Kiểm tra đánh giá ở tiểu học
Giáo trình kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục ở tiểu họcBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.85 MB, 54 trang ) Show TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH Tác giả: Hoàng Thị Lê Năm 2016 1 MỤC LỤC CHƯƠNG I ............................................................................................................... 4 KHÁI QUÁT VỀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC............... 4 Ở TIỂU HỌC............................................................................................................ 4 1.1. Khái quát về kiểm tra, đánh giá ................................................................. 4 1.2. Mục đích, ý nghĩa của kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục ở Tiểu học 6 1.3. Chức năng của kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục ở Tiểu học ............ 9 CHƯƠNG II NỘI DUNG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC Ở TIỂU HỌC.......................................................................................................... 13 2.1. Vai trò của mục tiêu dạy học đối với việc xác lập nội dung kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục ................................................................................. 13 2.2. Nội dung đánh giá kiến thức ..................................................................... 19 2.3. Nội dung đánh giá kỹ năng........................................................................ 20 2.4. Nội dung đánh giá thái độ và hạnh kiểm................................................. 23 CHƯƠNG IIINGUYÊN TẮC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤCỞ TIỂU HỌC................................................................................................. 24 3.1. Nguyên tắc khách quan .............................................................................. 25 3.2. Nguyên tắc bảo đảm tính công bằng ........................................................ 26 3.3. Nguyên tắc bảo đảm tính toàn diện.......................................................... 27 3.4. Nguyên tắc bảo đảm tính công khai ......................................................... 28 3.5. Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống........................................................... 28 3.6. Nguyên tắc bảo đảm tính giáo dục ........................................................... 29 3.7. Nguyên tắc bảo đảm tính phát triển ........................................................ 30 CHƯƠNG IVPHÂN LOẠI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC Ở TIỂU HỌC.......................................................................................................... 32 4.1. Các hình thức kiểm tra ở Tiểu học........................................................... 32 4.2. Các hình thức đánh giá ở Tiểu học .............................................................. 34 CHƯƠNG V KỸ THUẬT ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC Ở TIỂU HỌC ......................................................................................................................... 42 5.1. Phương pháp quan sát................................................................................ 42 5.2. Kiểm tra miệng ............................................................................................ 44 5.3. Bài tự luận .................................................................................................... 46 5.4. Bài trắc nghiệm ........................................................................................... 49 5.5. Bài thực hành............................................................................................... 50 5.6. Học sinh tự đánh giá ................................................................................... 51 5.7. Tổng hợp thông tin đánh giá, ghi sổ liên lạc và học bạ ......................... 51 CÂU HỎI ÔN TẬP................................................................................................ 53 2 LỜI NÓI ĐẦU Để góp phần cho công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên Tiểu học ở trường Đại học Quảng Bình, tôi đã biên soạn tài liệu “Kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục ở Tiểu học”. Tài liệu được biên soạn theo các chương nhằm mục đích cung cấp cho người học những hiểu biết kĩ năng cơ bản của giáo viên Tiểu học trong việc kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục của học sinh theo chương trình, sách giáo khoa tiểu học. Tài liệu gồm có 5 chương - Chương 1: Khái quát về kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục ở tiểu học - Chương 2: Nội dung kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục ở Tiểu học - Chương 3: Nguyên tắc kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục ở Tiểu học - Chương 4: Phân loại kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục ở Tiểu học - Chương 5: Kỹ thuật kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục ở Tiểu học Lần đầu tiên tác giả biên soạn tài liệu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của sinh viên, giảng viên trường Đại học Quảng bình, giáo viên tiểu học và tất cả bạn đọc. Trân trọng cám ơn! 3 CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC Ở TIỂU HỌC 1.1. Khái quát về kiểm tra, đánh giá 1.1.1. Khái niệm cơ bản về đánh giá - Kiểm tra là thuật ngữ chỉ cách thức hoặc hoạt động giáo viên sử dụng để thu thập thông tin về biểu hiện kiến thức, kỹ năng và thái độ của học sinh trong học tập nhằm cung cấp dữ liệu làm cơ sở cho việc đánh giá. - Đánh giá kết quả học tập là thuật ngữ chỉ quá trình hình thành những nhận định, rút ra những kết luận hoặc phán đoán về trình độ, phẩm chất của người học, hoặc đưa ra những quyết định về việc dạy học dựa trên cơ sở những thông tin đã thu thập được một cách hệ thống trong quá trình kiểm tra. Đánh giá kết quả học tập được hiểu là đánh giá học sinh về học tập và hạnh kiểm thông qua quá trình học tập các môn học cũng như các hoạt động khác trong phạm vi nhà trường. - Đo lường chỉ việc ghi nhận và mô tả kết quả làm bài kiểm tra của mỗi học sinh bằng một số đo, dựa vào những quy tắc đã định. - Lượng giá là đưa ra những thông tin ước lượng trình độ kiến thức, kỹ năng của người học bằng cách dựa vào các số đo đã có. có hai hướng lượng giá: + Lượng giá theo chuấn: Đây là sự so sánh tương