Mục đích ra đời của tổ chức hiệp ước vác-sa-va là gì

Trong suốt nửa sau thế kỷ XX, Tổ chức Hiệp ước Warszawa là vấn đề gây đau đầu không dứt đối với các tướng lĩnh Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương [NATO]. Không thể hình dung kỷ nguyên Chiến tranh lạnh mà không có sự đối đầu giữa hai liên minh quân sự-chính trị mạnh nhất thế giới này.

Ít ai biết rằng, Tổ chức Hiệp ước Warszawa, được ví như “thành trì hòa bình” và “lá chắn của chủ nghĩa xã hội”, ra đời muộn hơn nhiều so với đối thủ phương Tây của mình.

Liên minh các nước xã hội chủ nghĩa

Các nhà lãnh đạo Liên Xô, cũng như các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Trung Âu chịu tầm ảnh hưởng của Liên Xô, đã có thái độ khá bình tĩnh trước việc các cường quốc phương Tây thành lập NATO vào năm 1949. Lúc đó, khối phía Đông cho rằng, các thỏa thuận phòng thủ song phương mà Liên Xô đã ký với những đồng minh mới của mình, cũng như sự hiện diện quân đội Xô viết trên lãnh thổ của họ, là hoàn toàn đủ để đảm bảo an ninh cho khối.

Ký kết Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Tương trợ tại Warszawa, ngày 14-5-1955. Ảnh: Sputnik.

Ngoài ra, do chịu tổn thất nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nên Liên Xô khi đó không đủ tiềm lực kinh tế và phương tiện kỹ thuật để thành lập một tổ chức cho riêng mình tương tự như NATO. Tuy nhiên, về sau tình hình kinh tế ở Liên Xô bắt đầu được cải thiện. Bằng nỗ lực của hàng trăm cố vấn quân sự Liên Xô, các lực lượng vũ trang Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary và Romania đã được tổ chức lại theo mô hình của Liên Xô, trong khi nhiều sĩ quan của những nước này được đào tạo tại các trường quân sự và quân chính Xô viết.

Ngay trong năm 1951, Tham mưu trưởng Tập đoàn quân Liên Xô tại Đức, Đại tướng Sergey Shtemenko trong một cuộc họp có sự tham dự của nhà lãnh đạo Joseph Stalin, đã nêu ra ý tưởng thành lập “Liên minh quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Tuy nhiên, sau khi Stalin qua đời thì mới xuất hiện Tổ chức Hiệp ước Warszawa.

Nguyên nhân chính cho sự ra đời của Tổ chức Hiệp ước Warszawa là xuất phát từ việc các đồng minh phương Tây ký kết Hiệp định Paris vào năm 1954. Theo đó, Cộng hòa Liên bang Đức [Tây Đức] gia nhập Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương, đồng thời Liên minh Tây Âu [Tổ chức chính trị-quân sự của các nước châu Âu] cũng đã được thành lập. Việc tăng cường vị thế nhanh chóng như vậy của đối thủ tiềm tàng ở Trung Âu cuối cùng đã dẫn đến việc, ngày 14-5-1955 tại Warszawa, Liên Xô, Bulgaria, Hungary, Cộng hòa Dân chủ Đức [Đông Đức], Ba Lan, Romania, Albania và Tiệp Khắc đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Tương trợ, nhằm chính thức hóa việc thành lập một liên minh quân sự-chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa.

Dưới sự lãnh đạo của Moscow

Các bên cam kết tương trợ cho nhau trong trường hợp bị đe dọa quân sự, thành lập Bộ chỉ huy chung các lực lượng vũ trang của những nước này. Theo thỏa thuận giữa các bên, các lực lượng vũ trang sẽ được giao cho Bộ chỉ huy chung và triển khai “các biện pháp đã thống nhất khác cần thiết cho việc tăng cường khả năng phòng thủ, nhằm mục đích bảo vệ lao động hòa bình của nhân dân đất nước họ, bảo đảm sự bất khả xâm phạm biên giới và lãnh thổ của họ, cũng như bảo vệ trước sự xâm lược nào có thể xảy ra”.

