Nhân gia chỉ vương Sanh vi tướng, tử vi thần là gì

Trước tình hình đất nước nguy biến, hình ảnh người mẹ bệnh tật đã quyên sinh để con trai có thể dứt áo lên đường đánh giặc - Ảnh: DUYÊN PHAN

Vở ngắn gọn, súc tích và chỉ dài khoảng 55-60 phút. Hoàn toàn không lời thoại, chỉ khai thác tối đa các trình thức biểu diễn đặc trưng của hát bội , phối hợp với âm nhạc, âm thanh, ánh sáng…

Sanh vi tướng, tử vi thần mở đầu với hình ảnh làng quê thanh bình, trai gái vui đùa ca hát trên cánh đồng, bờ tre. Nhưng rồi giặc ngoại xâm tràn đến, cửa nhà tan nát, gia đình ly tán, phụ nữ bị hãm hiếp, chết chóc tang thương khắp nơi.

Với tinh thần quật cường, bao người dân Việt đã đứng lên chống giặc, dù có ngã xuống, hương hồn họ lại nương theo mây gió yểm trợ cho người ở lại quyết chiến đấu với kẻ thù tới cùng để bảo vệ quê hương. Họ - chính là những tượng đài bất khuất của tấm lòng yêu quê hương, đất nước mãnh liệt.

Trích đoạn Sanh vi tướng, tử vi thần - Ảnh: DUYÊN PHAN

Vở có sự tham gia của khoảng 22 diễn viên và 7 nhạc công. Ông Hoàng Vũ - phó giám đốc nhà hát cho biết: "Vì không có lời thoại nên các trình thức biểu diễn, diễn xuất từ ánh mắt, cơ mặt, vũ đạo… phải được chăm chút và "nặng" hơn gấp đôi những vở diễn bình thường để người xem có thể hình dung những gì đang diễn ra trên sân khấu.

Âm nhạc cũng góp phần quan trọng làm tăng kịch tính cho vở diễn. Với Sanh vi tướng, tử vi thần, chúng tôi không chỉ sử dụng nhạc cổ mà kếp hợp nhạc truyền thống và đương đại để đem lại nét mới và đẩy nhanh tiết tấu của vở diễn".

Có nhiều phân đoạn gây ấn tượng bởi khả năng thể hiện của nghệ sĩ như cảnh người con chấp chới trên chiếc thúng bé xíu qua sông để giết giặc, cảnh người đàn bà yêu nước bị chặt đầu trong mông lung rừng sâu, cảnh người phụ nữ ngoan cường bị tứ mã phanh thây…

Xem mà thương bởi thấy những giọt mồ hôi tuôn rơi đầm đìa trên gương mặt nghệ sĩ bởi phải phối hợp nhịp nhàng liên tục giữa các động tác vũ đạo và diễn biến nội tâm nhân vật.

Có thể Sanh vi tướng, tử vi thần sẽ đón nhận những luồng ý kiến trái chiều. Bởi với những người ghiền hát bội từ những ngày xưa sẽ băn khoăn khi thấy vở không còn đúng chất hát bội như họ đã từng yêu, từng thấm thưở nào.

Thế nhưng nhà hát cũng có những nỗi niềm riêng, bởi giữ nguyên như hình thức cũ sẽ khó tiếp cận nhiều đối tượng khán giá, nhất là khán giả trẻ và du khách. Với thử nghiệm lần này, nhà hát mong muốn nhận được góp ý của công chúng, đặc biệt là các đơn vị du lịch để chỉnh sửa và hoàn thiện vở diễn, phục vụ công chúng tốt nhất.

Sanh vi tướng, tử vi thần - Video: DUYÊN PHAN

Ông Hoàng Vũ chia sẻ thông tin: "Nếu mọi việc thuận lợi, khoảng đầu năm 2020 chúng tôi sẽ đưa vở diễn vào kế hoạch phục vụ khách du lịch bên cạnh chương trình tổng hợp mà nhà hát đang làm định kỳ hàng tháng biểu diễn phục vụ khách du lịch tại phố đi bộ Bùi Viện.

Du khách giờ đây không chỉ muốn xem nghệ thuật hát bội mà còn muốn thưởng thức cả không gian hát bội xưa được tái hiện lại. Vì vậy, chúng tôi đang làm việc và nhắm đến có thể đưa vở đến diễn tại những địa điểm phù hợp như Lăng Ông Bà Chiểu, đền thờ Vua Hùng ở Bảo tàng Lịch sử TP.HCM…".