đối kết quả đo lường được với chuẩn chung của một tập hợp học sinh. + Lượng giá theo tiêu chí: Đây là sự đối chiếu kết quả đo lường được với những tiêu chí đã đề ra. - Trắc nghiệm là công cụ hoặc quy trình có tính hệ thống được dùng để đo lường các hành vi học tập (Ví dụ như tóm ý, giải thích, tính toán...) hoặc kết quả học tập cụ thể. Đánh giá khả năng và thành quả học tập của học sinh để từ đó điều chỉnh nội dung và phương pháp giảng dạy nhằm giúp đỡ người học thành công hơn trong học tập là nhu cầu và là nhiệm vụ của giáo viên trong quá trình giảng dạy. 4 Điều quan trọng nhất trong quá trình kiểm tra đánh giá các kết quả học tập của quá trình dạy học là phải làm rõ các tiêu chí đánh giá và phải thực hiện quá trình ấy một cách hệ thống và liên tục. Việc đánh giá thiếu chuẩn bị hay tùy tiện có thể sẽ không đáng tin cậy, thiếu công bằng và vô căn cứ. Kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục - thuật ngữ chung chỉ quả trình người giáo viên thu thập thông tin trong lớp rồi tổng hợp và diễn giải thông tin đã thu thập được để đưa ra những kết luận, những phán đoán hoặc những quyết định về phạm vi và mức độ đạt được mục tiêu dạy học ở người học. 1.1.2. Kiểm tra định tính và định lượng - Kiểm tra theo hướng định tính Kiểm tra theo hướng định tính là phương thức thu thập thông tin về kết quả học tập và rèn luyện của học sinh bằng cách quan sát và ghi nhận xét dựa vào các tiêu chí giáo dục đã định.Công cụ để thu thập thông tin định tính là quan sát, phỏng vấn, tự đánh giá của người học. Trong kiểm tra định tính, giáo viên có thể đánh giá học sinh toàn diện và biện chứng. Cụ thể, kiểm tra định tính giúp giáo viên xem xét được quá trình học tập của học sinh, trong lúc kiểm tra định lượng chỉ giúp giáo viên nhận thấy được kết quả của sản phẩm học tập. Chẳng hạn như khi đánh giá hoạt động làm thủ công của học sinh, căn cứ vào quá trình thực hiện tại lớp của học sinh, giáo viên xem xét thái độ, phương pháp, kỹ năng thực hiện và kết quả đạt được để nhận xét học sinh, chứ không đơn thuần ghi nhận giá trị sản phẩm của học sinh bằng một điểm số. Cách kiểm tra định tính phù hợp với học sinh tiểu học bởi vì các em đang ở lứa tuổi hình thành nhân cách, rất cần sự theo dõi sâu sát để giáo viên có thể giúp đỡ, uốn nắn. Cách kiểm tra này đòi hỏi giáo viên gần gũi với học sinh, phải bám sát yêu cầu trọng tâm của nội dung, giáo dục thể hiện qua các tiêu chí của bài dạy, của chương trình để dùi dắt hướng dẫn học sinh học tập, rèn luyện, không sa đà vào điểm số mà phải chú trọng đến yêu cầu của mục tiêu phát triển nhân cách của người học. - Kiểm tra theo định lượng: 5 Kiểm tra theo hướng định lượng là phương thức thu thập thông tin về kết quả học tập của học sinh bằng số như điểm số hoặc số lần thực hiện của những hoạt động nào đó. Cách và phương tiện ghi nhận kết quả học tập của học sinh bằng điểm hay số lần thực hiện theo những quy tắc đã tính trong kiểm tra mang tính chất định lượng. Còn chính điểm số vẫn chỉ là những ký hiệu gián tiếp phản ánh trình độ học lực của mỗi học sinh về mặt định tính (giỏi, khá, TB, yếu, kém). Như vậy, bản thân điểm số không có ý nghĩa về mặt định lượng; ví dụ trong thang điểm 10, không thể nói trình độ đạt điểm 8 là cao gấp đôi học sinh đạt điểm 4. Hiện nay, công cụ thường dùng để thu thập các thông tin có tính định lượng là bài kiểm tra viết, bài thi. Phương thức kiểm tra này đã được áp dụng từ lâu và rất phổ biến trong lịch sử giáo dục của nhiều nước. Ưu điểm của cách kiểm tra này là dễ thực hiện theo những quy định hành chính chặt chẽ, không cần phải theo sát học sinh liên tục mà giáo viên vẫn có thể có điểm số để đánh giá từng học sính sau mỗi khóa học. Cách kiểm tra theo hướng định lượng phù hợp hơn đối với học sinh lớp lớn, với số lượng học sinh đông. Mặt khác, phương thức kiểm tra này thích hợp khi mục đích kiểm tra nặng về kiến thức, nhẹ về ghi nhận sự chuyển biến về nhận thức, tính cách của học sinh qua những biểu hiện hằng ngày. Trong thực hiện đánh giá ở trường học, cần phân biệt giữa kiểm tra định tính với kiểm tra định lượng; giữa đánh giá quá trình học tập với đánh giá sản phẩm học tập. Một thực tiễn quản lí tốt luôn kết hợp được cả hai phương thức đánh giá trên. 1.2. Mục đích, ý nghĩa của kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục ở Tiểu học 1.2.1. Mục đích của kiểm tra đánh giá kết quả học tập Ở mỗi cấp độ khác nhau đều có chủ thể đánh giá khác nhau. Đánh giá học sinh là trách nhiệm trực tiếp của giáo viên. Trong khuôn khổ học phần này chỉ đề cập việc đánh giá học sinh trong quá trình học tập. Trong dạy học, việc đánh giá học sinh nhằm mục đích sau: - Làm sáng tỏ mức độ đạt được và chưa đạt được về các mục tiêu dạy học, tình trạng kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh, đối chiếu với các yêu cầu của 6 chương trình; phát hiện những nguyên nhân sai sót, giúp học sinh điều chỉnh hoạt động học. - Công khai hóa các nhận định về năng lực và kết quả học tập của mỗi học sinh và của tập thể lớp, tạo cơ hội cho học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá, giúp học sinh nhận ra sự tiến bộ của mình, khuyến khích, động viên thúc đẩy việc học tập. Như vậy, Kiểm tra đánh giá kết quả học tập học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và định hướng điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn tạo điều kiện nhận định thực trạng và định hướng điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trong nhà trường, Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh được thực hiện chủ yếu thông qua việc tổ chức kiểm tra và thi một cách có hệ thống, theo những quy định chặt chẽ. Kiểm tra và đánh giá là hai việc thường đi liền nhau, tuy rằng không phải mọi việc kiểm tra đều hướng tới mục đích đánh giá. 1.2.2. Ý nghĩa của kiểm tra đánh giá Trong quá trình giáo dục, kiểm tra đánh giá kết quả là một khâu quan trọng nhằm xác định thành tích học tập và múc độ chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, thái độ học tập của người học. Kiểm tra, đánh giá là hai công việc được tiến hành theo trình tự nhất định hoặc đan xen lẫn nhau nhằm khảo sát, xem xét cả mặt định lượng và định tính kết quả học tập, đánh giá mức độ chiếm lĩnh nội dung học vấn của học sinh. - Đối với học sinh: nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá có tác dụng thúc đẩy quá trình học tập phát triển không ngừng. Về mặt giáo dưỡng, kiểm tra đánh giá có hệ thống, thường xuyên cung cấp kịp thời những thông tin "liên hệ ngược", chỉ cho mỗi học sinh thấy mình đã tiếp thu những điều vừa được học đến mức độ nào, còn những lỗ hỏng nào cần được bổ khuyết trước khi bước vào một phần mới của chương trình học tập; có cơ hội để nắm chắc những yêu cầu cụ thể đối với từng phần của chương trình; giúp người học tự điều chỉnh hoạt động học. Qua kết quả kiểm tra, học sinh tự đánh giá mức độ chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng so với yêu cầu của môn học và tự mình 7 ôn tập, cũng cố, bổ sung, hoàn thiện học vấn bằng các phương pháp tự học với hệ thống các thao tác tư duy của chính mình. Về mặt phát triển năng lực nhận thức, thông qua kiểm tra đánh giá, học sinh có điều kiện để tiến hành các hoạt động trí tuệ như ghi nhớ, tái hiện, chính xác hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức. Nếu việc kiểm tra đánh giá chú trọng phát huy trí thông minh, học sinh sẽ có thuận lợi để phát triển năng lự tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến thức đã học để giải quyết những tình huống thực tế. Về mặt giáo dục, kiểm tra đánh giá nếu được tổ chức nghiêm túc sẽ giúp học sinh nâng cao tinh thần trách nhiệm trong học tập, ý chí vươn lên đạt những kết quả học tập cao hơn, cũng cố lòng tự tin vào khả năng của mình, nâng cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan tự mãn. - Đối với giáo viên: Kiểm tra đánh giá học sinh cung cấp cho giáo viên những thông tin "liên hệ ngược ngoài" giúp điều chỉnh hoạt động dạy. Kiểm tra đánh giá, kết hợp với theo dõi thường xuyên, tạo điều kiện cho giáo viên năm được một cách cụ thể và khá chính xác năng lực, trình độ của mỗi học sinh trong lớp mình phụ trách để có biện pháp giúp đỡ riêng thích hợp, ít ra là đối với những học sinh giỏi và học sinh kém, qua đó nâng cao chất lượng học tập chung của cả lớp. Kiểm tra đánh giá được tiến hành một cách công phu sẽ cung cấp cho giáo viên không chỉ những thông tin về trình độ chung của cả lớp hoặc khối lớp mà còn tạo điều kiện cho giáo viên nắm được những học sinh có tiến bộ rõ rệt hoặc sút kém đột ngột để động viên, giúp đỡ kịp thời. Người giáo viên có trách nhiệm và kinh nghiệm thường xem kiểm tra đánh giá như một biện pháp cá nhân hóa dạy học, giúp cho mỗi học sinh tự đánh giá để tự quyết định cách học phù hợp với mình. Kiểm tra đánh giá tạo cơ hội cho giáo viên tự đánh giá vốn tri thức, trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, nhân cách và uy tín của mình đối với học sinh. Đồng thời, giáo viên có điều kiện xem xét hiệu quả của những cải tiến nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học mà mình đang theo đuổi, nhất là 8 đối với những giáo viên tâm huyết muốn hoàn thiện việc dạy học bằng con đường thực nghiệm nghiên cứu khoa học giáo dục. - Đối với các cấp quản lí giáo dục: Kiểm tra đánh giá là biện pháp cung cấp thông tin về kết quả đào tạo cả về định lượng và định tính, về thực trạng dạy và học trong một đơn vị giáo dục để có những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn những lệch lạc, khuyến khích hỗ trợ những sáng kiến hay, đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Đó là cơ sở để xây dựng chiến lược giáo dục về mục tiêu, về đội ngũ giáo viên, về vấn đề đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động dạy học. Tóm lại, việc kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục có ý nghĩa về nhiều mặt, trong đó kiểm tra đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo là một khâu quan trọng, không thể tách rời hoạt động dạy học ở trường tiểu học nói riêng và các loại hình nhà trường nói chung. 1.3. Chức năng của kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục ở Tiểu học Phân tích trên cho ta thấy, kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục có 3 chức năng: - Chức năng quản lí giáo dục - Chức năng kiểm soát, điều chỉnh hoạt động dạy và học - Chức năng giáo dục và phát triển 1.3.1. Chức năng quản lí giáo dục Chức năng quản lí của đánh giá được thể hiện qua hai phương diện: Xếp loại hoặc tuyển chọn người học Duy trì và phát triển chuẩn chất lượng - Phân loại người học là mục đích phổ biến của việc kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục. người học được phân loại về trình độ nhận thức, năng lực tư duy, kiến thức, kĩ năng và phẩm chất thái độ trên căn cứ hệ thống các tiêu chí mà chương trình đào tạo đã đề ra. Sự phân loại này có thể phục vụ cho những mục đích khác nhau từ lớn như xét lên lớp, khen thưởng, xét tham gia các đội tuyển của nhà trường, đến nhỏ như chia học sinh thành nhóm cho môn học hoặc tổ 9 chức các nhóm cùng nhau học tập hay làm bài tập, hoặc chọn học sinh tham gia học bồi dưỡng hay phụ đạo. - Duy trì và phát triển chuấn chất lượng dạy và học là một yêu cầu tối thiểu quan trọng của quá trình thực hiện một chương trình giáo dục. Đánh giá kết quả học tập nhằm mục đích này là tiến trình xem xét một chương trình dạy học hoặc một nhóm đối tượng học sinh có đạt được yêu cầu tối thiểu các mục tiêu dạy học đã được xác định hay không. 1.3.2. Chức năng kiểm soát, điều chỉnh hoạt động dạy và học Quá trình giảng dạy ở một lớp học thực sự đòi hỏi việc kiểm tra và ra quyết định thường xuyên để kiểm soát và điều chỉnh hoạt động dạy học trong lớp. Mỗi ngày, giáo viên sắp xếp, tổ chức lớp học, giảng bài, chọn lựa nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học, hướng dẫn học sinh hoạt động, nhận xét đánh giá các hoạt động của học sinh.... Chẳng hạn, vào một thời điểm trong ngày, giáo viên có thể phải thay đổi cách dạy ở giữa bài học khi thấy phương pháp mình đang tiến hành không làm cho học sinh hào hứng tiếp thu bài. Cũng có khi giáo viên phải ngừng một nội dung dạy học nào đó để ôn lại một phần bài học cũ khi qua việc học sinh trả lời câu hỏi hay làm bài tập, giáo viên được thực hiện song hành, đan xen với nhau trong lúc giáo viên tiến hành giảng dạy, giúp cho quá trình giảng dạy đạt đến hiệu quả và việc học của học sinh đạt hiệu quả. Mặt khác, khi thực hiện quá trình giảng dạy, hoặc tự phat hoặc tự giác, người giáo viên nên có nhu cầu đánh giá tài liệu giảng dạy, đánh giá các phương pháp dạy học được sử dụng, các hoạt động học tập hay làm bài tập của học sinh, nội dung và cách giảng giải để lên kế hoạch giảng dạy cho những ngày học kế tiếp. Điều quan trọng trong tiến trình kiểm tra và đánh giá kết quả học tập nhằm kiểm soát và điều chỉnh việc dạy học, đó là giáo viên