Cuộc tập trận quân sự mang tên “Vltava” của Liên Xô và các nước tham gia Hiệp ước Warszawa. Ảnh: V. Gzhelsky/Sputnik.

Mặc dù trong Hiệp ước có tuyên bố về sự bình đẳng của các bên tham gia, nhưng Liên Xô vẫn luôn đóng vai trò chủ chốt từ những ngày đầu thành lập cho đến khi giải thể Tổ chức này. Ngay từ đầu, Moscow là nơi phê chuẩn các dự thảo văn kiện quan trọng nhất do Ủy ban Hiệp thương Chính trị [Cơ quan tối cao của Tổ chức Hiệp ước Warszawa] xem xét. Các cuộc họp của Ủy ban này luôn có sự tham dự của người đứng đầu Chính phủ các nước đồng minh.

Tổng tư lệnh Lực lượng vũ trang chung của các nước thành viên Hiệp ước Warszawa, cũng như Tham mưu trưởng luôn là các tướng lĩnh của Liên Xô. Thông thường, đại diện quân đội các nước khác trong khối chỉ nắm giữ các chức vụ Phó Tổng tư lệnh và Phó tham mưu trưởng.

Trong khi Hoa Kỳ tính toán cặn kẽ và phân chia nghĩa vụ tài chính cho việc duy trì hoạt động của NATO lên tất cả các nước thành viên, thì Liên Xô đã mạnh dạn gánh vác gần như toàn bộ chi phí lên vai mình. Theo đó, nếu phần đóng góp tài chính của Liên Xô cho hoạt động của Bộ chỉ huy chung và Bộ tham mưu chiếm 45%, thì mức chi phí đóng góp của nước này nhằm duy trì Lực lượng vũ trang chung và cơ sở hạ tầng của Liên minh là hơn 90%.

Chống phản cách mạng

Liên minh quân sự-chính trị khối phía Đông được Ban lãnh đạo Liên Xô xem như đối trọng hiệu quả với Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó là Nikita Khrushchev đã gọi Hiệp ước Warszawa là “nhân tố quan trọng giúp ổn định tại châu Âu”.

Bên cạnh việc Tổ chức Hiệp ước Warszawa đối với Moscow là công cụ của chính sách đối ngoại, thì nó còn là phương tiện quan trọng nhằm giải quyết tình trạng khủng hoảng xảy ra trong phe các nước xã hội chủ nghĩa.

Trong cuộc nổi dậy ở Hungary năm 1956, quân đội Liên Xô đã tiến vào nước này, như tuyên bố trong quân lệnh của Tổng tư lệnh Lực lượng vũ trang chung, Nguyên soái Ivan Konev, là nhằm mục đích “hỗ trợ nhân dân Hungary anh em trong việc bảo vệ thành quả xã hội chủ nghĩa, đập tan thế lực phản cách mạng và loại bỏ nguy cơ phục hưng chủ nghĩa phát xít”. Có ý kiến khẳng định rằng, quân đội Liên Xô đã hành động “phù hợp với đề nghị của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Hungary trên cơ sở Hiệp ước Warszawa đã được ký kết giữa các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa”.

Nếu tại Budapest, Liên Xô chủ yếu tự xoay xở bằng lực lượng của mình với sự ủng hộ của Quân đội nhân dân Hungary và các cơ quan tình báo của nước này, thì đến sự kiện “Mùa xuân Praha năm 1968”, Liên Xô đã lôi kéo toàn diện các đồng minh của mình vào để chống lại các thế lực phản cách mạng. Ngoài các đơn vị quân sự Liên Xô, tiến vào Tiệp Khắc khi đó còn có quân đội Ba Lan, Bulgaria, Hungary và Cộng hòa Dân chủ Đức.

Năm 1985, Hiệp ước Warszawa hết hạn. Ngày 26-4 năm đó, các bên đã lặng lẽ gia hạn Hiệp ước này thêm 20 năm, mà không hề biết rằng, thực tế sau đó nó chỉ còn tồn tại thêm chừng 5 năm. Sau khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, cũng như hai miền nước Đức thống nhất, thì Liên minh quân sự phía Đông này đã không còn ý nghĩa để tiếp tục tồn tại.

