Nguyên nhân đuối nước và cách phòng tránh

Theo định nghĩa của WHO, đuối nước là hiện tượng khí quản của người lớn hay trẻ nhỏ bị một chất lỏng [thường là nước] xâm nhập vào dẫn tới khó thở. Hậu quả của ngạt thở lâu có thể là tử vong [chết đuối] hoặc không tử vong, nhưng gây tổn hại nghiêm trọng []

Theo định nghĩa của WHO, đuối nước là hiện tượng khí quản của người lớn hay trẻ nhỏ bị một chất lỏng [thường là nước] xâm nhập vào dẫn tới khó thở. Hậu quả của ngạt thở lâu có thể là tử vong [chết đuối] hoặc không tử vong, nhưng gây tổn hại nghiêm trọng cho hệ thần kinh.
Trên thực tế đã có nhiều trẻ nhỏ bị chết đuối ngay ở nhà, trong xô chậu rửa bát, chum vại đựng nước, bể cá cảnh, bồn cầu, bồn tắm, vũng nước nông không bơi được. Những tai nạn đuối nước kiểu này không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn đã xảy ra khắp mọi nơi trên thế giới.
Như vậy, bất kỳ một mặt nước hở nào cũng có thể là mối nguy với trẻ nhỏ khi nước có thể xâm nhập vào khí quản làm ngạt thở dẫn tới đuối nước, tử vong. Mặt nước hở nguy hiểm có ở mọi nơi, trong nhà, ngoài ngõ. Chúng có thể đơn giản chỉ là xô chứa nước bỏ giữa nhà, chum vại đựng nước không đậy nắp, vũng nước đầu hè sau cơn mưa hoặc có thể là sông ngòi hồ ao, biển cả
Để phòng tránh đuối nước ở trẻ nhỏ vào mùa hè, các bậc cha mẹ, thầy cô cần có những biện pháp:
1. Cần đảm bảo sức khỏe con em mình có thể tham gia hoạt động bơi lội hay không? Nhiều bậc phụ huynh không biết rằng, không phải trẻ em nào cũng có thể học bơi. Ví dụ như những em nhỏ mắc các bệnh hen phế quản; bệnh đường hô hấp mạn tính: Viêm mũi dị ứng, viêm mũi xuất tiết, viêm xoang mạn; viêm da dị ứngkhông nên xuống nước vì có thể làm bệnh nghiêm trọng hơn, dẫn tới những tai nạn không mong muốn khi bơi. Để đảm bảo sức khỏe cho trẻ khi đi bơi phụ huynh cần lưu ý nên cho trẻ đi khám bác sĩ để quyết định trẻ có thể tham gia bơi lội không.
2. Bên cạnh đó, để phòng đuối nước cho trẻ, việc đầu tiên và quan trọng nhất đó là dạy cho trẻ biết bơi. Các bậc cha mẹ cần trang bị kỹ năng đảm bảo an toàn, xử lý tình huống khi bơi cho các em nhỏ như: cần phải khởi động kỹ trước khi xuống nước, xử lý sao khi bị chuột rút, gặp vùng nước xoáy, cách sơ cứu khi gặp người bị đuối nước phù hợp với lứa tuổiTuy nhiên, hiện nay việc dạy bơi cho trẻ chỉ dừng lại ở mức độ tự phát, tình trạng thiếu bể bơi, thiếu kỹ thuật bơi căn bản cũng là yếu tố ảnh hưởng tới việc dạy trẻ kỹ năng này.Vì vậy, một giải pháp đó là các nhà trường có thể dạy kỹ năng bơi cho trẻ tại trường học như một chương trình bắt buộc.
Dạy bơi cho trẻ sớm là một trong những biện pháp phòng chống đuối nước cần thiết.
3. Cần cảnh báo trẻ về những nơi tiềm ẩn nguy cơ đuối nước như sông, suối, ao, hồ, những vùng nước sâu.
4. Đối với các bể bơi, cần lưu ý các em chỉ bơi ở những nơi có người và phương tiện cứu hộ và đặc biệt phải tuân thủ các quy định của bể bơi, khu vực bơi. Khi trẻ đi bơi cần phải luôn bên cạnh, trông chừng và theo dõi trẻ, tránh trường hợp đáng tiếc xảy ra. Cần đảm bảo trẻ luôn mang theo phao khi đi bơi và đi tàu thuyền.
Không nên cho trẻ bơi ở những nơi có biển báo nguy hiểm.
5. Khi đi tắm biển hay sông, người biết bơi hay không cũng chỉ nên tắm gần bờ, đặc biệt là ở biển, vì dù biết bơi cũng rất khó để bơi do sóng biển đánh liên tục. Nhiều người thường nằm trên phao khi tắm biển. Điều này cũng khá nguy hiểm vì bạn sẽ dễ bị cuốn ra xa mà không biết, nhiều khả năng bạn sẽ bị sóng đánh úp, những cơn sóng dồn dập khiến bạn không biết xử lý như thế nào và sẽ bị uống nước nhiều, mất sức.
6. Ở nhà có trẻ nhỏ tốt nhất không nên để những lu nước, thùng nước, nếu bắt buộc phải có [như vùng phải tích trữ nước ngọt để dùng] nên đậy thật chặt để trẻ em không mở nắp được.
Cho trẻ đi bơi ở bể bơi có khu vực dành cho trẻ em được ngăn riêng biệt và có rào chắn.
7. Chấp hành tốt các quy định về an toàn khi tham gia các phương tiện giao thông đường thủy như mặc áo phao.
Mặc áo phao là biện pháp phòng chống đuối nước tốt nhất.
8. Tạo hành lang pháp lý phù hợp: cần chỉ rõ đầu mối chịu tránh nhiệm mỗi khi có tai nạn xảy ra từ đó có các chế tài hợp lý.
Hãy luôn trông chừng trẻ khi cho trẻ đi bơi hoặc đến những nơi gần vùng
thấy người bị ngã xuống nước, cần hô nước nguy hiểm.
9. Khi phát hiện hoán, kêu gọi mọi người đến ứng cứu, giúp đỡ ngay từ khi nhìn thấy nạn nhân. Đồng thời, cần nhanh chóng tìm bất kỳ vật dụng nào để có thể cứu gián tiếp như: cây sào, phao, áo, quần, dây nịt hãy cho những người bị đuối nước bám vào các vật dụng này để người trên bờ kéo dần vào. Như vậy, việc cứu nạn sẽ hiệu quả hơn. Tuyệt đối không được nhảy theo cứu nạn nhân nếu mình không biết bơi và không biết cách cứu đuối vì bản thân mình cũng có thể bị đuối nước.
Khi phát hiện người đuối nước cần bình tĩnh xử lý tránh những tai nạn đáng tiếc xảy ra.
10. Sau khi đưa người bị đuối nước vào bờ, lập tức kiểm tra đường thở, nếu trong miệng, mũi, có dị vật cần móc ra ngay, rồi nghiêng người nạn nhân để cho lưu dịch thoát khỏi đường thở. Nếu nạn nhân ngừng thở, ngừng tim, cần hồi sức tim, phổi bằng cách: đặt nạn nhân nằm ngửa, hồi sức hô hấp bằng cách lấy tay bịt mũi nạn nhân, hít một hơi thật sâu rồi ngậm kín miệng nạn nhân thổi một hơi dài rồi buông ra. Tiếp tục làm thêm hai lần như vậy. Sau đó tiến hành ép tim lồng ngực bằng cách đan hai tay vào nhau, đặt lên vị trí 1/3 xương ức về phía ngực trái và ép liên tục khoảng 30 lần. Luân phiên hai lần hồi sức hô hấp 30 lần ép tim như vậy cho đến khi có nhân viên y tế hoặc người đưa đi cấp cứu ở các cơ sở y tế.

