Nghị định hướng dẫn luật viên chức 58 2010 qh12

Show

Ngày 25/11/2019, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức (Luật số 52/2019/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020),

Theo đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Viên chức số 58/2010/QH12 với những điểm mới, cụ thể như sau:

1. Sửa đổi chế độ “viên chức suốt đời” từ 01/7/2020

Luật sửa đổi lần này chính là chính thức bỏ “chế độ biên chế suốt đời” với các đối tượng được tuyển dụng mới từ ngày 01/7/2020.

- Theo quy định Luật Viên chức số 58/2010/QH12 thì khi trúng tuyển viên chức, người trúng tuyển sẽ được ký kết hai loại hợp đồng làm việc:

+ Hợp đồng làm việc có thời hạn: Hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong thời gian từ 12 - 36 tháng trừ trường hợp cán bộ, công chức chuyển sang làm viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập…

+ Hợp đồng làm việc không có thời hạn: Hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng, áp dụng với người đã thực hiện xong hợp đồng làm việc xác định thời hạn và cán bộ, công chức chuyển thành viên chức…

- Kể từ ngày Luật sửa đổi có hiệu lực, những viên chức mới trúng tuyển sẽ phải ký hợp đồng làm việc xác định thời hạn với khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 60 tháng. Đối với hợp đồng không xác định thời hạn căn cứ khoản 2, Điều 2 sửa đổi, bổ sung Điều 25 Luật Viên chức hiện hành chỉ còn được áp dụng đối với 03 trường hợp sau:

+ Viên chức được tuyển dụng trước ngày 01/7/2020 nếu đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định;

+ Cán bộ, công chức chuyển thành viên chức;

+ Người được tuyển dụng viên chức làm việc tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

1.2 Tại khoản 10 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung Luật Viên chức năm 2019 đã bổ sung thêm quy định về hướng giải quyết với những viên chức được tuyển dụng trước ngày 01/7/2020 nhưng chưa ký hợp đồng làm việc không xác định thời hạn.

" Theo đó, những đối tượng này sẽ được tiếp tục thực hiện hợp đồng đã ký kết. Sau khi hết thời hạn của hợp đồng làm việc đã ký kết thì được ký hợp đồng không xác định thời hạn nếu đáp ứng đầy đủ yêu cầu theo quy định.

Như vậy, những đối tượng được tuyển dụng trước 01/7/2020 nếu đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện thì vẫn được ký hợp đồng làm việc không xác định thời hạn hay thường gọi là "biên chế suốt đời".

" Với những người được tuyển dụng mới từ 01/7/2020, sau khi hợp đồng xác định thời hạn hết hạn, nếu đơn vị sự nghiệp công lập vẫn còn nhu cầu sử dụng viên chức sẽ phải ký tiếp hợp đồng xác định thời hạn mà không được chuyển sang hợp đồng không xác định thời hạn như hiện nay.

2. Về kéo dài thời hạn hợp đồng làm việc của viên chức lên 60 tháng

- Tại khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung lần này thời hạn thực hiện hợp đồng sẽ bị kéo dài từ 36 tháng như quy định hiện nay lên đến 60 tháng.

Với quy định trên, đây là loại hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng, áp dụng với những người mới trúng tuyển viên chức. Theo quy định của Luật Viên chức số 58/2010/QH12, thời hạn thực hiện hợp đồng làm việc là từ 12 tháng đến 36 tháng thì theo quy định mới kể từ ngày 01/7/2020, hợp đồng này sẽ có thời hạn từ đủ 12 tháng đến 60 tháng.

- Việc kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng làm việc tạo nhiều thuận lợi cho viên chức trong việc làm quen với công việc của vị trí được tuyển dụng. Trong trường hợp từ chối đơn vị sự nghiệp công lập phải có văn bản nêu rõ lý do vì sao bị chấm dứt.

3. Về đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc

- Tại Điều 29 Luật Viên chức số 58/2010/QH12 quy định có 05 trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức:

+ Có 02 năm liên tiếp bị đánh giá ở mức không hoàn thành nhiệm vụ;

+Bị buộc thôi việc;

+ Bị ốm đau đã điều trị 12 tháng liên tục (làm việc theo hợp đồng làm việc không xác định thời hạn); Bị ốm đau đã điều trị 06 tháng liên tục mà khả năng làm việc chưa hồi phục (làm việc theo hợp đồng làm việc xác định thời hạn);

+ Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng buộc đơn vị sự nghiệp công lập phải thu hẹp quy mô, khiến vị trí việc làm của viên chức không còn;

+ Đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt động theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

- Luật viên chức sửa đổi 2019 đã bổ sung thêm một trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức, là: "Viên chức không đạt yêu cầu sau thời gian tập sự".

Theo đó, khi được tuyển dụng, viên chức sẽ có thời gian tập sự để làm quen với vị trí việc làm được tuyển dụng trong thời gian từ 03 tháng - 12 tháng và nếu sau thời gian này, viên chức không đạt yêu cầu thì đơn vị sự nghiệp có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng.

" Như vậy, từ 1/7/2020 sẽ có 6 trường hợp viên chức bị cắt hợp đồng làm việc.

4. Quy định giải quyết trường hợp khi hợp đồng làm việc xác định thời hạn hết hạn

- Theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Viên chức số 58/2010/QH12, trước khi hết hạn hợp đồng 60 ngày, người đứng đầu đơn vị đơn vị sự nghiệp căn cứ vào nhu cầu, đánh giá khả năng hoàn thành nhiệm vụ của viên chức mà quyết định ký tiếp hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc với đối tượng này.

- Tuy nhiên, quy định này chưa nêu cụ thể cách xử lý với từng trường hợp. Do đó, để khắc phục, Luật sửa đổi đã bổ sung quy định:

+ Nếu đơn vị sự nghiệp công lập còn nhu cầu, viên chức đáp ứng đầy đủ điều kiện thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập phải ký tiếp hợp đồng làm việc;

+ Nếu không ký tiếp thì phải nêu rõ lý do bằng văn bản.

5. Về thời hiệu và thời hạn xử lý kỷ luật

5.1 viên chức vẫn được xem xét nghỉ hưu khi đang trong thời hạn xử lý kỷ luật, đang bị điều tra, truy tố, xét xử và có thể sẽ được xem xét bổ nhiệm lại hoặc bố trí vào vị trí thấp hơn nếu bị kỷ luật.

Theo quy định tại Điều 56 Luật Viên chức 2010, về việc viên chức bị kỷ luật từ khiển trách đến cách chức thì không thực hiện việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực. Và trong thời hạn xử lý kỷ luật, đang bị điều tra, truy tố, xét xử thì không được giải quyết nghỉ hưu.

Tuy nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung 2019 đã nới lỏng hơn về điều này. Cụ thể:

Theo Khoản 8 Điều 2 Luật này sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 56 Luật viên chức 2010, viên chức đang trong thời hạn xử lý kỷ luật, đang bị điều tra, truy tố, xét xử thì không được bổ nhiệm, biệt phái, đào tạo, bồi dưỡng hoặc thôi việc. Điều này đồng nghĩa với việc vẫn sẽ giải quyết chế độ nghỉ hưu cho viên chức đang trong thời hạn xử lý kỷ luật.

5.2. Thay đổi về trường hợp áp dụng thời hiệu xử lý kỷ luật, thời hạn xử lý kỷ luật

- Thời hiệu xử lý kỷ luật là thời hạn mà khi hết thời hạn đó viên chức có hành vi vi phạm không bị xem xét xử lý kỷ luật. Theo đó, việc xử lý kỷ luật viên chức sắp tới sẽ được quy định cụ thể theo mức độ vi phạm kể từ thời điểm có hành vi vi phạm như hiện nay:

+ 02 năm đối với hành vi vi phạm ít nghiêm trọng đến mức phải kỷ luật bằng hình thức khiển trách;

+ 05 năm đối với hành vi vi phạm không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này.

- Đối với hành vi vi phạm đặc biệt nghiêm trọng mà không thuộc các trường hợp không áp dụng thời hiệu gồm:

+ Viên chức là đảng viên có hành vi vi phạm đến mức phải kỷ luật bằng hình thức khai trừ;

+ Có hành vi vi phạm quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ;

+ Có hành vi xâm hại đến lợi ích quốc gia trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại;

+ Sử dụng văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận, xác nhận giả hoặc không hợp pháp.

- Thời hạn xử lý kỷ luật đối với viên chức là khoảng thời gian từ khi phát hiện hành vi vi phạm của viên chức đến khi có quyết định xử lý kỷ luật của cấp có thẩm quyền.

+ Thời hạn xử lý kỷ luật theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung kéo dài thêm 30 ngày, theo quy định tại khoản 3 Điều 53: Thời hạn xử lý kỷ luật không quá không quá 90 ngày (quy định Luật Viên chức số 58/2010/QH12 là 02 tháng); trường hợp vụ việc có tình tiết phức tạp cần có thời gian thanh tra, kiểm tra để xác minh làm rõ thêm thì thời hạn xử lý kỷ luật có thể kéo dài nhưng không quá 150 ngày (quy định Luật Viên chức số 58/2010/QH12 là 04 tháng).

6. Về nội dung đánh giá viên chức

Nội dung đánh giá viên chức cũng được sửa đổi, bổ sung trong Luật Viên chức:

Tại Điều 41 của Luật Viên chức số 58/2010/QH12 nêu rõ, việc đánh giá viên chức chỉ được xem xét ở kết quả thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký kết; thái độ phục vụ nhân dân… thì Luật viên chức sửa đổi 2019 đã được quy định rõ: Việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phải gắn vớivị trí việc làm, thể hiện thông qua công việc, sản phẩm cụ thể. Đồng thời, mỗi ngành nghề lại có đặc thù riêng nên sẽ áp dụng một tiêu chuẩn với nội dung khác nhau khi đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ.

Do đó, với quy định mới này, việc đánh giá viên chức sẽ dựa vào kết quả thực hiện nhiệm vụ gắn với vị trí việc làm và thể hiện thông qua công việc, sản phẩm cụ thể, tạo sự thuận lợi, công bằng hơn trong thực hiện nhiệm vụ đánh giá, phân loại