phải biết chắc là họ đang kiểm tra cái gì và phải thực hiện chúng một cách hệ thống và nhất quán. Nhờ vậy, họ có thể nhận ra quá trình dạy học có phù hợp với học sinh không, có đáp ứng được mục tiêu dạy học, cũng như nhận ra kết quả học tập của học sinh phản ánh việc giảng dạy đáng tin cậy đến mức nào. Trên cơ sở ấy, họ đưa ra những 10 phán đoán về người học và quyết định điều chỉnh hoặc cải tiến hoạt động dạy học. Nói tóm lại, đối với nhà trường và giáo viên, chu trình: dạy học rồi kiểm tra, đánh giá nhằm kiểm soát việc dạy học, sau đó ra quyết định điều chỉnh, cải tiến dạy học là cơ chế đảm bảo cho việc phát triển chất lượng dạy học. Đối với học sinh, thông tin đánh giá nhận được (điểm số và đặc biệt là nhận xét) từ giáo viên và tự đánh giá của bản thân giúp người học kiểm soát, điều chỉnh việc học của mình. 1.3.3. Chức năng giáo dục và phát triển người học Chức năng giáo dục và phát triển của quá trình đánh giá kết quả giáo dục thể hiện bản chất nhân bản và tiến bộ của một nền giáo dục. Thực hiện được chức năng này, đánh giá có thể góp phần hình thành động cơ học tập cho người học và phát triển nhân cách của người học. - Động viên người học: Động viên người học là tạo động lực thúc đẩy học sinh học tập ngày càng hứng thú và hiệu quả hơn. Tâm lí học sư phạm chia động lực thành hai loại chính: Động lực bên ngoài (thuộc khách quan), động lực bên trong (thuộc chủ quan người học). Việc cho điểm, nhận xét hay xếp hạng, xếp loại học sinh trong đánh giá kết quả học tập được xếp vào loại hoạt động khích lệ, là nhân tố thức đẩy bên ngoài. Trên thực tế, việc quá đề cao biện pháp khích lệ này hoặc áp dụng chúng thái quá sẽ dẫn đến hậu quả là người học sẽ điều chỉnh mục đích hoạt động học tập của mình. Lúc này họ sẽ học vì điểm số hay vì muốn được xép hạng cao. Và tai hại hơn khi họ xem điểm số là mục tiêu quan trọng bậc nhất của sự học. Điều bản chất là thông qua nhân tố bên ngoài này giáo viên hãy giúp học sinh có thể hiểu rõ hơn về bản thân của họ; năng lực và những phẩm chất học tập hiện tại, khả năng phát triển trong tương lai. Nhờ vậy, các em dần dần tự tin hơn vào bản thân, tham gia vào việc học với mục đích rõ ràng hơn, tự trọng hơn và phát triển động cơ học tập (lòng mong muốn học tập cho sự phát triển của bản thân). Muốn như vậy, hoạt động kiểm tra phải được thực hiện thường xuyên và thông tin làm căn cứ cho đánh giá phải đa dạng khách quan. - Đánh giá góp phần phát triển toàn diện để chuẩn bị cho người học vào đời 11 Mục tiêu đánh giá và sự rõ ràng của các chuẩn mực cũng như tiêu chí đánh giá ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả của việc học tập. Giáo dục và phát triển toàn diện cho người học là mục tiêu hàng đầu và tổng quát của chương trình giáo dục tiểu học. Do vậy, khi đánh giá học sinh ở tiểu học cần nhận thức sâu sắc về quan điểm giáo dục toàn diện này. Muốn cho việc đánh giá có thể góp phần phát triển toàn diện cho người học, những điều dưới đây cần được thực hiện một cách hệ thống và nhất quán: - Quá trình dạy học phải xác định được khối lượng học tập hợp lí cho học sinh để không đẩy các em vào thế học thuộc lòng, hay học đối phó, học chỉ để có điểm, chỉ để biết chứ không để hiểu và áp dụng. - Kết quả học tập cần được đánh giá một cách hiệu quả, đáng tin cậy để có tác dụng hướng dẫn và khuyến khích các phương pháp học tập tích cực, ủng hộ các thói quen học tập có giá trị. - Phương pháp, công cụ đánh giá cần đa dạng (trắc nghiệm, tự luận, học nhóm, trò chơi, bài tập giải quyết vấn đề...) để khích thích người học tự bổ sung, phát triển những kiến thức, kĩ năng cần thiết cho cuộc sống cũng như nghề nghiệp về sau. Ngoài các kĩ năng học tập, việc đánh giá kết quả học tập cũng cần góp phần phát triển cho người học những kĩ năng giao tiếp, làm việc hợp tác, ý thức cộng đồng, lòng tự trọng.... Đây là những nhân tố quan trọng đối với con người trong xã hội hiện nay, giúp cho học sinh biết cách sống, cách làm việc với những người xung quanh. CÂU HỎI ÔN TẬP Câu 1: Anh (chị) lập một bảng xếp loại học lực của học sinh theo thứ tự các mục như trong học bạ rồi phân tích và cho ý kiến về các nhận xét, đánh giá bảng xếp loại đó. 12 Câu 2: Thực tiễn kiểm tra và đánh giá kết quả học tập trong nhà trường tiểu học hiện nay đã thực hiện được ba chức năng của đánh giá kết quả học tập như thế nào? CHƯƠNG II NỘI DUNG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC Ở TIỂU HỌC 2.1. Vai trò của mục tiêu dạy học đối với việc xác lập nội dung kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục 13 2.1.1. Mục tiêu dạy học là gì? Mục tiêu dạy học là các kết quả học tập mà nhà trường trông mong người học đạt được sau khi học tập. Trước khi chuẩn bị đánh giá kết quả học tập, người đánh giá cần phải phân biệt những loại thành quả học tập cần khảo sát. Xét theo mức độ của kết quả học tập mà người học đạt đến. Trong dạy học có các loại mục tiêu cơ bản sau: - Mục tiêu thành thạo và mục tiêu phát triển - Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể - Mục tiêu đơn lẻ và mục tiêu tích hợp. 2.1.1.1. Mục tiêu thành thành thạo và mục tiêu phát triển Mục tiêu thành thạo là kết quả học tập ở trình độ tối thiểu mà mọi học sinh cần đạt một cách đồng loạt từ một khóa học hay một môn học, là những kết quả học tập mà học sinh nhất thiết phải đạt nếu như học muốn có thể học được ở cấp lớp kế tiếp. Các mục tiêu này thường bao gồm những kiến thức đơn giản mà học sinh phải nắm vững vào cuối một giai đoạn học tập. Mục tiêu phát triển là kết quả học tập phức tạp hơn các mục tiêu thành thạo, chẳng hạn như khả năng hiểu, ứng dụng, tư duy phê phán, giải quyết vấn đề,... Khi đã đạt được kết quả học tập phát triển, người học có thể vận dụng chúng sang những tình huống học tập mới, phức tạp và đa dạng theo hướng tăng tiến liên tục về trình độ. Vì vậy, mục tiêu phát triển còn được gọi là mục tiêu chuyển đi và chẳng bao giờ người học có thể đạt được một cách đầy đủ vào một thời điểm cụ thể. 2.1.1.2. Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể - Xét theo cấu trúc của một chương trình, ở mỗi môn học hay phần/chương học, có loại mục tiêu được xác định + Mục tiêu dạy học tổng quát: Mục tiêu dạy học tổng quát là kết quả giảng dạy mong muốn đạt được, bao gồm những kết quả học tập cụ thể và chuyên biệt. Ví dụ: Học sinh học xong môn Toán lớp 5 có những kiến thức cơ bản về phân số, số thập phân, hỗn số, về tỷ lệ thuận và tỷ lệ nghịch. 