lý do gì mà các dự án cải tạo Quảng trường Tròn vẫn không được thực hiện.

Tên Quảng trường Ba Đình do bác sỹ Trần Văn Lai, người giữ chức Thị trưởng Thành phố từ ngày 20/7 đến 19/8/1945 đặt tên. Sở dĩ, Thị trưởng Trần Văn Lai đặt tên là Ba Đình vì ông cảm phục nghĩa quân Đinh Công Tráng đã chống Pháp rất anh dũng ở căn cứ Ba Đình, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa vào những năm cuối thế kỷ XIX.

Tháng 8/1945, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, toàn dân tộc ta từ Bắc chí Nam, triệu người như một đã nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 19/8/1945, hàng chục vạn người dân Hà Nội sau khi tham dự mít tinh ở Quảng trường Nhà hát Lớn Thành phố đã rầm rập tỏa đi các ngả, chiếm các cơ quan, công sở của Chính quyền bù nhìn thân Nhật, giành trọn vẹn chính quyền về tay nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công đã đập tan xiềng xích nô lệ kéo dài hàng nghìn năm của chế độ phong kiến, xóa bỏ ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nhân dân Việt Nam từ địa vị nô lệ đã vươn lên trở thành những người chủ của đất nước, tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có nhiều địa điểm được đưa ra lựa chọn để làm nơi diễn ra sự kiện trọng đại-Lễ Độc lập và cuối cùng Quảng trường Ba Đình đã được chọn.

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết: Khi lựa chọn địa điểm, tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn Quảng trường Ba Đình để đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vì Bác Hồ muốn có một thông điệp không chỉ với dân tộc Việt Nam mà với toàn thế giới. Thông điệp ấy gửi gắm đến một thế giới đang chuyển đổi sau khi chủ nghĩa phát xít đã bị tiêu diệt và trong phần cuối của Tuyên ngôn, Bác khẳng định rằng, quyền độc lập của dân tộc Việt Nam là do dân tộc Việt Nam giành lại được và nó phù hợp với nguyên lý của nhân loại… Tại sao Bác Hồ chọn ngày 2/9, vì đó là ngày Chủ nhật, có thể huy động được đông đảo quần chúng. Không gian của Quảng trường Ba Đình lúc đó trở thành một lễ đài rất trang nghiêm và hội tụ lòng dân vào trong nền độc lập của đất nước.

Với những người được trực tiếp chứng kiến Ngày Lễ Độc lập 2/9/1945 thì thời khắc ở Quảng trường Ba Đình lịch sử mãi là niềm tự hào và sẽ đi theo họ suốt cuộc đời. Ông Phạm Gia Đốc, nguyên Tiểu đội trưởng Trinh sát, Sở Liêm phóng Bắc bộ, người được giao bảo vệ Lễ đài năm đó cho biết: Khi chúng tôi được gọi đến giao nhiệm vụ bảo vệ Lễ đài ngày 2/9 (lúc đầu chúng tôi chưa hề biết đấy là ngày Tuyên ngôn Độc lập), tôi rất phấn khởi, tự hào nhưng cũng rất lo. Lo là vì làm sao bảo vệ được an toàn, vì lúc bấy giờ bọn phản động vẫn còn. Chỉ huy đơn vị cũng giao nhiệm vụ cụ thể, đồng chí nào đứng ở đâu thì đứng nguyên ở đấy để đề phòng bọn phản động phá Lễ đài. Không khí lúc đó vô cùng phấn khởi; đặc biệt thời khắc Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập thì cả khu vực Quảng trường đồng bào reo hò vỗ tay sung sướng, chúng tôi cũng sung sướng vô cùng. Những hình ảnh và khoảnh khắc đó luôn in sâu trong thế hệ những người như chúng tôi.

Nhắc đến ngày Quốc khánh 2-9 không thể không nhắc đến cố Giáo sư Lê Thi (tên thật là Dương Thị Loan)-người kéo cờ trong Lễ Tuyên ngôn Độc lập. Mỗi dịp trò chuyện với bà, chúng tôi như thấy được khí thế hào hùng của dân tộc trong ngày giành được độc lập. Bà kể với chúng tôi: Cột cờ thời đó còn thô sơ nên nếu kéo không chuẩn rất dễ tắc. Tôi với chị Đàm Thị Loan (người dân tộc Tày) cùng tham gia kéo cờ. Chị Loan là người nâng cờ còn tôi là người kéo. Nói thật là tôi rất lo (khi ấy tôi mới 19 tuổi) vì đây là sự kiện trọng đại, tôi lại chưa được chuẩn bị gì. Nếu có bất cứ sai sót nào dễ ảnh hưởng đến buổi Lễ. May là tôi thuộc bài Tiến quân ca nên kéo cờ lên đến đỉnh là vừa hết nhạc. Lúc đấy, tôi mới thở phào nhẹ nhõm… Cũng tại thời điểm đó, lần đầu tiên tôi được thấy Bác Hồ, Bác rất giản dị, không comple, cà vạt tây mà Bác mặc bộ quần áo ka-ki và đi dép cao su rất giản dị, phía dưới Lễ đài thì hàng chục vạn đồng bào vỗ tay reo hò. Bà Lê Thi đã ra đi trong lúc cả nước đang náo nức kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 nhưng hình ảnh bà kéo cờ trong Lễ Tuyên ngôn Độc lập sẽ còn mãi với lịch sử Việt Nam.