Sanh vi tướng, tử vi thần [tác giả: NSƯT Hữu Danh - Anh Kiệt, đạo diễn: NSND Trần Ngọc Giàu] được nhà hát dàn dựng bản 120 phút vào khoảng năm 2007.

Sau đó, nhà hát đã kết nối các công ty du lịch để giới thiệu đến khán giả nhưng mọi việc không thuận lợi. Vở diễn được "cất lại" và đến nay sau 12 năm, một lần nữa vở được ê kíp tính toán và trình làng với khán giả trong một diện mạo mới.

Sau đêm ra mắt ngày 20-9, Sanh vi tướng, tử vi thần bản 2019 sẽ còn diễn thêm hai suất, lúc 19h30 ngày 29-9 và 4-10 tại nhà hát cải lương Trần Hữu Trang. Trước giờ diễn, người xem sẽ được ngắm hình ảnh, trang phục, đạo cụ… của bộ môn hát bội được trưng bày trước sảnh nhà hát; xem các diễn viên hóa trang, vẽ mặt theo đặc trưng của nghệ thuật hát bội;…

Một số hình ảnh, trích đoạn của vở diễn:

Biểu cảm ánh mắt, gương mặt của các diễn viên trẻ để lại ấn tượng mạnh cho khán giả - Ảnh: DUYÊN PHAN

Không lời, chỉ cần xem hành động trình diễn là có thể cảm được câu chuyện - Ảnh: DUYÊN PHAN

Một cảnh cảm động trong vở hát bội Sanh vi tướng, tử vi thần - Ảnh: DUYÊN PHAN

Nhà hát Nghệ thuật hát bội TPHCM tái dựng vở hát bội thể nghiệm Sanh vi tướng, tử vi thần - Ảnh: DUYÊN PHAN

Sanh vi tướng, tử vi thần là tác phẩm sân khấu hát bội phiên bản mới năm 2019, không lời, được đầu tư tái dựng phục vụ khách du lịch - Ảnh: DUYÊN PHAN

Hình ảnh những phụ nữ anh hùng dù bị xử tử cũng không hề run sợ trước quân thù, khiến người xem rung cảm - Ảnh: DUYÊN PHAN

Một phân cảnh ấn tượng trong vở hát bội Sanh vi tướng, tử vi thần - Ảnh: DUYÊN PHAN

Trên sân khấu, những hình ảnh quen thuộc nơi đồng quê, cảnh cày bừa, gieo hạt, sinh hoạt dân gian… được dàn dựng quen thuộc, thể hiện một không gian văn hóa làng xã độc đáo, đậm chất Việt - Ảnh: DUYÊN PHAN

Nét đẹp hát bội qua bộ sưu tập Hành trình về phương Đông

LINH ĐOAN

Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy kết thúc [1890] đến hôm nay là tròn 120 năm. Đó cũng là thời gian bắt đầu quãng đời lưu lạc của tướng quân Nguyễn Thiện Thuật trên đất Trung Hoa… Tưởng nhớ vị Đại thần triều Nguyễn dũng cảm đứng lên đánh Pháp giải phóng quê hương và vì nghiệp lớn đã bôn ba quê người đến khi mất, lòng vẫn khôn nguôi nhớ nước, năm 2005 nhân dân Hưng Yên đã đi rước mộ phần cụ Tán từ Nam Ninh - Trung Quốc về quê nhà, xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào...

Từ quan đại thần thành dũng tướng đánh Pháp

Cuộc kháng chiến chống Pháp vùng Hải - Hưng đương mạnh thì chủ tướng Đinh Gia Quế qua đời. Tháng 7/1885, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương, Nguyễn Thiện Thuật trở về nước thành lập căn cứ địa Bãi Sậy, nhận lãnh quyền chỉ huy nghĩa quân, đồng thời thống nhất các lực lượng khởi nghĩa gồm quân của Ngô Quang Huy ở vùng Bắc Ninh và một phần Hưng Yên gọi là Tán Bắc, quân của Nguyễn Hữu Đức ở mạn Hưng Yên, Thái Bình gọi là Tán Nam, quân của Đốc Tít ở Hải Dương và Thủy Nguyên, Tạ Hiện ở Nam Định và Lưu Kỳ, con trai tướng cờ đen Lưu Vĩnh Phúc một tướng khởi nghĩa người Hoa ở vùng Đông Triều - Bắc Giang… Tất cả đều thống nhất dưới sự lãnh đạo của Bắc kỳ Hiệp thống quân vụ Đại thần Nguyễn Thiện Thuật.