14 + Mục tiêu dạy học cụ thể: là sự cụ thể hóa các mục tiêu tổng quat ở từng đơn vị bài học hay chương học, là một kết quả học tập cụ thể được phát biểu như một hành vi có thể quan sát hay đo lường được ở người học. Ví dụ: Nhận ra các chi tiết được thể hiện một cách tường minh trong bài học. Các mục tiêu cụ thể còn được gọi là mục tiêu công năng hay mục tiêu hành vi hay mục tiêu có thể đo lường được. Ví dụ: Sau khi học chương tỷ lệ phần trăm, học sinh nhận biết được thế nào là tỷ lệ phần trăm, biết đọc, viết số phần trăm, biết cách cộng trừ các tỷ số phần trăm, biết cách chia số phần trăm với một số. 2.1.1.3. Mục tiêu đơn lẻ và mục tiêu tích hợp - Xét theo giới hạn và tính chất của quá trình phát triển năng lực/kỹ năng cho người học xuyên qua một môn học hay nhiều môn học, có thể nhận ra hai mục tiêu: mục tiêu đơn lẻ và mục tiêu tích hợp. + Mục tiêu đơn lẻ: Là kết quả học tập chuyên biệt, là kết hợp của một kỹ năng cụ thể với nội dung dạy học chuyên biệt trong một lĩnh vực học tập, thường là mục tiêu ở cấp độ bài học. Ví dụ: Kỹ năng hiểu từ ngữ của một chủ đề học tập bộc lộ qua việc biết lựa chọn từ thích hợp để điền vào chỗ trống. + Mục tiêu tích hợp: Là kết quả học tập bao gồm một tập hợp kỹ năng liên hoàn tác động lên một hay nhiều nội dung. Những kết quả học tập kiểu này có thể vận dụng trong nhiều lĩnh vực môn học khác nhau, góp phần tạo nên những năng lực cho người học. Mục tiêu tích hợp có thể xuất hiện trong một thời đoạn học tập hay vào cuối thời đoạn học tập. Ví dụ: Sau khi học xong môn Khoa học lớp 4 và lớp 5, học sinh có khả năng phân tích, so sánh, rút ra những dấu hiệu chung và riêng (trừu tượng hóa) của một sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên (năng lực phan tích. so sánh và trừu tượng hóa). Muốn định ra những mục tiêu chung cho nhiều học phần hay nhiều môn học điều chủ yếu là sự nhất trí với nhau những kỹ năng liên môn hay xuyên môn 15 phải hình thành trong khi nội dung dạy học thường mang tính bộ môn riêng lẻ. Nói cách khác, mọi cố gắng tích hợp theo hướng này đều phải có yếu tố tiên quyết là suy nghĩ và xác định những kỹ năng, năng lực mà ta định phát triển cho người học. 2.2. Xác lập mục tiêu dạy học trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập 2.2.1. Mục tiêu dạy học là cơ sở thiết kế các hoạt động dạy học và nội dung đánh giá kết quả dạy học. Mục tiêu môn học được xác lập từ ba nguồn: - Nội dung môn học - Kinh nghiệm của học sinh - Kiến thức - kỹ năng - thái độ mà một chương trình học muốn học sinh lĩnh hội. Xác định rõ ràng nhứng kết quả học tập cần đạt là bước đầu tiên trong quá trình giảng dạy tốt, đồng thời cũng là điều chủ yếu trong tiến trình đánh giá việc học của học sinh. Sự đánh giá hợp lý đòi hỏi các tiến trình đánh giá phải liên quan trực tiếp đến các kết quả học tập cần đạt. Mục tiêu giảng dạy đóng vai trò then chốt trong quá trình giảng dạy. Khi được phát biểu một cách thích hợp, các mục đích ấy trở thành những hướng dẫn cho cả hoạt động giảng dạy lẫn đánh giá. Sự xác định cụ thể, rõ ràng các kết quả học tập trong giảng dạy hỗ trợ cho việc chọn lựa được những phương pháp và tài liệu dạy học xác đáng, cho việc theo dõi sự tiến bộ học tập của học sinh, trong việc lựa chọn và xây dựng những quy trình đánh giá thích hợp và cho việc truyền đạt ý định giảng dạy đến người học. Trong thực tế dạy học, giáo viên ít chú ý đến việc xác định một cách chính xác và cụ thể những kiểu hành vi hay kết quả học tập mà học sinh cần đạt vào cuối một giai đoạn học tập. Xây dụng và trình bày hệ thống mục tiêu hành vi ở từng cấp lớp, trong từng lĩnh vực môn học là nhiệm vụ của người phát triển chương trình và sách giáo khoa, không phải là của người giáo viên. Công việc của giáo viên khi giảng dạy và đánh giá là xem xét, nắm vững chúng và xác lập lại chúng theo những điều kiện dạy học cụ thể của lớp mình. 16 Thực tế ở Việt Nam, giáo viên được tiếp cận và làm việc với sách giáo khoa và sách giáo viên nhiều hơn là văn bản chương trình của môn học. Mục tiêu dạy học được trình bày cụ thể trong từng bài học riêng lẻ trong sách giáo viên không thành hệ thống. Vì vậy, giáo viên khó hình dung ra tính tổng thể và giá trị của các mục tiêu dạy học. Điều này dễ dẫn đến chỗ giáo viên chỉ kiểm tra những mục tiêu riêng lẻ, cụ thể, không thực sự đánh giá được những mức năng lực của người học. Mặt khác, việc thiếu một chương trình chi tiết với hệ thống mục tiêu hành vi cụ thể của từng cấp lớp, ở mỗi môn học trong chương trình các môn học tạo nên gánh nặng cho giáo viên hay người quản lí khi muốn biên soạn bài kiểm tra. Bới vì, để có thể có một bảng mục tiêu cụ thể đủ rõ cho việc biên soạn các bài kiểm tra, người giáo viên hay nhà quản lí chuyên môn phải mất nhiều thời gian và tâm sức để xác lập và biên soạn lại. 2.2.2. Xác lập các kết quả học tập một cách rõ ràng và cụ thể sao cho có thể quan sát và đo lường được là cơ sở đảm bảo cho việc chọn lựa và xây dựng công cụ, kỹ thuật đánh giá thích hợp. Mục đích giảng dạy đóng vai trò then chốt trong quá trìng giảng dạy. Khi được phát biểu một cách thích hợp, các mục tiêu ấy trở thành những tiêu chí cho cả hoạt động giảng dạy lẫn đánh giá. Sự xác định cụ thể, rõ ràng các kết quả học tập cần đạt trong dạy học hỗ trợ cho việc truyền đạt ý định giảng dạy đến người học, cho việc chọn lựa những phương pháp và tài liệu dạy học xác đáng, cho việc theo dõi sự tiến bộ học tập của học sinh, đặc biệt là cho việc chọn lựa và xây dựng những quy trình, kỹ thuật đánh giá thích hợp. Thực vậy, khi giảng dạy, nếu nhấn mạnh vào mục tiêu thành thạo, tức là các kết quả học tập đơn giản thì giáo viên có thể sử dụng các bài kiểm tra nhằm khảo sát trình độ chung đồng đều về những kiến thức và kỹ năng tối thiểu mà học sinh cần đạt trong môn học. Trong lúc đó, nếu nhấn mạnh vào mục tiêu phát triển thì việc kiểm tra đánh giá phải hướng đến việc khảo sát các kết quả học tập phức tạp. 2.2.3. Xem xét sự tương thích giữa kết quả học tập cần đánh giá với kỹ thuật đánh giá là cơ sở bảo đảm hiệu quả và giá trị của kết quả kiểm tra đánh giá. 17 Trong quá trình xây dựng các công cụ đánh giá, đặc biệt là đánh giá theo hướng dựa trên mục tiêu đào tạo, công việc của nhà giáo dục và giáo viên sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu họ xác định hoặc nhận diện được những kết quả học tập có thể đo lường được (còn được gọi là mục tiêu hành vi). Xem xét mối liên hệ phù hợp và chặt chẽ giữa các mục tiêu dạy