Quảng trường Ba Đình-nơi đã chứng kiến bao lịch sử thăng trầm của dân tộc, ngày nay có khuôn viên với chiều dài 320m và rộng 100m, có nhiều ô cỏ lớn, xen giữa là lối đi rộng 1,4m. Giữa Quảng trường là Cột cờ cao 25m. Ba Đình trở thành mảnh đất thiêng cùng những dấu ấn lịch sử không bao giờ phai mờ, cùng những kiến trúc tâm linh hiện hữu: Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ. Trải qua bao biến cố lịch sử, Quảng trường Ba Đình đã trở thành một cái tên gần gũi và thiêng liêng, trở thành niềm tự hào của nhân dân Thủ đô và nhân dân cả nước; đó cũng là một địa điểm tham quan, vui chơi của du khách và người dân Hà Nội.

Hà Anh


Tổng số điểm của bài viết là: 3 trong 3 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Quảng trường Ba Đình trước năm 1945 (Ảnh tư liệu)

Thị trưởng đầu tiên trong nhiệm kỳ ngắn nhất

Để tìm hiểu về lịch sử tên gọi Quảng trường Ba Đình, chúng tôi tìm gặp nhà báo Xuân Ba, báo Tiền Phong - một cây phóng sự lão luyện trong làng báo. Nhà báo Xuân Ba trước kia may mắn có được cơ duyên trò chuyện, gặp gỡ với nhà văn Tô Hoài để nghe ông kể về sự tích Ba Đình.

Nhắc đến nhà văn Tô Hoài, nhà báo Xuân Ba nói vẫn nhớ như in buổi được hầu chuyện ông, câu chuyện về những tên đường, tên phố ở Hà Nội cứ như kéo dài mãi.

“QUẢNG TRƯỜNG BA ĐÌNH LÀ NƠI HỘI TỤ LÒNG DÂN VÀO NỀN ĐỘC LẬP CỦA ĐẤT NƯỚC”

Đọc bài Lưu

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, không gian của Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, đã trở thành một lễ đài rất trang nghiêm và hội tụ lòng dân vào trong nền độc lập của đất nước.

Khi bị thực dân pháp đô hộ quảng trường ba đình có tên là gì?

Theo tài liệu lịch sử, Quảng trường Ba Đình xưa là cổng phía Tây của Kinh thành Thăng Long, nơi đây còn được gọi là Quảng trường Tròn (Rond Point Puginier). Đó là một khu đất gồm những bãi đất hoang và hồ ao mới lấp, rộng hàng chục héc-ta cạnh Phủ Toàn quyền Pháp (sau này là Phủ Chủ tịch). Khu vực Quảng trường Tròn này trong một thời gian dài hầu như chẳng có gì thay đổi. Mặc dù năm 1922 và năm 1938, Phủ Toàn quyền Pháp đã có ý định quy hoạch lại Quảng trường Tròn. Song không hiểu vì lý do gì mà các dự án cải tạo Quảng trường Tròn vẫn không được thực hiện.

Quảng trường Ba Đình do bác sỹ Trần Văn Lai, người giữ chức Thị trưởng Thành phố từ ngày 20/7 đến 19/8/1945 đặt tên. Sở dĩ, Thị trưởng Trần Văn Lai đặt tên là Ba Đình vì ông cảm phục nghĩa quân Đinh Công Tráng đã chống Pháp rất anh dũng ở căn cứ Ba Đình, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa vào những năm cuối thế kỷ XIX.

Tháng 8/1945, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc ta từ Bắc chí Nam, triệu người như một đã nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 19/8/1945, hàng chục vạn người dân Hà Nội sau khi tham dự mít tinh ở Quảng trường Nhà hát Lớn Thành phố đã rầm rập tỏa đi các ngả, chiếm các cơ quan, công sở của Chính quyền bù nhìn thân Nhật, giành trọn vẹn chính quyền về tay nhân dân.

Cách mạng Tháng Tám thành công đã đập tan xiềng xích nô lệ kéo dài hàng nghìn năm của chế độ phong kiến, xóa bỏ ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nhân dân Việt Nam từ địa vị nô lệ đã vươn lên trở thành những người chủ của đất nước, tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có nhiều địa điểm được đưa ra lựa chọn để làm nơi diễn ra sự kiện trọng đại - Lễ Độc lập và cuối cùng Quảng trường Ba Đình đã được chọn.