Dưới cờ đại nghĩa, dựa vào thế mạnh lòng dân, lấy rừng lau, bờ tre Bãi Sậy làm căn cứ, tự lo binh lương, vũ khí cướp súng giặc đánh giặc, nghĩa quân liên tục tấn công các đồn bốt, chặn các trận càn của quân Pháp, tiến đánh thành Hải Dương… làm cho quân thù thất điên bát đảo. Tài thao lược và ý chí ngoan cường của nghĩa quân Bãi Sậy đã không chỉ làm quân Pháp kinh hoàng mà cả triều đình Huế phải nể trọng. Triều đình phong kiến lúc bấy giờ trước áp lực của người Pháp, đã ra chỉ dụ khuyến hàng bãi binh nhưng Nguyễn Thiện Thuật đã phản ứng bằng cách viết vào chỉ dụ của Vua bốn chữ "Bất khằng thụ chỉ" tức bất tuân chiếu chỉ nhà vua. Mặt khác nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu chống Pháp.

Biết thế cuộc bất lợi, Nguyễn Thiện Thuật trao quyền cầm quân cho người em là Nguyễn Thiện Kế, rồi sang Trung Quốc mưu tính cuộc thế mới. Mộng không thành, ông tiếp tục tham gia hoạt động yêu nước cùng với Duy Tân hội của Phan Bội Châu và Cường Để, tham gia giúp đỡ phong trào Đông du, đưa thanh niên sang Nhật học tập và viết tài liệu làm thơ ca gửi về nước khích lệ phong trào yêu nước quốc nội. Trong khi đó ở nhà, dù bị địch khủng bố đàn áp trả thù nhưng nghĩa binh con cháu Tán Thuật vẫn kiên cường chiến đấu.

Người con cả của Tán Thuật là Cả Tuyển là thuộc tướng của Đề Thám, sau đó tham gia khởi nghĩa Yên Thế đã bị bắt trong một trận đánh và đưa về chặt đầu ở thị trấn Bần Yên Nhân. Rồi Nguyễn Thạc Chi bị bắt đày đi Côn Đảo và đã hy sinh tại đây trong khi lãnh đạo tù nhân nổi dậy không thành. Người em trai và là người kế vị ông là Nguyễn Thiện Kế sau khi mãn hạn tù Côn Đảo bị đưa về quản thúc ở quê hương nhưng vẫn một khí tiết hiên ngang làm quân thù khiếp sợ.

Khởi nghĩa Bãi Sậy là một cuộc kháng chiến oanh liệt ghi đậm vào trang sử dân tộc. Tinh thần yêu nước và quật cường của Nguyễn Thiện Thuật và nghĩa quân Bãi Sậy là bản hùng ca về ý chí vệ quốc của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX. 

Lễ tang của cụ Tán ở Xuân Dục - Mỹ Hào - Hưng Yên.

"Sinh vi tướng tinh thần quy Nam diện/ Tử vi thần tàn cốt ký Long Châu". Lưu lạc quê người hơn một phần ba thế kỷ, ôm mối sầu cô trung, ông mất trong đau buồn năm 1926. Có nỗi niềm nào lớn hơn tâm sự của một người yêu nước như cụ Tán Thuật, khi bao nhiêu mộng lớn không thành đành lưu lạc nơi viễn xứ nhìn quân thù giày xéo đất nước quê hương. Tôi đồ rằng vì mưu việc lớn, tướng quân đành phải lánh sang Trung Quốc, để rồi sau những ngày bôn ba hoạt động khi sức tàn lực kiệt mà vẫn không còn cơ hội trở về phục quốc như ước nguyện.

Thời gian sống và hoạt động ở Quảng Tây - Trung Quốc, cụ Tán Thuật đã được đối xử  theo tinh thần nghĩa hiệp của những người anh hùng hảo hán. Sau khi Pháp ký hiệp định Pháp - Thanh, quân Trung Quốc đánh Pháp ở Việt Nam rút về nước, nhưng tướng Lưu Vĩnh Phúc vẫn giúp người của cụ Tán Thuật mua vũ khí đạn dược đưa về Việt Nam đánh giặc. Đến với phong trào Đông Du, cụ Tán Thuật đã cùng Phan Bội Châu chủ trương đưa thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập. Trong số đó có Nguyễn Thục Chi, người con thứ của Nguyễn Thiện Thuật. Về sau Thục Chi về hoạt động trong nước bị Pháp bắt giam và chết ở nhà tù Côn Đảo.  