học đã định với các tiến trình/ hình thức kiểm tra là một phương thức để đảm bảo tính giá trị của những công cụ đánh giá. Mô hình dưới đây thể hiện cơ chế tương tác tạo nên giá trị của các công cụ đánh giá trong dạy học: MỤC TIÊU TỔNG QUÁT (Các kết quả học tập học sinh cần đạt định hướng cho giảng dạy) CÁC KẾT QUẢ HỌC TẬP CHUYÊN BIỆT (Các loại khả năng/ kỹ năng của học sinh mà chúng ta sẵn sàng chấp nhận như chứng cứ cho việc thực hiện được các mục tiêu đã đề ra) CÁC KỸ THUẬT ĐÁNH GIÁ (Các tiến trình đánh giá nhằm đưa ra được các mẫu hành vi/ khả năng như đã được miêu tả trong phần các kết quả học tập). Trong quá trình thực hiện kiểm tra đánh giá, việc liên kết các kỹ thuật đánh giá với các kết quả học tập cần khảo sát về cơ bản là một quá trình phân tích và phán đoán lôgic. Câu hỏi chủ yếu được đặt ra trong quá trình này là năng lực của học sinh được đo lường qua các công cụ đánh giá có phù hợp với các kiểu năng lực đã được quy định trong bảng mô tả lĩnh vực mục tiêu hay không. Mặc dù không thể luôn luôn xác định được tính phù hợp này như mong muốn, nhưng quá trình đánh giá hợp lý đòi hỏi phải nỗ lực để đạt được sự hòa hợp giữa các kỹ thuật đánh giá với các kết quả học tập cần khảo sát. Muốn vậy, sau khi thiết lập công cụ đánh giá, chúng ta cần xem lại nhiều lần trong công cụ này để: 18 - Điều chỉnh, sửa chữa sai sót về nội dung, về cách diễn đạt, tránh những cách diễn đạt tối nghĩa hay vượt xa yêu cầu định kiểm tra. - Đặc biệt, xem xét mối liên hệ giữa mỗi câu trắc nghiệm với một kết quả học tập chuyên biệt đã định. 2.2. Nội dung đánh giá kiến thức Nội dung mỗi môn học nhìn chung bao gồm các loại kiến thức sau: Sự kiện chi tiết, khái niệm, nguyên tắc và phương pháp hay tiến trình. 2.2.1. Sự kiện - chi tiết Sự kiện - chi tiết là kiến thức cơ bản trả lời cho các câu hỏi như: Ai? Việc gi? Ở đâu? ...Hầu hết các nhà giáo dục đều công nhận rằng việc học các sự kiện chi tiết là cơ sở quan trọng cho các kiểu học khác. Học sinh khó có thể hoạt động trong thế giới nếu như họ không biết nhiều sự kiện. Mặt khác, việc tiếp nhận quá nhiều thông tin sự kiện mà không biết ứng dụng chúng vào việc giải quyết những vấn đề nào đó sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực trong giáo dục. Bởi vì, mặc dù học các sự kiện là cần thiết, nhưng nó chỉ là một phần nhỏ trong quá trình động não giúp học sinh phát triển các kỹ năng trí tuệ. 2.2.2.Khái niệm Khái niệm là một kết quả học tập đơn giản nhưng cơ bản mà người học nhất thiết phải lĩnh hội. Đối với kết quả học tập này, bài kiểm tra yêu cầu học sinh thể hiện kiến thức của mình về một thuật ngữ, khái niệm chuyên biệt nào đó bằng cách chọn một từ (thuật ngữ), ngữ có cùng nghĩa với thuật ngữ được cho hay bằng cách chọn một định nghĩa của thuật ngữ. Bên cạnh đó, khái niệm còn được kiểm tra bằng cách cho học sinh nhận ra nghĩa của thuật ngữ này trong ngữ cảnh sử dụng. 2.2.3. Nguyên tắc Có 4 loại nguyên tắc giải thích mối quan hệ giữa các khái niệm. Mỗi nguyên tắc sẽ được miêu tả như sau: - Quan hệ nhân quả: đây là mối quan hệ dễ hiểu nhất.Mối quan hệ này hình thành cơ sở của quá trình tư duy mức độ cao, đặc biệt là tư duy phê phán. Nguyên tắc nhân quả có khi mang tính tương đối, lại có khi mang tính tuyết đối. 19 Ví dụ: hút thuốc lá sẽ làm con người giảm tuổi thọ, nhưng điều này có thể không đúng với một số trường hợp (quan hệ nhân quả tương đối). Mưa lớn kéo dài nhiều ngày, nước sông dâng cao (quan hệ nhân quả tuyệt đối). - Tương quan giữa hai khái niệm: Theo nguyên tắc dựa vào mối tương quan giữa hai khái niệm, người học có thể phỏng đoán được điều gì đó. Ví dụ: Người cao có xu hướng nặng cân hơn người thấp (phỏng đoán dựa vào mối tương quan giữa chiều cao và sức nặng). - Quy luật xác suất: Học sinh có thể dùng sự phân bố xác suất để đưa ra những phỏng đoán. Ví dụ: dựa vào số liệu thống kê hàng năm, vào mùa hè có nhiều học sinh ở các tiệm intenet, người học có thể phỏng đoán rằng nhiều học sinh thích chơi trò chơi điện tử vào những ngày nghỉ hè. - Chân lí: chân lý là một sự thật được mọi người chấp nhận là đúng. Hầu hết các "chân lý" trong nhà trường được ứng dụng vào khoa học, vào kỹ thuật viết. Ví dụ: Quy tắc sử dụng dấu câu, chính tả, ngữ pháp,... Khi nước sôi, nó chuyển từ thể lỏng sang thể khí.... 2.2.4. Phương pháp/ tiến trình Phương pháp và tiến trình là kiến thức về các biện pháp, phương pháp năm dưới quá trình giao tiếp, các kỹ năng thực hiện nhiệm vụ học tập, kiến thức về các quy trình làm văn. Trong một số trường hợp, chúng ta có thể đo lường kiến thức về các tiến trình trước khi cho học sinh thực hành các phương pháp ấy. Tiến trình là một chuỗi các hành động thể chất hoặc tinh thần dẫn đến một kết quả. Tiến trình có thể đơn giản, hoặc có thể phức tạp. Ví dụ: Tiến trình cắt dán một con thuyền; lập kế hoạch cho một năm học tới; tiến trình giải một dạng bài toán.... 2.3. Nội dung đánh giá kỹ năng Theo tính chất của hoạt động học tập có thể chia thành ba loại kỹ năng sau: Kỹ năng nhận thức, kỹ năng tư duy và kỹ năng thực hành. Tuy nhiên, cũng 20 có nhiều tư liệu về đánh giá kết quả học tập đề cập đến bốn kỹ năng sau: Kỹ năng trí tuệ, kỹ năng thể chất, kỹ năng xã hội và kỹ năng học tập. Sau đây ta đề cập đến ba kỹ năng sau: 2.3.1. Kỹ năng nhận thức Kỹ năng nhận thức liên quan mật thiết đến những mức độ nhận thức trong lĩnh vực kiến thức như biết, hiểu và vận dụng. Tuy vậy, kỹ năng nhận thức không đồng nhất với kiến thức. Nó là hệ thống những cách thức, thao tác trí tuệ chiếm lĩnh kiến thức. Nhiều giáo viên sử dụng trắc nghiệm khách quan chỉ có thể đo lường những kết quả học tập về kiến thức. Tuy nhiên, với bài tự luận và trắc nghiệm nhiều lựa chọn, bài kiểm tra có thể đo được một số kỹ năng nhận thức sau: - Nhận diện ứng dụng các nguyên tắc: Một phương pháp thông dụng để xác định xem việc học của học sinh có vượt hơn sự ghi nhớ đơn giản một chi tiết, sự kiện hay một nguyên tắc hay không là yêu cầu các em nhận diện hoặc cho một ứng dụng đúng trong một tình huống mới đối với một học sinh. - Lý giải những mối quan hệ nhân quả: Mức độ hiểu thường được đo bằng cách yêu cầu học sinh lý giải những mối quan hệ khác nhau giữa các dữ kiện chi tiết. Một trong những mối liên hệ quan trọng nhất và thông dụng nhất đối với hầu hết các môn học đó là mối quan hệ nhân quả. Việc hiểu những mối quan hệ như thế có thể được đo lường bằng cách trình bày cho học sinh một liên hệ nhân quả cụ thể và yêu cầu học