Ông Jum Nakagawa, Phó Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam tin tưởng, vấn đề tử vong do đuối nước ở Việt Nam hoàn toàn có thể phòng tránh được

Box: WHO và UNICEF khuyến nghị, [1] mỗi quốc gia phải thiết lập một chương trình nghị sự nhằm giải quyết vấn đề đuối nước, mà các mục tiêu phải phù hợp với tình hình địa phương. Do tỷ lệ tử vong đuối nước cao, mối quan tâm hàng đầu cần phải hướng vào các chiến lược phòng chống ban đầu. [2] Phải thiết lập sự cộng tác giữa các Chính phủ, các cộng đồng, ngành công nghiệp, các khối tư nhân và các cơ quan y tế công cộng để giải quyết vấn đề đuối nước. Trong khi các chiến lược nhằm phòng ngừa đuối nước và điều trị trẻ em và vị thành niên giữa các quốc gia và các khu vực rất khác nhau, thì những nỗ lực hợp tác ở các cấp bao gồm cả cấp toàn cầu là hết sức cần thiết. [3] Để các quốc gia có thể so sánh số liệu và chia sẻ kinh nghiệm và chiến lược can thiệp một cách có hiệu quả hơn, cần tiến hành những việc làm sau: Thu thập các số liệu dịch tễ học nhất quán; sử dụng các định nghĩa chuẩn; sử dụng các kế hoạch mã hóa. [4] Khẩn cấp kêu gọi nghiên cứu sâu hơn để đánh giá các yếu tố bảo vệ, sử dụng thử nghiệm can thiệp lớn, kiểm tra ảnh hưởng của các biện pháp như dạy bơi và các kỹ năng sinh tồn. [5] Thiết kế và đánh giá can thiệp trong các hoàn cảnh cụ thể phải được tiến hành liên tục. [6] Những can thiệp đã được kiểm chứng phải được thực hiện địa điểm được chứng minh thích hợp. Các can thiệp này bao gồm: Loại trừ các hiểm họa về nước; tạo ra hàng rào chắn giữa trẻ em và các hiểm họa; trẻ em sử dụng các thiết bị nổi cá nhân. [7] Cấp cứu tức thì, trước khi cán bộ y tế đến, phải được tăng cường ở khắp mọi nơi. Cấp cứu như vậy gia tăng đáng kể khả năng có kết quả tốt bất kể độ tuổi, giới tính, thời gian bị chìm hoặc bị giảm thân nhiệt.

Nguyễn Trình [tổng hợp]

Video liên quan

Chủ Đề