Hành trình "Quy cố quốc" của người Anh hùng Bãi Sậy

110 năm sau, kể từ ngày tướng quân Nguyễn Thiện Thuật lưu lạc, việc tìm kiếm mộ phần của ông đã được đặt ra. Nhân hội thảo về xây dựng nhà tưởng niệm danh nhân Nguyễn Thiện Thuật tại Hưng Yên quê hương ông, vấn đề đi tìm di cốt người anh hùng Bãi Sậy trên đất Trung Hoa được đề cập. Nhà văn Học Phi đã khóc khi nhắc nhớ cuộc đời và sự nghiệp cụ Tán Thuật. Nhà văn nhấn mạnh rằng: Nếu không tìm được mộ phần cụ Tán đặng di về cố quận là chúng ta thất nghĩa với tiền nhân.

Lãnh đạo tỉnh Hưng Yên đồng tình với ý tưởng ấy và quyết định giao cho ngành Văn hóa tỉnh tổ chức thực hiện. Nhà văn Nguyễn Phúc Lai lúc đó là Giám đốc Sở Văn hóa đã coi việc làm ấy là tâm nguyện của mình trước danh nhân. Ông Nguyễn Phúc Lai đã có nhã ý mời tôi nếu có điều kiện thì cùng đi Nam Ninh.

Đoàn công tác của Sở VHTT Hưng Yên lên đường đi tìm di cốt tướng quân vào tháng 4/2001. Trước khi lên đường đi Nam Ninh, đoàn đến Xuân Dục quê hương tướng quân để làm lễ tại nhà thờ họ Nguyễn và ngôi miếu dưới gốc đề cụ Tán, nơi xưa kia nghĩa quân đặt chòi canh kiểm soát mọi động tĩnh trên quốc lộ số 5. Nhà thờ cụ Tán mới xây, trên ban thờ có ảnh cụ Tán là bức vẽ cụ Tán mặc áo lương, đội khăn xếp vẻ mặt quắc thước hiền hậu dáng nhà Nho hơn là một vị tướng.

Đoàn đến thành phố Nam Ninh mang theo tâm thế đi tìm di cốt người anh hùng với lòng thành kính, là đi tìm bằng "nội cảm" Việc ấy thiêng liêng. Nếu không thấy được tàn cốt tướng quân thì cũng xin lấy nắm đất xứ ấy đưa về. Nhà văn Nguyễn Phúc Lai kể: "Tài liệu mà chúng tôi có trong tay là một bài báo cũ in ở Quảng Tây, có chụp phần đầu bài viết và ảnh phần mộ cụ Tán Thuật tại núi Vạn Thọ Cương… Ngoài ra một số thông tin của cố sử gia Trần Huy Liệu, rằng mộ Nguyễn Tiên sinh nằm ở nghĩa trang TP Nam Ninh…

Nhưng khi đến nơi câu chuyện lại hoàn toàn bất ngờ. Những hình dung trong tôi lâu nay về nơi yên nghỉ của cụ Tán ở nghĩa trang Vạn Thọ Cương nào đó khác hẳn với những gì trước mắt chúng tôi, khi anh Hoàng, người cán bộ Cục Văn vật địa phương chỉ cho chúng tôi nơi ấy. Anh Hoàng bảo: Phần mộ chỗ này là của một người Việt Nam. Bia có tên Nguyễn Thiện Thuật. Trán bia phẳng, mộ bằng đất có xây gạch chung quanh nhưng đã được cải táng… Năm 1999 sau khi tiếp công văn của Sở Văn hóa Lạng Sơn gửi sang, chúng tôi lại lên đây thì thấy mộ đã được ai đó chuyển đi đâu…".

Lòng chúng tôi chùng xuống, chưa hẳn là nỗi thất vọng nhưng buồn quá. Nhà văn kể tiếp: “Lúc ấy có cụ già tên là Hoàng Chi Liên kể lại rằng, bảy tám năm trước, có một chiếc ôtô loại 12 chỗ đến đây bốc mộ, sau đó đưa lên xe chuyển đi đâu không ai rõ… Trở về khách sạn vào tối hôm đó chúng tôi rã rời, hụt hẫng.