sinh nhận ra lý do tốt nhất có thể giải thích cho mối liên hệ ấy. - Điều chỉnh các phương pháp và các tiến trình: Một giai đoạn khác của mức độ hiểu trong nhiều môn học khác nhau có liên quan đến phương pháp và tiến trình. Học sinh có thể hiểu phương pháp đúng là gì hay trình tự các bước thực hiện một tiến trình như thế nào, nhưng không thể giải thích tại saođó là phương pháp tốt nhất. Ở mức độ hiểu, chúng ta quan tâm đến khả năng xem xét việc sử dụng một phương pháp hay một tiến trình chuyên biệt. Có thể đo lường được bằng cách yêu cầu học sinh chọn một lời giải thích tốt nhất cho một đáp án cho sẵn. - Giải quyết vấn đề. 21 - Phân tích, đánh giá. Các kỹ năng nhận thức được bộc lộ qua hoạt động trình bày miệng hay viết. Một chuỗi các câu trắc nghiệm lựa chọn liên hoàn dựa vào một tập hợp các dữ kiện thích hợp cho việc đo lường các kỹ năng nhận thức (những thành quả học tập phức hợp, cao cấp) hơn là các câu trắc nghiệm lựa chọn đơn lẻ không có liên quan với nhau. 2.3.2. Kỹ năng thực hành Kỹ năng thực hành là hệ thống cách thức hay thao tác thực hiện những nhiệm vụ thực hành luyện tập trong học tập. Mức độ phát triển kỹ năng này được thể hiện trên thang gồm 5 mức độ từ thấp đến cao: - Bắt chước: Quan sát và cố gắng lặp lại một kỹ năng nào đó. - Thao tác: Hoàn thành một kỹ năng nào đó theo chỉ dẫn không còn bắt chước máy móc. - Chuẩn hóa: Lặp lại một kỹ năng nào đó một cách chính xác, nhịp nhàng, đúng đắn, thường thực hiện một cách độc lập, không hướng dẫn. - Phối hợp: kết hợp được nhiều kỹ năng theo thứ tự xác định một cách nhanh và ổn định. - Tự động hóa: Hoàn thành một hay nhiều kỹ năng một cách dễ dàng, chính xác và trở thành tự nhiên, không đòi hỏi sự gắng sức về thể lực và trí tuệ. 2.3.3. Kỹ năng tư duy Các kỹ năng tư duy liên quan mật thiết đến kỹ năng nhận thức. Trong lúc kỹ năng nhận thức là cách thức, thao tác chiếm lĩnh kiến thức thì kỹ năng tư duy thể hiện tiến trình thực hiện các thao tác ấy. có 4 kiểu tư duy phổ biến trong quá trình học tập: - Tư duy lôgic: Suy luận theo một chuỗi có tuần tự, khoa học và hệ thống. - Tư duy trừu tượng: Suy luận một cách khái quát, tổng quát hóa vượt ra khỏi khuôn khổ có sẵn. - Tư duy phê phán khoa học: Phân tích, nhận xét, đưa ra suy luận khái quát dựa trên những dự kiện được trình bày hệ thống. 22 - Tư duy sáng tạo: Suy luận các vấn đề một cách mở rộng và ngoài các khuôn khổ định sẵn, tìm ra cái mới. 2.4. Nội dung đánh giá thái độ và hạnh kiểm 2.4.1. Các mức độ lĩnh hội thái độ Trong thực tiễn dạy học giảng dạy, các mục tiêu về thái độ tình cảm thường không được diễn tả một cách chính xác, giáo viên thường không được hướng dẫn rõ ràng về cách đánh giá các mục tiêu này trong quá trình dạy học. Lĩnh vực thái độ, tình cảm liên quan đến các nhân tố tâm lý của người học như chú ý, hứng thú, ý thức, tình cảm thẩm mỹ, ý kiến, cảm xúc, các giá trị đạo đức và thái độ khác. Thành quả học tập thuộc lĩnh vực tình cảm được chia thành 5 loại hay 5 mức độ: Tiếp nhận, cho phản hồi, phán đoán giá trị, tổ chức và thể hiện. - Tiếp nhận: nhận biết, sẵn lòng tiếp nhận, chú ý có chủ định. - Cho phản hồi: hiểu biết, sẵn lòng hỏi đáp lại, hài lòng đáp lại. - Phán đoán giá trị: chấp nhận, thể hiện sự tham gia, cam kết thực hiện. - Tổ chức: tạo ra khái niệm về giá trị cho bản than, đưa giá trị vào hệ thống giá trị của bản thân. - Thể hiện: hành động kiên định theo giá trị đã lĩnh hội, giá trị trở thành nét tính chất của cá nhân. 2.4.2. Bốn nhiệm vụ học sinh được quy định trong Điều lệ Nhà trường - Biết vân lời thầy giáo, cô giáo; lễ phép trong giao tiếp hàng ngày; đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ bạn. - Thực hiện nội quy nhà trương; đi học đều và đúng giờ; giữ gìn sách vỡ và đồ dùng học tập. - Giữa gìn thân thể và vệ sinh cá nhân; đầu tóc, quần áo gọn gàng, sạch sẽ; ăn uống hợp vệ sinh. - Tham gia các hoạt động tập thể trong và ngoài giờ lên lớp; giữ gìn, bảo vệ tài sản của trường, lớp và nơi công cộng; bước đầu biết giữ vệ sinh môi trường, thực hiện các quy tắc về an toàn giao thông và trật tự xã hội. 23 2.4.3. Các phẩm chất thái độ liên quan đến việc phát triển năng lực môn học Phẩm chất thái độ liên quan đến việc phát triển năng lực học tập môn học được nêu trong mục tiêu dạy học tổng quát của chương trình môn học, cũng như trong kế hoạch các bài dạy của môn học ở các khối lớp. Thuật ngữ phẩm chất thái độ chỉ tất cả các phần trong nhân cách học sinh có thể tác động đến học tập. Những phẩm chất thái độ liên quan đến việc phát triển năng lực học tập các môn học khác nhau tùy theo đặc trưng của từng môn. Tuy nhiên, dù biểu hiện đa dạng nhưng các phẩm chất thái độ ấy có thể khái quát được thành một số phẩm chất chung như: hứng thú học tập, thói quen/ phong cách học tập, khả năng tưởng tượng sáng tạo, tình yêu và lòng quan tâm đến cộng đồng xã hội, những nét tính cách cá nhân như lòng tự tin, tự trọng, tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật. CÂU HỎI ÔN TẬP Câu 1: Giả định bạn là một hiệu trưởng của một trường tiểu học, bạn nhận ra rằng có giáo viên ở trường bạn không thực sự quan tâm đến việc tìm hiểu thấu đáo các mục tiêu dạy học và hệ thống trình độ chuẩn kiến thức, kĩ năng và thái độ của mỗi môn học. Bạn sẽ làm gì và nói gì? Câu 2: Hãy chọn một bài học bất kì của môn Khoa học, Toán, Tiếng Việt ở lớp bốn để phân loại nội dung kiến thức của các bài học đó. Câu 3: Đưa ra một đề kiểm tra định kì của môn Tự nhiên và Xã hội lớp ba rồi xác định và phân tích những kiến thức và kĩ năng được đánh giá trong bài kiểm tra đó. Câu 4: Làm thế nào để có thể đánh thái độ của học sinh qua việc học tập các môn học? Cho ví dụ minh họa. CHƯƠNG III NGUYÊN TẮC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC Ở TIỂU HỌC 24 Nguyên tắc kiểm tra đánh giá là những luận điểm có tính quy luật, có tác dụng chỉ dẫn cách tiến hành kiểm tra đánh giá nhằm đạt được kết quả mong muốn và tránh được sai lầm. Đây là những quy định chung nhất, cơ bản, phổ biến có tính chất chỉ đạo việc kiểm tra đánh giá, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục. 3.1. Nguyên tắc khách quan Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh phải khách quan và chính xác tới mức độ tối đa có thể, tạo điều kiện để mỗi học sinh bộc lộ thực chất khả năng và trình độ của mình, ngăn chặn mọi biểu hiện thiếu trung thực khi làm bài. Tính khách quan trong kiểm tra đánh giá là sự phản ánh trung thực kết quả lĩnh hội nội