Ngày 1-7-1991 tại Praha, các đại diện Liên Xô, Bulgaria, Hungary, Ba Lan, Romania và Tiệp Khắc đã ký kết Biên bản chấm dứt hoàn toàn hiệu lực của Hiệp ước Warszawa. Và rồi trong vòng 20 năm tiếp theo, tất cả những nước đồng minh cũ của Moscow đã lần lượt gia nhập Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương [NATO].

QUỐC KHÁNH [theo Russia Beyond]

Tổ chức Hiệp Ước Warszawa [tên chính thức là Hiệp Ước Hữu Nghị, Hợp Tác, và Tương Trợ, tên thường gọi là Khối Warszawa, khối Warsaw trong tiếng Anh hoặc Khối Vác-sa-va trong tiếng Việt] là khối quân sự gồm 7 nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung và Đông Âu, gồm Liên Xô, Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, România và Tiệp Khắc. Liên minh quân sự này do Liên Xô thành lập và chỉ huy nhằm chống lại khối quân sự NATO, do Hoa Kỳ đứng đầu, trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh. Ban đầu hiệp ước được ký ở Warszawa của Ba Lan nhưng trụ sở của khối đặt tại thủ đô Moskva của Liên bang Xô viết. Mặc dù trên danh nghĩa là liên minh phòng thủ, song khối Warszawa đã mở chiến dịch quân sự vào các quốc gia khác theo nhiều mức độ khác nhau [ví dụ như Mùa xuân Praha, Chiến tranh Việt Nam, Cách mạng Hungary, Nội chiến Angola...].

Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Tương trợtiếng Nga: Договор о дружбе, сотрудничестве и взаимной помощи

Thành viên [xanh đậm]

Khẩu hiệuLiên minh Hòa bình và Xã hội chủ nghĩaThành lập14 tháng 5, 1955 [1955-05-14]Giải tán1 tháng 7, 1991 [1991-07-01]LoạiLiên minh quân sựTrụ sở chínhMoskva, Liên Xô

Thành viên

 
Bulgaria

 Hungary
 
Đông Đức [đến 1989]
 
Ba Lan
 
România
 
Liên Xô

 
Tiệp Khắc

Tổng Tư lệnh Tối cao

Pyotr Lushev [cuối cùng]

Tổng Tham mưu Liên hợp

Vladimir Lobov [cuối cùng]

Việc thành lập Tổ Chức Hiệp Ước Warszawa được coi là để bảo đảm hòa bình và an ninh ở các nước cộng sản chủ nghĩa thành viên, nhưng các biến cố lịch sử cho thấy mục đích chính của khối này cũng là để củng cố chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. Ở Hungary vào năm 1956, và sau đó là ở Tiệp Khắc năm 1968, Liên Xô đã viện dẫn Hiệp Ước Warszawa để hợp pháp hóa việc can thiệp nhằm đàn áp các cuộc nổi dậy chống cộng.[1]

Khối Warszawa được thành lập như là một đối trọng của các nước Xã hội Chủ nghĩa đối với NATO trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh, với mục đích ban đầu là thành lập 1 hiệp ước phòng vệ tập thể trước nguy cơ các quốc gia trong khối Warszawa bị NATO tấn công. Tuy nhiên về sau mục đích này ngày càng đi xa sứ mệnh ban đầu của mình khi Moskva lợi dụng khối Warszawa để can thiệp vào nội bộ các nước Đông Âu [2] khiến các nước thành viên trong khối Warszawa mất quyền chủ quyết của mình.[3]

Mặc dù hiệp ước tuyên bố sự bình đẳng của các bên tham gia nhưng trên thực tế, từ những ngày đầu tiên tổ chức tồn tại và cho đến khi giải thể, vai trò chủ chốt trong hiệp ước này thuộc về Liên Xô. Ngoài ra, các chức vụ tổng tư lệnh và tham mưu trưởng Lực lượng vũ trang chung của các quốc gia thành viên Hiệp ước Warszawa luôn thuộc về các chỉ huy Liên Xô, trong khi đại diện của các quân đội khác theo quy định chỉ là cấp phó của họ.[4]

 

Một tem kỷ niệm của Liên Xô kỷ niệm 20 năm thành lập Hiệp ước Warszawa vào năm 1975, nói rằng nó là "Bảo vệ hòa bình và chủ nghĩa xã hội".

Tổ chức khối Warszawa gồm 2 phần: Ủy ban Cố vấn Chính trị với nhiệm vụ giải quyết các vấn đề liên quan đến chính trị của khối, Bộ Chỉ huy Phối hợp Lực lượng vũ trang Hiệp ước kiểm soát các vấn đề quân sự các quốc gia thành viên. Trụ sở được đặt tại Warszawa, Ba Lan. Đồng thời Tổng Tư lệnh Tối cao Lực lượng vũ trang thống nhất của Tổ chức Hiệp ước Warszawa là Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng Liên Xô và Tổng Tham mưu Liên hợp Lực lượng vũ trang thống nhất của Tổ chức Hiệp ước Warszawa đồng thời là Phó Tổng Tham mưu thứ nhất Lực lượng vũ trang Liên Xô. Vì thế, mặc dù là một liên minh an ninh tập thể quốc tế, nhưng Liên Xô đã thống lĩnh các lực lượng vũ trang của Hiệp ước Warszawa.

 

Dinh Tổng thống tại Warszawa, Ba Lan, nơi Hiệp ước Warszawa được thành lập và ký kết vào ngày 14 tháng 5 năm 1955

 

Một chiếc xe jeep quân sự điển hình của Liên Xô UAZ-469, được sử dụng bởi hầu hết các quốc gia của Hiệp ước Warszawa

Khối này được thành lập ngày 14/5/1955 tại Warszawa, sau khi các nước Liên Xô, Albania, Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, România, Tiệp Khắc ký kết Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ, có hiệu lực từ tháng 6/1955. Theo hiệp ước, các nước thành viên có nghĩa vụ đem quân hỗ trợ nhau trong trường hợp bất kỳ 1 nước thành viên nào bị tấn công bởi 1 nước khác nằm ngoài khối. Mặc dù Nam Tư cũng là nước XHCN nhưng do bất đồng với Liên Xô nên không tham gia khối quân sự này.

Năm 1961, Albania rút khỏi hiệp ước này do bất đồng với Liên Xô và các nước XHCN khác. Sau đó đặt quan hệ thân mật với Trung Quốc.

Khối Warszawa đã góp phần vào việc xây dựng lên bức tường Berlin [bức tường tượng trưng cho sự chia cắt giữa Đông Đức và Tây Đức]. Ngoài ra, khối này cũng can thiệp vào các sự kiện cách mạng Hungary 1956 và tấn công Tiệp Khắc 1968.

Vào tháng 12/1970, khối Warszawa tổ chức 1 hội nghị họp tại Đông Berlin để thảo luận phương hướng và nhiệm vụ của tổ chức. Đến năm 1985, lãnh đạo các nước thành viên của khối ký nghị định thư về việc gia hạn hiệp ước. Năm 1989, khối Warszawa ủng hộ việc Liên Xô rút quân khỏi các nước thành viên [đầu tiên là Tiệp Khắc]. Đến tháng 5/1989, khối Warszawa kêu gọi NATO cùng giải tán, ngoài ra khối cũng mong muốn cùng NATO đàm phán về vũ khí hạt nhân chiến thuật và các vấn đề liên quan tới hải quân. Tháng 12/1989, khối Warszawa đã đánh giá lại sự kiện năm 1968 ở Tiệp Khắc, lên án các đơn vị quân đội của mình can thiệp vào sự kiện này.

Vào ngày 1 tháng 7 năm 1991, đại diện của Liên Xô, Bulgaria, Hungary, Ba Lan, Romania và Tiệp Khắc đã ký một nghị định thư tại Praha về việc chấm dứt hoàn toàn Hiệp ước Warszawa. Trong khi đó, trong 20 năm sau đó, tất cả các đồng minh cũ của Moskva đều gia nhập Liên minh Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương [NATO].[5]

Năm 1977-1978, Khối Warszawa có khoảng 4,752 - 5,502 triệu quân, trong đó Liên Xô đóng góp 3,675 - 4,425 triệu quân.[6]

Trong năm 1990, khối quân sự này có tổng cộng 4,8 triệu quân, trong đó riêng Liên Xô đã góp 3,7 triệu.[7]

Các thành viên gồm:

Quốc gia Đảng cầm quyền
    Liên Xô   Đảng Cộng sản Liên Xô

tiếng Nga: Коммунистическая партия Советского Союза
[trước đây Đảng Lao động Xã hội Dân chủ Nga [РСДРП], Đảng Lao động Xã hội Dân chủ Nga-Bolsheviks [РСДРП[б]], Đảng Cộng sản Nga [РКП[б]], Đảng Cộng sản Toàn Nga [ВКП[б]]]

    Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa România   Đảng Cộng sản România
tiếng Romania: Partidul Comunist Român
    Cộng hòa Nhân dân Bulgaria   Đảng Cộng sản Bulgaria
tiếng Bulgaria: Българска комунистическа партия
    Cộng hòa Nhân dân Ba Lan   Đảng Lao động Công đoàn Ba Lan
tiếng Ba Lan: Polska Zjednoczona Partia Robotnicza
    Cộng hòa Dân chủ Đức   Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức
tiếng Đức: Sozialistische Einheitspartei Deutschlands
    Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc   Đảng Cộng sản Tiệp Khắc
tiếng Séc: Komunistická strana Československa
    Cộng hòa Nhân dân Hungary   Đảng Lao động Xã hội Chủ nghĩa Hungary
tiếng Hungary: Magyar Szocialista Munkáspárt
    Cộng hòa Nhân dân Xã hội chủ nghĩa Albania Đảng Lao động Albania
tiếng Albania: Partia e Punës e Shqipërisë
[rút khỏi khối năm 1961, chính thức rút khỏi tháng 9/1968]
  • 1955-1960 — Ivan Stepanovich Koniev — Nguyên soái Liên Xô.
  • 1960-1967 — Andrei Grechko — Nguyên soái Liên Xô.
  • 1967-1976 — Ivan Yakubovsky — Nguyên soái Liên Xô.
  • 1977-1989 — Viktor Kulikov — Nguyên soái Liên Xô.
  • 1989-1991 — Pyotr Lushev — Đại tướng.
  • 1955-1962 — Aleksey Innokent'evich Antonov — Đại tướng lục quân.
  • 1962-1965 — Pavel Batov — Đại tướng lục quân.
  • 1965-1968 — Mihail Kazakov — Đại tướng lục quân.
  • 1968-1976 — Sergei Shtemenko — Đại tướng lục quân.
  • 1976-1988 — Anatoly Gribkov — Đại tướng lục quân.
  • 1989-1991 — Vladimir Lobov — Đại tướng lục quân.
  • Comecon
  • Détente
  • NATO
  • Cách mạng 1989

  1. ^ Warsaw Pact ends, www.history.com
  2. ^ “Vì sao khối quân sự Warsaw lại tan rã chóng vánh?”.
  3. ^ “Vì sao khối quân sự Warsaw lại tan rã chóng vánh?”.
  4. ^ “Why did the USSR set up its own military alliance - the Warsaw Treaty Organization?”.
  5. ^ “Why did the USSR set up its own military alliance - the Warsaw Treaty Organization?”.
  6. ^ Alice, M. Rivlin [1977]. Assessing the NATO/Warsaw Pact Military Balance [PDF]. Quốc hội Hoa Kỳ. tr. 4. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2014.
  7. ^ Warsaw Pact Agrees to Dissolve Its Military Alliance by March 31, The New York Times

  • Mastny, Vojtech và Malcolm Byrne biên khảo. A Cardboard Castle: An Inside History of the Warsaw Pact, 1955-1991. Budapest: Central European University Press, 2005. 726 pp.
  • Umbach, Frank. Das rote Bündnis: Entwicklung und Zerfall des Warschauer Pakts, 1955-1991. Berlin: Christoph Links Verlag, 2005. 701 pp.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Khối Warszawa.
  • Hiệp ước Warszawa 1955 Lưu trữ 2007-12-20 tại Wayback Machine
  • 1968: Quân đội Liên Xô và các nước XHCN bảo vệ Tiệp Khắc Lưu trữ 2006-10-13 tại Wayback Machine

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Khối_Warszawa&oldid=68233960”

Video liên quan

Chủ Đề