Nghiên cứu đánh giá điều trị liệt 7 năm 2024

- Mã số: 099039 - Tên đề tài: Nhận xét điều trị liệt dây VII ngoại biên băng kích thích điện một chiều qua điện cực nhỏ đặt trên da vùng huyệt - Cấp quản lý: Sở Y tế HT - Lĩnh vực: y tế - Đơn vị chủ trì: Bệnh viện Đa khoa tỉnh - Thời gian thực hiện: từ 8/2012 đến 8/2014 - Mục tiêu: 1. Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng liệt dây VII NB của nhóm nghiên cứu. 2. Đánh giá kết quả phương pháp kích điện qua điện cực nhỏ đặt trên da vùng huyệt và một số yếu tố tiên lượng tiến triển phục hồi bệnh.

Nguyễn Tuấn Anh, Phạm Hữu Hiếu và cộng sự

Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh

TÓM TẮT ĐỀ TÀI

Theo dõi, điều trị 69 bệnh nhân [BN] liệt dây VII ngoại biên [NB] do lạnh, bằng kích điện một chiều qua điện cực nhỏ đặt trên da vùng huyệt ở hai đối tượng trẻ em và bệnh nhân tiểu đường. Nhận thấy: tuổi nhỏ nhất 21 tháng cao nhất 79 tuổi, tỷ lệ Nam/Nữ là 2,45. Bệnh xuất hiện từ 0 đến 12 giờ 81,15%. Dấu hiệu mắt nhắm không kín 82,6%, miệng méo 100%, nhân trung lệch 100%, Charles- Bell 82,6%, Souques 17,4%.

Nhóm có khe hở mi ≤5 mm tiến triển tốt hơn nhóm >5mm. Nhóm có gócα >15°, hồi phục chậm hơn nhóm có góc α≤ 15°. Một số yếu tố độc lập có giá trị tiên lượng điều trị ở nhóm nghiên cứu: Charles- Bell, độ hở khe mi, gócα. Khi phân tích hồi quy Logisstic đa biến thấy: Hồi phục của bệnh = [-1.845] + [-0.043] X [gócα] + [0.461] X [khe hở mi].

Quan hệ giữa tiến triển bệnh và kích thước khe hở mi là quan hệ thuận chiều [tùy kích thước khe hở mi nhiều, nhưng khả năng hồi phục bệnh không chậm đi]. Ngược lại, quan hệ giữa gócα và tiến triển bệnh là quan hệ nghịch chiều [góc α càng cao thì tiến triển của bệnh chậm lại].

ĐẶT VẤN ĐỀ

Liệt dây thần kinh VII NB, là tổn thương từ nhân dây VII ra ngoài, được gọi liệt Bell YHCT gọi là Khẩu nhãn oa tà [1]. Bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau, khá phổ biến trong lâm sàng chung cũng như trong chuyên nghành YHCT. Theo Hồ Hữu Lương và cộng sự 2003 chiếm 2,95% bệnh thần kinh [7]. Khoảng 23/100.000 người/năm [11]. Thời La mã 600, Paulus Acginata là người đầu tiên khâu sụn mi điều trị liệt bell. Năm 1852, Charles Bell hiệu đính lại các điểm cơ bản của liệt bell. 1853 Berna nhấn mạnh nhiễm lạnh, có sự rối loạn của tuần hoàn mạch nuôi dây VII trong cống Fallope. Còn Lei Bowitz nhận thấy lạnh là yếu tố thuận lợi cho Virus vùng tai mũi họng phát triển. Nước ta cũng đã có một số nghiên cứu về lâm sàng, điều trị châm cứu, bấm huyệt… Trong những năm qua. Liệt dây VII NB do lạnh ở các đối tượng là trẻ nhỏ, Bệnh tiểu đường. Nên dùng kim châm cứu gặp nhiều trở ngại như: Trẻ sợ kim châm, nhiễm trùng lỗ kim khi BN chưa kiểm soát được đường huyết. Với đặc điểm trên chúng tôi đã tìm hiểu và quyết định nghiên cứu đề tài: “Nhận xét điều trị liệt dây VII ngoại biên do lạnh bằng kích thích điện một chiều qua điện cực nhỏ đặt trên da vùng huyệt” với hai mục tiêu:

  1. Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng liệt dây VII NB của nhóm nghiên cứu.
  2. Đánh giá kết quả phương pháp kích điện qua điện cực nhỏ đặt trên da vùng huyệt và một số yếu tố tiên lượng tiến triển phục hồi bệnh.

CHƯƠNG I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1. Đối tượng nghiên cứu

1.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân

Gồm 69 bệnh nhân liệt dây VII ngoại biên do lạnh. Trong đó nhóm bệnh Tiểu đường 48BN [69,7%], trẻ em 21[BN]. Tuổi từ 21 tháng đến 79 tuổi. Điều trị nội trú tại khoa YHCT từ tháng 8/2012 đến tháng 8/2014. Vào viện trong 3 ngày đầu kể từ ngày khởi phát bệnh .

1.1.2. Ti êu chuẩn loại trừ

Không đưa vào nghiên cứu những trường hợp: có kèm theo liêt dây VI, dây VIII. Có liệt nửa người đi kèm. Zona. Chấn thương vùng xương đá. Viêm tai xương chũm.

1.2. Phương pháp nghiên cứu

1.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng so sánh trước sau điều trị

1.2.2. Dấu hiệu cần thu tập

Tuổi, giới, lâm sàng ở trạng thái tĩnh, ở trạng thái động, khe hở mi ≤5mm và >5mm. Góc α ≤ 150, góc α >150 [10]. Đánh giá kết quả điều trị 20 ngày và 30 ngày theo tiến triển tốt [khe hở mi hết, góc α=0] và chậm [mắt nhắm kín, rãnh mũi má hết, góc α

Chủ Đề