dung tài liệu học tập của học sinh so với yêu cầu do chương trình quy định; tránh đánh giá chung chung về sự tiến bộ của toàn lớp hay của một nhóm thực hành, một tổ học tập. Tính khách quan của kiểm tra đánh giá thể hiện: - Việc đánh giá sát với hoàn cảnh, điều kiện dạy và học, tránh những nhận định chủ quan áp đặt thiếu căn cứ. - Nội dung kiểm tra phù hợp với yêu cầu chung của chương trình đề ra; không theo ý chủ quan của giáo viên hay người ra đề. - Tổ chức kiểm tra nghiêm minh theo đúng những quy định của cấp trên đề ra, như bí mật đề thi, coi thi, kiểm tra nghiêm túc, tránh những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra. - Chuẩn đánh giá đúng đắn, rõ ràng, toàn diện, tổ chức chấm bài nghiêm minh, người chấm bài có trách nhiệm trong việc đánh giá, tránh thiên kiến. Nguyên tắc khách quan là những quy tắc cần được thực hiện trong khi kiểm tra và đánh giá để đảm bảo cho kết quả thu thập được ít chịu ảnh hưởng từ những yếu tố khác với mục tiêu và nội dung cần đánh giá. Sau đây là một số quy tắc thực hiện nguyên tắc khách quan: - Kết hợp kiểm tra định tính với định lượng. 25 1. Giáo dục tiểu học là gì?Như ở trên đã viết và trong Luật Giáo dục năm 2019 đã quy định, thì giáo dục phổ thông bao gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông, như vậy, giáo dục tiểu học là một trong ba cấp của giáo dục phổ thông. Có thể bạn quan tâmGiáo dục tiểu học được thực hiện trong 05 năm học, từ lớp một đến hết lớp năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là 06 tuổi và được tính theo năm; (điểm a, Khoản 1 Điều 28 Luật Giáo dục năm 2019). Giáo dục tiểu học mang mục tiêu chung của giáo dục phổ thông đó là nhằm phát triển toàn diện cho học sinh về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, đồng thời hình thành các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân; bên cạnh đó giáo dục tiểu học mang mục tiêu quan trọng khác nữa đó là hình thành nhân cách con người Việt Nam và xây dựng trách nhiệm công dân từ khi các cá nhân còn nhỏ tuổi. 2. Kiểm tra, đánh giá học sinh tiểu học là gì?Tại Thông tư số 27/2020/TT-BGDĐT ngày 04 tháng 9 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định đánh giá học sinh tiểu học, thì “Đánh giá học sinh tiểu học” là quá trình thu thập, xử lý thông tin thông qua các hoạt động quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra, nhận xét quá trình học tập, rèn luyện của học sinh; tư vấn, hướng dẫn, động viên học sinh; diễn giải thông tin định tính hoặc định lượng về kết quả học tập, rèn luyện, sự hình thành và phát triển một số phẩm chất, năng lực của học sinh tiểu học. (Khoản 1 Điều 2 Quy định Đánh giá học sinh tiểu học). Như vậy, đánh giá học sinh tiểu học hiểu đơn giản là hoạt động do các giáo viên tiến hành, dựa trên quá trình học tập trên lớp của học sinh, dựa trên kết quả học tập, rèn luyện của học sinh,… để đưa ra những đánh giá về ưu điểm, nhược điểm của học sinh, từ đó hướng dẫn, chỉ bảo để học sinh học tập, rèn luyện, phát triển năng lực của bản thân. Hoạt động đánh giá học sinh tiểu học được tiến hành là đánh giá thường xuyên hoặc đánh giá định kỳ học sinh. Trong đó, đánh giá thường xuyên là hoạt động đánh giá diễn ra trong tiến trình thực hiện hoạt động dạy học theo yêu cầu cần đạt và biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của từng môn học. Hoạt động đánh giá thường xuyên giúp cung cấp thông tin phản hồi cho giáo viên và học sinh, để học sinh, giáo viên kịp thời điều chỉnh quá trình dạy học, hỗ trợ, thúc đẩy sự tiến bộ của học sinh. Còn đánh giá định kỳ là đánh giá kết quả giáo dục học sinh sau một giai đoạn học tập, rèn luyện, nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, rèn luyện của học sinh theo yêu cầu cần đạt và biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của từng môn học, hoạt động giáo dục được quy định trong chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học và sự hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. (Khoản 2, Khoản 3 Điều 2 Quy định Đánh giá học sinh tiểu học). Như vậy, có thể thấy đánh giá thường xuyên được áp dụng ngay trong các giờ học trên lớp, các giáo viên thông qua hoạt động giảng dạy, tương tác với học sinh, cũng như việc thực hiện bài tập của học sinh,… để có những đánh giá học sinh kịp thời. Còn hoạt động đánh giá định kỳ được thể hiện thông qua hoạt động kiểm tra, thi như bài kiểm tra 1 tiết, thi giữa học kỳ, thi cuối kỳ,… “Học sinh có thể được kiểm tra, đánh giá trực tuyến”Cỡ chữ Màu chữ: "Nếu vì điều kiện chưa thể đến trường học trực tiếp, như thực tế đang diễn ra ở nhiều địa phương thời gian qua, học sinh có thể được kiểm tra, đánh giá trực tuyến". Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Hữu Độ, khi nói rõ thêm về nội dung của văn bản số 5766/BGDĐT-GDTT ban hành ngày 13/12/2021, nhằm hướng dẫn tổ chức dạy học, đánh giá học sinh tiểu học thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông phù hợp với diễn tiến dịch bệnh Covid-19. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn HữuĐộ Ở những địa phương mà học sinh không thể đến trường do dịch bệnh, các trường tổ chức kiểm tra đánh giá thường xuyên, định kỳ cho học sinh theo hình thức trực tuyến. Đối với những khu vực đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu phòng chống dịch, học sinh có thể đến trường học tập, thì các trường khẩn trương ôn tập và củng cố kiến thức cho học sinh và thực hiện kiểm tra đánh giá thường xuyên, định kỳ trực tiếp. Đối với các em học sinh lớp 1, lớp 2 đang học qua truyền hình, quá trình học tập của các em thiếu sự tương tác, và nhà trường cùng các thầy/cô chưa có đánh giá chính xác việc các em thu nhận được kiến thức tới đâu. Vì vậy, trong điều kiện cho phép, cần tạo điều kiện tối đa để học sinh được tới trường củng cố kiến thức và được hướng dẫn thực hiện bài kiểm tra định kỳ trực tiếp. Với lớp 3, 4, 5, học sinh cơ bản đã có ý thức và kỹ năng học tập, kỹ năng làm bài định kỳ theo đặc trưng của từng môn học trong quá trình học từ các năm trước. Quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo là tùy điều kiện thực tế ở các địa phương, các sở, phòng giáo dục chỉ đạo các trường hướng dẫn việc kiểm tra, đánh giá định kỳ bằng hình thức trực tiếp hay trực tuyến. Đồng thời, các địa phương có thể linh hoạt điều chỉnh thời gian thực hiện kiểm tra phù hợp với kế hoạch triển năm học này, kế hoạch năm học mới và tình hình dịch bệnh tại địa bàn. Tweet |