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết, khi lựa chọn địa điểm, tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn Quảng trường Ba Đình để đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vì Bác Hồ muốn có một thông điệp không chỉ với dân tộc Việt Nam mà với toàn thế giới. Thông điệp ấy gửi gắm đến một thế giới đang chuyển đổi sau khi chủ nghĩa phát xít đã bị tiêu diệt và trong phần cuối của Tuyên ngôn, Bác khẳng định rằng, quyền độc lập của dân tộc Việt Nam là do dân tộc Việt Nam giành lại được và nó phù hợp với nguyên lý của nhân loại… Tại sao Bác Hồ chọn ngày 2/9, vì đó là ngày Chủ nhật, có thể huy động được đông đảo quần chúng. Không gian của Quảng trường Ba Đình lúc đó trở thành một lễ đài rất trang nghiêm và hội tụ lòng dân vào trong nền độc lập của đất nước.

Trước đó, vào năm 2015, chia sẻ với phóng viên Dân trí, bà Lê Thi là một trong hai người phụ nữ đã vinh dự được chọn lên lễ đài kéo cờ Tổ quốc trong Lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, cho biết, sáng ngày 2/9/1945, bà cùng với số chị em trong hội phụ nữ phố Hàng Bông đi vận động các gia đình đóng cửa hàng để đi ra Quảng trường Ba Đình. Tất cả mọi người mặc quần trắng, áo dài, đi giầy ba ta trắng. Riêng bà Thi cầm cây gậy vừa đi vừa hô "một, hai…một, hai" để cho mọi người đi đều.

Đến quảng trường Ba Đình, bà Thi thấy các đoàn thể đứng theo giới, phụ nữ, thanh niên, công nhân, viên chức… Đoàn phụ nữ Hàng Bông của bà đứng đầu đoàn phụ nữ của Thủ đô.

Khi sắp đến giờ khai mạc, người của Ban tổ chức xuống khu vực bà Thi đang đứng và bảo "các chị cử một người lên kéo cờ". Ngay lúc đó tất cả đều im lặng, khoảng một lúc sau thì nhiều phụ nữ đồng thanh hô "Thi lên đi", thế là bà Thi bước lên lễ đài làm nhiệm vụ kéo cờ Tổ quốc.

Bà Thi kể tiếp, bà bước lên khán đài vừa đi vừa run, vì sợ kéo không được ở dưới nhiều người sẽ trách vì đó là sự kiện trọng đại của đất nước và bà cũng không được tập trước. Khi bước tới gần lễ đài, bà Thi gặp một phụ nữ ăn mặc trang phục người Tày, sau đó hai người dắt tay nhau bước tới lễ đài. Khi bài hát Quốc ca vang lên, hai người phụ nữ này từ từ kéo lá cờ Tổ quốc lên cao, khi cờ vừa lên đến đỉnh tung bay trước gió cũng là lúc bài hát Quốc ca kết thúc. Lúc đó bà Thi biết mình đã hoàn thành nhiệm vụ.

Bà Thi cho biết, khi vừa hoàn thành nhiệm vụ kéo cờ Tổ quốc xong, bà lùi lại phía sau và quan sát xem trên lễ đài là ai. Đó là lần đầu tiên bà Thi được nhìn thấy Bác Hồ, bà rất bất ngờ trước phong cách giản dị của Bác.

"Lúc nhìn thấy Bác Hồ, tôi nghĩ sao Bác ăn mặc giản dị thế, Bác mặc bộ kaki trắng, đi đôi dép cao su. Bác khác hẳn với tưởng tượng của tôi, vì trong trường tôi học những ngày lễ trọng đại người ta thường mặc comple veston và đi giầy đen bóng loáng. Tôi thấy Bác giản dị quá!", bà Thi nhớ lại.

Người phụ nữ kéo cờ cho biết thêm, trước đây bà cũng đã từng tham gia kéo cờ, nhưng chưa bao giờ bà kéo cờ một cách "tử tế", vừa kéo vừa "trêu tức" đối phương. Bà Thi dí dỏm kể lại: "Khi tôi còn học tại trường Đồng Khánh, họ cũng tập hợp chúng tôi lại để kéo cờ Pháp và cờ bù nhìn thì chúng tôi kéo cái thấp, cái cao, hoặc kéo cho 2 cái tắc tị lại không lên được để trêu tức chúng, nhưng chúng không làm gì được chúng tôi. Cũng chính vì chưa bao giờ kéo cờ 1 cách tử tế nên hôm được cử tham gia kéo cờ ngày 2/9, tôi mới run, sợ kéo không thành công".

Nguồn: Báo Dân trí - TH


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết