Ngành chiếm tỉ trọng lớn về giá trị sản xuất trong cơ cấu nông nghiệp ở nhiều nước Đông Nam á là

Ảnh minh hoạ

Nhiều chỉ tiêu phát triển đạt và vượt kế hoạch

Từ việc chủ động, linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành sản xuất, năm 2021, ngành nông nghiệp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhiều chỉ tiêu phát triển đạt và vượt kế hoạch đề ra.

Về lĩnh vực trồng trọt, cơ cấu cây trồng được chuyển đổi hiệu quả hơn. Ngành nông nghiệp đã đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhất là đối với cây trồng chủ lực; tập trung cải tạo cơ cấu giống, kiểm soát, nâng tỉ lệ sử dụng các giống mới, chất lượng cao. Điển hình như sản xuất lúa đã đạt sản lượng đến 43,86 triệu tấn, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tỉ trọng gạo chất lượng cao chiếm trên 89%, giá gạo xuất khẩu tăng từ 496 USD/tấn năm 2020 lên 503 USD/tấn năm 2021. Rau màu có diện tích khoảng 1,12 triệu ha; sản lượng đạt 18,6 triệu tấn, tăng 325.500 tấn so với năm 2020…

Trong lĩnh vực thủy sản, đã đẩy nhanh phát triển bền vững cả nuôi trồng và khai thác. Tổng sản lượng thủy sản đạt trên 8,73 triệu tấn, tăng 1,0% so với năm 2020; trong đó khai thác trên 3,9 triệu tấn, tăng 0,9%, nuôi trồng 4,8 triệu tấn, tăng 1,1%.

Đối với lâm nghiệp, tiếp tục thực hiện Chương trình bảo vệ và phát triển rừng, trọng tâm là Đề án “Trồng 1 tỷ cây xanh giai đoạn 2021-2025”; diện tích rừng trồng mới tập trung 278.000 ha và 120 triệu cây phân tán; thu dịch vụ môi trường rừng trên 3.100 tỷ đồng.

Việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp đi vào thực chất, hiệu quả hơn; quy mô và trình độ sản xuất được nâng cao, chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa trên cơ sở phát huy các lợi thế từng vùng, miền, chuyển dịch theo hướng hiện đại. Đồng thời, tiếp tục tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt để thúc đẩy phát triển và cơ cấu lại ngành… với các giải pháp đồng bộ, đã tạo đà duy trì tốc độ tăng trưởng GDP với mức tăng 2,85% trên hầu hết các lĩnh vực.

Đặc biệt, thị trường tiêu thụ nông sản tiếp tục phát triển, thị trường trong nước được mở rộng hơn. Kim ngạch xuất khẩu năm 2021 đạt mức cao kỷ lục, trên 48,6 tỷ USD. Có 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 6 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD [gỗ và sản phẩm gỗ, tôm, rau quả, hạt điều, gạo, cao su].

Theo Bộ NN&PTNT, tổ chức liên kết chuỗi sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp tiếp tục được đổi mới; nhiều mô hình liên kết giữa người sản xuất với doanh nghiệp, hợp tác xã [HTX] theo chuỗi được triển khai nhân rộng. Năm 2021, thành lập mới 1.250 HTX nông nghiệp, nâng tổng số lên 78 liên hiệp HTX nông nghiệp, 19.100 HTX nông nghiệp; thành lập mới và trở lại hoạt động 1.640 doanh nghiệp, nâng tổng số lên trên 14.000 doanh nghiệp nông nghiệp.

Ứng dụng khoa học công nghệ thúc đẩy cả 3 trục sản phẩm, bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm. Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” [OCOP] tập trung thực hiện kết hợp tài nguyên bản địa, văn hóa truyền thống với ứng dụng khoa học-công nghệ, tạo sản phẩm đa dạng, phong phú, chất lượng; đến hết năm 2021, phân hạng và công nhận 5.320 sản phẩm OCOP, tăng 1,66 lần so với năm 2020.

Năm 2021, đã nghiệm thu và công bố, công nhận 54 giống cây trồng, vật nuôi; 80 tiến bộ kỹ thuật mới, quy trình kỹ thuật mới; ban hành, công bố 9 Quy chuẩn Việt Nam [QCVN], 106 Tiêu chuẩn Việt Nam [TCVN] và lũy kế đến nay, có 1.220 TCVN và 232 QCVN.

Cùng với đó, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới [NTM] tiếp tục phát triển, tăng cả về số lượng và chất lượng. Hết năm 2021, có 5.614 xã [68,2%] đạt chuẩn NTM, bình quân đạt 17 tiêu chí/xã; có 213 đơn vị cấp huyện thuộc 53 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; có thêm 3 tỉnh, thành phố với 100% đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM [Thái Bình, Cần Thơ, Hải Dương], đang hoàn thiện thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ công nhận cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM.

Hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được đầu tư nâng cấp và từng bước hiện đại hóa, đồng bộ, nâng cao chất lượng phục vụ ngày càng tốt hơn cho sản xuất, đời sống dân sinh, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Năm 2021, tỉ lệ giải ngân khá, đạt 86,7%, hoàn thành 246/288 dự án triển khai trong kế hoạch trung hạn 2016-2020.

Ngoài ra, toàn ngành đã thực hiện hiệu quả 3 đột phá chiến lược, trong đó chú trọng hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực NN&PTNT. Năm 2021, đã hoàn thành rà soát 443 văn bản, đề xuất sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thay thế 96 văn bản; kịp thời tháo gỡ ngay các khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, người dân đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn do tác động của dịch bệnh COVID-19. 

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả

Năm 2022 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ngành nông nghiệp; là năm tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025. Toàn ngành sẽ tập trung thực hiện quyết liệt cơ cấu lại theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới nhằm hướng tới xây dựng nền “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”.

Bộ NN&PTNT cho biết để đạt được những mục tiêu đề ra trong năm 2022, toàn ngành tập trung triển khai thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm là: Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.

Theo đó, tập trung t

riển khai thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và các chiến lược trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, thủy lợi giai đoạn 2021-2030; Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025 và 4 quy hoạch ngành cấp quốc gia lĩnh vực nông nghiệp giai đoạn 2021-2030. 

Thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn theo theo chuỗi giá trị, đáp ứng nhu cầu thị trường, ứng dụng công nghệ cao, gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

Chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, thủy sản phù hợp, thích ứng với biến đổi khí hậu và nhu cầu thị trường trên cơ sở bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống. Giải quyết dứt điểm việc gỡ “thẻ vàng” của EC trong khai thác hải sản.

Triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hoá, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững.

Cùng với đó, phát triển kết cấu hạ tầng; tăng cường quản lý tài nguyên, kiểm soát chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng rừng, bảo vệ tốt và nâng cao chất lượng rừng tự nhiên hiện có; đẩy mạnh thực hiện Đề án “Trồng 1 tỷ cây xanh giai đoạn 2021-2025”. Chú trọng phát triển thủy lợi và nâng cao năng lực phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; thúc đẩy ứng dụng khoa học-công nghệ, chuyển đổi nông nghiệp số... Xây dựng chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp giảm phát thải, sản xuất nguyên liệu đầu vào các ngành hàng nông nghiệp.

Tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính quản lý ngành nông nghiệp và tổ chức sự nghiệp công lập từ Trung ương tới địa phương tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Làm tốt công tác thông tin, truyền thông, tạo đồng thuận xã hội.

Đỗ Hương


Nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với kinh tế, xã hội của Việt Nam. Nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp. Khí hậu nhiệt đới, đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào và đa dạng sinh học phong phú là những điều kiện quan trọng để sau 40 năm “Đổi mới”  thực hiện cải cách kinh tế, ngành nông nghiệp Việt Nam đã phát triển theo hướng thương mại đa dạng, đáp ứng nhu cầu trong nước và thế giới.1 Hiện nay, Chính phủ đang đẩy mạnh chương trình tái cơ cấu toàn diện ngành nông nghiệp trong bối cảnh nông nghiệp Viêt Nam đang đứng trước ngã rẽ của cả cơ hội và thách thức.2

Thu hái quả thanh long. Ảnh do Lucas Jans chụp. Được cấp phép theo CC BY-SA 2.0

Về kinh tế, GDP nông nghiệp chiếm khoảng 13,96% tổng GDP năm 2019.3 Tuy nhiên, con số này phản ánh mức giảm đều từ 38,06% năm 1986,4 cho thấy sự chuyển đổi sâu sắc của nền kinh tế Việt Nam. Trong giai đoạn 2001 – 2013, tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp là 3,57%/năm, cao hơn và ít biến động hơn so với các nước châu Á khác.5 Từ một đất nước bị nạn đói đe dọa, Việt Nam hiện đứng thứ 2 ở Đông Nam Á và thứ 15 trên toàn cầu về xuất khẩu nông sản.6 Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng vọt từ 4,2 tỷ đô la Mỹ năm 20047 lên 41,3 tỷ đô la Mỹ năm 2019, chiếm 15,68% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia.8 Các nông sản xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam là gạo, cà phê, hạt tiêu, chè, hạt điều, cao su, sắn, thủy sản, và đồ nội thất.9 Thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc, Châu Âu, Mỹ, ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc.10

Biểu 1: Đóng góp vào GDP theo từng ngành kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1986-2019 [%]. Nguồn: Tổng Cục thống kê Việt Nam

Biểu 2: Tăng trưởng Nông nghiệp của Việt Nam và các nước láng giềng [%]. Nguồn: World Development Indicators. 

Về mặt xã hội, ngành nông nghiệp giúp đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, 11 cung cấp đủ lương thực cho dân số 96,48 triệu người,12 thông qua gạo – lương thực chính của Việt Nam. 13 Sự sẵn có về thực phẩm bình quân tính theo đầu người14 của Việt Nam ở mức cao trong số các nước thu nhập trung bình.15 

Biểu 3: Cân bằng cung cầu gạo quốc gia của Việt Nam giai đoạn 1986-2010 [triệu tấn]. Nguồn: Ngân hàng thế giới. 

Biểu 4: Mức cung thực phẩm hàng ngày ở một số nước châu Á, 1961-2009 và 2009 – 2030 [dự báo]. Đơn vị: Kcal/người/ngày. Ước tính theo hàm logarit. Nguồn: Ngân hàng thế giới

Theo lịch sử từ xưa đến nay, ngành nông nghiệp luôn là ngành sử dụng lao động nhiều nhất, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm 65% lực lượng lao động theo thống kê năm 2000. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, con số này đã giảm đáng kể, xuống còn 47,4% vào năm 2012 và 39,4% vào năm 2019.16 Gần 50% các hộ gia đình làm nông nghiệp ở nông thôn năm 2016 cho biết nguồn thu nhập chính của họ vẫn từ nông nghiệp, mặc dù tỉ lệ này giảm từ 68% năm 2006.17 Chuyển đổi nông nghiệp đã góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, thông qua tăng thu nhập từ các hoạt động phi trồng trọt, đặc biệt ở các nhóm dân tộc thiểu số.18

Ngành nông nghiệp cũng là ngành chiếm tỷ lệ lớn trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên, như đất, nước, rừng và các nguyên liệu thô khác, phần lớn đã được phân bổ lại cho phát triển công nghiệp và đô thị.

Biểu 5: Đóng góp của Nông nghiệp trong thu nhập của hộ gia đình nông thôn, phân theo dân tộc và vùng [%]. Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam

Cánh đồng rau. Ảnh do Dennis Jarvis chụp. Được cấp phép theo CC BY-SA 2.0

Có thể nói, ngành nông nghiệp đã góp phần ổn định chính trị – xã hội, công nghiệp hóa và hiện đại hóa Việt Nam trong 40 năm qua, đặc biệt đóng vai trò “lưới bảo vệ” cho toàn bộ nền kinh tế trong thời kỳ khủng hoảng.19 Ngành nông nghiệp tiếp tục thực hiện chức năng này trong đại dịch COVID-19 năm 2020, thông qua việc phân phối lương thực cho người nghèo và người thất nghiệp,20 ổn định giá tiêu dùng, mang lại việc làm thay thế và tạo doanh thu xuất khẩu.21 Dự báo của ADB chỉ ra rằng kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh nhất ở châu Á cho dù chịu tác động của COVID-19.22 Tuy nhiên, nhóm người dễ bị tổn thương nhất, đặc biệt là người di cư, phụ nữ và người lao động tự do,23 cũng như người dân tộc thiểu số sống ở khu vực nông thôn sẽ là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch này. Chính phủ đã tung ra gói cứu trợ COVID-19 dành cho các nhóm dễ bị tổn thương,24 nhưng chỉ áp dụng được cho những đối tượng yếu thế được Chính phủ công nhận.

Người nông dân đang tưới cây. Ảnh được cấp phép theo Creative Commons CC0.

Tăng trưởng trong ngành nông nghiệp cho đến nay vẫn gắn liền với chiến lược thúc đẩy tăng trưởng thông qua mở rộng diện tích, tăng số lượng cây trồng, khai thác tài nguyên thiên nhiên [đất, nước, rừng] và phụ thuộc nhiều vào lao động và các yếu tố hóa học trong sản xuất [phân bón và thuốc trừ sâu] mà không quan tâm nhiều đến tính bền vững.25

Biểu 6: Lượng tiêu thụ NPK trên héc ta đất canh tác tại một số nước Châu Á [kg]. Nguồn: World Development Indicators. 

Kết quả là tăng trưởng đang chậm lại, dựa trên số lượng hơn là chất lượng và giá trị gia tăng.26 Tăng trưởng GDP nông nghiệp giảm từ 4,17% năm 2002 xuống 4,01% năm 2011; còn 2,72% vào năm 2012 và 2,67% vào năm 2013.[1]27 Tỷ lệ nghèo không còn giảm đáng kể như trước, đây là một xu hướng mới sau nhiều năm có tỉ lệ nghèo trung bình giảm 2% hàng năm.

Ở thời điểm hiện tại, khó có thể thấy rõ sự cải thiện về lợi ích từ công cuộc giảm nghèo, những lợi ích hiện có chủ yếu đến tay người Kinh và những người ở khu vực thành thị và đồng bằng. Bất bình đẳng giữa các vùng miền đã và đang gia tăng; nghèo đói ngày càng tập trung ở các cộng đồng dân tộc thiểu số và người không có đất.28 Ngoài ra, thành tựu kinh tế đi kèm với thiệt hại về môi trường, như phá rừng, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và mất đa dạng sinh học, suy thoái đất và ô nhiễm nước.29 Những hậu quả này là thách thức nghiêm trọng đối với Việt Nam trên con đường đạt được Mục tiêu phát triển bền vững [SDGs] vào năm 2030. 30

Biểu 7: Điểm nóng môi tường nông nghiệp Việt Nam. Nguồn: Ngân hàng thế giới. 

Ngành nông nghiệp hiện đang đối mặt với những cơ hội và thách thức mới. Trong khi hội nhập quốc tế và xu hướng tiêu dùng thay đổi đã mở ra thị trường trong nước, khu vực và quốc tế, ngày càng có nhiều lo ngại vấn đề đạo đức trong sản xuất thực phẩm,31 an toàn và nguồn gốc thực phẩm.32 Tuy nhiên, vẫn có động lực tiếp tục đẩy mạnh phát triển ngành nông nghiệp hàng hóa và đổi mới công nghệ được coi là phương tiện hiệu quả nhất để khắc phục những hạn chế về tài nguyên thiên nhiên, tăng chi phí lao động và đầu tư vốn thấp.33 Biến đổi khí hậu và những hệ lụy từ môi trường vẫn đang là một thách thức, do các tác động bất lợi đến sản xuất, đòi hỏi phải có các điều chỉnh và thích ứng phù hợp.34 Nhận thức rõ về tình hình này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn [Bộ NN & PTNT] đã tích hợp nội dung giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu vào tất cả các kế hoạch và chiến lược của mình, bao gồm Khung chương trình thích ứng với biến đổi khí hậu trong giai đoạn 2008-2020, Kế hoạch hành động về biến đổi khí hậu cho phát triển nông nghiệp và nông thôn giai đoạn 2016-2020, Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh cho nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020 và gần đây nhất là Kế hoạch hành động thực hiện Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu trong giai đoạn 2021-2030 của Bộ NN & PTNT. 

Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện Chương trình Tái cơ cấu ngành nông nghiệp năm 2013,35 và kế hoạch cập nhật 2017,36 nhằm thúc đẩy phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Chương trình Tái cơ cấu ngành nông nghiệp đẩy mạnh chuyển đổi từ sản xuất theo định hướng số lượng sang kinh doanh nông nghiệp trên cơ sở nhu cầu thị trường và nâng cao giá trị gia tăng với chi phí môi trường thấp. Nói cách khác, chương trình này có mục tiêu giúp ngành nông nghiệp “tăng giá trị, giảm đầu vào”,37 tức là đạt được giá trị kinh tế với ít nguồn lực hơn [tài nguyên, nhân công]. Để làm được điều này sẽ cần phải sử dụng đất và nước hiệu quả cao hơn, chuyển đổi sang thực hành nông nghiệp dựa trên kiến ​​thức và kỹ năng nhiều hơn, tận dụng tốt hơn lợi thế kinh tế theo quy mô và phạm vi trong chuỗi giá trị, và thay đổi cơ bản về chức năng và hiệu quả hoạt động của chính phủ. Sự chuyển đổi này cần những cải cách kinh tế trên quy mô lớn hơn, bao gồm những thay đổi trong chính sách vĩ mô và chính sách ngành [ví dụ về sử dụng đất] và thay đổi trong các thể chế [ví dụ như hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng và các tổ chức liên quan đến khoa học và công nghệ], sự phối hợp của các bên liên quan cùng với sự phân cấp phân quyền và điều phối của Chính phủ.38 

Video liên quan

Chủ Đề