Kinh tế thị trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản dựng hay sai

QPTD -Thứ Sáu, 19/08/2011, 22:49 (GMT+7)

Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá; ra đời và phát triển khi thị trường phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và các quan hệ thị trường đã tương đối hoàn thiện. Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản (CNTB), cũng không đồng nhất với CNTB mà nó là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại 1.

Kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN là mô hình phát triển kinh tế mà chúng ta lựa chọn trong thời kỳ đổi mới. Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật lạc hậu, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh kéo dài tàn phá nặng nề. Đi lên CNXH là mục tiêu lý tưởng của Đảng ta, là khát vọng thiêng liêng ngàn đời của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên CNXH bằng cách nào là câu hỏi lớn, trả lời không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước XHCN đã áp dụng mô hình CNXH kiểu Xô-viết (mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, mà thực chất là mô hình kinh tế phi thị trường, đơn nhất thành phần kinh tế). Mô hình này đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh; còn khi đất nước hòa bình, cả nước xây dựng CNXH, nó đã bộc lộ những khiếm khuyết. Mặt khác, trong công tác chỉ đạo, chúng ta cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về CNXH không đúng với thực tiễn đất nước.

Trên cơ sở nhận thức đúng về CNXH và con đường đi lên CNXH, Đảng và nhân dân ta kiên quyết đoạn tuyệt với kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, chuyển sang xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN. Lựa chọn KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa KTTT với CNXH, mà là nắm bắt và vận dụng sáng tạo xu thế khách quan của KTTT trong thời đại ngày nay, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong quá trình xây dựng đất nước. Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam, trên cơ sở nhận thức đúng đắn tính quy luật phát triển của thời đại và sự đúc rút kinh nghiệm phát triển KTTT trên thế giới (đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam và Trung Quốc), đã đưa ra chủ trương phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Đó là sự thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta không phải là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp như trước đây, cũng không phải là nền KTTT ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) và cũng chưa hoàn toàn là KTTT XHCN. Bởi vì, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ với cái mới; các yếu tố của CNXH đã có nhưng chưa đầy đủ, phải đấu tranh với cái cũ để tồn tại và phát triển .

KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế mở, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế; thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc, quy luật của KTTT, vừa bị chi phối bởi các quy luật kinh tế của CNXH và các yếu tố đảm bảo định hướng XHCN. Vì thế, KTTT định hướng XHCN ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung của KTTT, vừa có tính đặc thù - định hướng XHCN, như Đại hội Đảng lần thứ 7 nêu ra, lần thứ 8, thứ 10 bổ sung, phát triển. Đó là nền KTTT "Thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân"2. Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội; tiến bộ và công bằng xã hội được thực hiện ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội, vì mục tiêu phát triển con người.

Phát triển KTTT định hướng XHCN tạo điều kiện để chúng ta đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo; vừa khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, vừa tạo điều kiện để người khác thoát nghèo và từng bước vươn lên khá giả.

Sự khác biệt về bản chất của Nhà nước XHCN Việt Nam và vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với xã hội, là một trong những “tiêu chí” để phân biệt KTTT ở nước ta với KTTT ở các nước TBCN. Sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam là nhân tố quyết định đảm bảo sự phát triển nhanh, bền vững nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.

Do KTTT có mặt tích cực và những hạn chế nhất định, nên trong thời kỳ đất nước hội nhập sâu, rộng và toàn diện vào nền kinh tế thế giới, cần tăng cường định hướng XHCN nền KTTT. Theo đó, cần tiến hành tổng hợp các nội dung, giải pháp; trong đó nổi lên một số vấn đề sau:

1. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để các tầng lớp nhân dân nhận thức thống nhất về nền KTTT định hướng XHCN. Đó là nền kinh tế mà trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Và “nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của KTTT, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của CNXH và các yếu tố đảm bảo định hướng XHCN”3. Như vậy, KTTT và định hướng XHCN không mâu thuẫn với nhau.

2. Hoàn thiện chính sách phân phối thu nhập quốc dân trong nền KTTT định hướng XHCN vừa phải đảm bảo giải quyết hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, vừa đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội, vì mục tiêu phát triển con người. Theo đó, tập trung vào hai chính sách chủ yếu.

Thứ nhất, chính sách phân phối tài chính qua ngân sách nhà nước vừa là phương hướng cơ bản để xử lý hệ thống các lợi ích kinh tế trong phân phối thu nhập quốc dân, vừa là công cụ quan trọng điều tiết phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Muốn hoàn thiện chính sách này, Nhà nước cần phải chuyển từ chính sách thu hướng vào đảm bảo nguồn thu, sang chính sách thu hướng vào tăng trưởng. Theo đó, chính sách thu (nhất là chính sách thuế) phải được nhìn nhận như là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước chứ không đơn thuần là công cụ động viên nguồn thu ngân sách nhà nước; phải phù hợp với điều kiện Việt Nam đã hội nhập đầy đủ và toàn diện vào nền kinh tế thế giới; đảm bảo công bằng, bình đẳng, thống nhất giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, bảo đảm sự ổn định, minh bạch, công khai...

Thứ hai, chính sách tiền lương và thu nhập là bộ phận cấu thành chủ yếu của lợi ích kinh tế người lao động, là một yếu tố cấu thành chi phí sản xuất - kinh doanh. Do đó, chúng ta phải từng bước tách chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách ưu đãi người có công với nước, để nó độc lập với chính sách tiền lương. Hoàn thiện chính sách tiền lương phải gắn với cải cách kinh tế, thiết lập đồng bộ các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ, bất động sản… Các thị trường phải hoạt động “lành mạnh”, có hiệu quả. Nâng mức lương tối thiểu chung đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động. Điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng đối với khu vực doanh nghiệp, tiến tới thực hiện mức lương tối thiểu thống nhất giữa các doanh nghiệp theo cam kết quốc tế (WTO). Cần tách rõ tiền lương của khu vực hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể xã hội và lực lượng vũ trang) do ngân sách Nhà nước đảm bảo với khu vực sự nghiệp; chống chủ nghĩa bình quân trong chính sách tiền lương, bằng cách: mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu - trung bình - tối đa; thu hẹp thang, bảng, bậc lương; hoàn thiện các chế độ phụ cấp và gộp vào tiền lương.

3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Nước ta xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN nên coi tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tính định hướng XHCN đòi hỏi phải bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng, tiến bộ xã hội ngay trong từng giai đoạn phát triển và trong từng chính sách kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đồng thời với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và bảo vệ môi trường, vì mục tiêu phát triển con người Việt Nam là những nội dung cấu thành của sự phát triển nhanh, hiệu quả, hiện đại và bền vững trong quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN.

Tập trung tạo việc làm để thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo là giải pháp tích cực và cơ bản nhất để thực hiện công bằng xã hội. Để tạo việc làm, cần khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp và sản xuất - kinh doanh, từ đó thu hút thêm lao động. Khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhất là ở địa bàn nông thôn, tạo điều kiện cho người dân làm giàu trên mảnh đất của mình bằng chính sách hỗ trợ của Nhà nước và công nghệ tiên tiến, với phương châm “làm giàu để xoá nghèo”. Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm một cách chính đáng; phát triển lành mạnh các hoạt động dịch vụ việc làm, dịch vụ lao động...

Tiếp tục thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo theo hướng bền vững. Điểm nổi bật của chiến lược này là Đảng và Nhà nước ta đã gắn chặt mục tiêu xoá đói, giảm nghèo với chiến lược phát triển, coi xoá đói, giảm nghèo là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển, là mục tiêu xuyên suốt của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xoá đói, giảm nghèo vừa là mục tiêu, vừa là tiền đề, điều kiện và là thước đo phát triển bền vững, là yếu tố cơ bản bảo đảm công bằng xã hội.

Ở nước ta, trong thời gian qua, công tác xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, được thế giới đánh giá cao. Song sức ép về việc làm và xoá đói, giảm nghèo còn rất lớn, tỷ lệ hộ tái nghèo gia tăng, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn mới vẫn còn cao. Cho nên, đây vẫn là vấn đề cần nỗ lực giải quyết trong nền KTTT nhằm giữ vững định hướng XHCN. Để đạt mục tiêu giảm hộ nghèo còn 15% vào năm 2010 như Đại hội X của Đảng đề ra, cần triển khai đồng bộ và có định hướng cơ bản, lâu dài hơn, bằng một hệ thống giải pháp tổng thể sau:

Thực hiện nghiêm ngặt chương trình mục tiêu quốc gia về dân số và kế hoạch hoá gia đình; duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất, từ đó tạo việc làm, thu hút lao động, nhất là đối với khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Tăng cường công tác đào tạo nghề cho lực lượng lao động (đặc biệt là lao động ở nông thôn, nông nghiệp) nhằm xây dựng đội ngũ lao động có tay nghề phục vụ yêu cầu CNH, HĐH và yêu cầu xuất khẩu lao động. Tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hoá, giáo dục và đào tạo; chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn và thực hiện thắng lợi Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27-12-2008 của Chính phủ "Về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo".

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, triển khai có hiệu quả hình thức bảo hiểm thất nghiệp, khuyến khích mở rộng hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm nhân thọ, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân...

Xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội trong tổng thể hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt và hỗ trợ lẫn nhau, có khả năng bảo vệ mọi thành viên trong xã hội, nhất là những nhóm người dễ bị tổn thương và những người có công với nước. Sửa đổi, bổ sung chế độ trợ cấp xã hội theo mức sống tối thiểu của xã hội trong từng thời kỳ.

4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền KTTT. Sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam và quản lý của Nhà nước là nhân tố quyết định thành công sự phát triển nhanh, bền vững nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển KTTT định hướng XHCN có nhiều cơ hội thuận lợi, song cũng có không ít thách thức, thậm chí có cả nguy cơ. Để vượt qua khó khăn, thách thức và nguy cơ, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị. Chỉ có như vậy, mới đảm bảo cho nền KTTT nước ta phát triển đúng định hướng XHCN.

GS,TS. CHU VĂN CẤP

Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh

_________

1 - Ở các nước TBCN có các mô hình KTTT tiêu biểu:

- Mô hình Cộng hoà Liên bang Đức - "KTTT xã hội".

- Mô hình Nhật Bản - “KTTT cộng đồng”

- Mô hình Thụy Điển - “Khéo kết hợp KTTT với mở rộng phúc lợi xã hội”.

Ở các nước XHCN có mô hình KTTT XHCN ở Trung Quốc và mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

2- ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.77.

3- ĐCS VN - Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương, khóa X, Nxb CTQG, H. 2008, tr. 139 - 140..