Những câu hỏi được đặt ra: Ai là người chuyển phần mộ cụ Tán đi? Thế rồi trong muôn một vẫn có cái may. Tô Định Tiêu người hướng dẫn du lịch đã tiết lộ có người dì kết nghĩa với mẹ anh ta là người Việt Nam. Bà ấy thường kể đến nghĩa trang thắp hương cho những người Việt Nam ở đó…

Vậy là đoàn lại nhờ anh Tô dẫn đến tìm người đàn bà ấy. Qua người đàn bà tên là Tân, chúng tôi được biết thêm bà Mỹ và ông Huy đều là Việt kiều ở Nam Ninh. Lại một chuyến xe ôtô đến một nghĩa trang khác trên ngọn đồi có tên Đồi Lính Tiên sinh thuộc thôn Đại Lĩnh.

Chúng tôi được đưa đến trước một ngôi mộ bê tông chưa kịp sẫm màu thời gian. Đầu ngôi mộ là tấm bia đá trắng ngà, đặt trên bệ đá. Giữa bia là một hàng chữ lớn Nguyễn Thiện Thuật bia mộ và hai bên là hai hàng chữ bé được khắc chìm nét chữ sắc sảo Việt Nam chống Pháp danh tướng và Cạnh Ngọ trùng tu, Hoàng Văn H. Vậy là mộ cụ Tán đây rồi. Người đồng hương ấy đã tìm đưa cụ về đây bên những liệt sĩ đồng hương Việt chăng?

Chúng tôi vơ vội xác lá xung quanh, gỡ mấy cái dây leo trên mộ rồi thắp hương khấn vái cụ. Chiều nghĩa trang vắng lặng, chỉ có tiếng phi lao hát trong gió…". Ông Lai kể lại cảm xúc khi ấy với vẻ xúc động mạnh. Sau phút ngỡ ngàng và sung sướng, lại nghẹn lòng nỗi xót thương người nằm dưới mộ. Hoàn cảnh đất nước và triều chính lúc ấy buộc ông phải xa lìa Tổ quốc. Dẫu là anh hùng hào kiệt mà nửa đời còn lại đứng bên này trông vời cố quốc lòng đau mà không thể trở về thì nỗi đau ấy lớn biết nhường nào!… 

Tìm được nơi yên nghỉ của tướng quân rồi, nhưng bởi nhiều lý do, mãi đến đầu năm 2005 việc đưa hài cốt cụ Tán về nước mới được thực hiện. Sáng ấy ngày 17 tháng Chạp năm 2004 tức 26/1/2005, từ Hưng Yên ông Nguyễn Phúc Lai điện cho tôi bảo: "Bên Nam Ninh - Trung Quốc, đoàn công tác vừa điện về báo tin mộ cụ Tán vẫn còn, vừa bật nắp đã thấy di cốt. Trong mộ còn tấm bia cũ ở thôn Quan Kiều chuyển sang".

Ông Lai sung sướng nói như reo: "Vậy là tôi thoả nguyện rồi Tân Linh ạ. Tôi đã dặn anh Hiếu, Giám đốc Bảo tàng đưa cả tấm bia về làm kỷ vật…". Ngày 19 tháng Chạp, ông Lai dặn tôi chờ đi cùng lên Hữu Nghị quan để đón đoàn về…

Mấy ngày giáp Tết năm ấy tôi có mặt ở Mỹ Hào và chứng kiến tình cảm nồng ấm của nhân dân quanh vùng tụ về Xuân Dục thắp nén nhang lên bàn thợ cụ Tán mừng cụ trở về sau 115 năm lưu lạc xứ người… Lễ an táng được tổ chức trọng thể, có đám rước, lễ truy điệu cụ với hàng nghìn bà con khắp xứ về dự. Lòng mỗi người thành kính như thành kính với tình yêu Tổ quốc sẵn có trong từng trái tim Việt…

Cuộc đoàn viên lớn ấy cũng là cuộc đoàn viên muộn của một danh nhân với quê hương. Cụ Tán Thuật đã quy cố quốc. Còn bao nhiêu người nữa từng lên đường theo cụ năm nào bây giờ phiêu bạt những đâu qua hàng thế kỷ đầy biến động bởi sự xô dạt qua sóng gió lịch sử của cả hai đất nước mà đến nay chưa có cuộc đoàn viên?

Lá rụng về cội. Tôi tin điều ấy là một an ủi, với vong linh cụ nơi vĩnh hằng, khi tàn cốt Người đã được trở về trong lòng đất mẹ

Tân Linh

Video liên quan