Nhân xét về giá trị nhân đạo của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

Nguyễn Minh Châu được sinh ra ở mảnh đất Nghệ An đầy nắng gió. Ông đã từng là sĩ quan quân đội, tham gia công tác, chiến đấu trong kháng chiến. Người con trai xứ Nghệ này còn là một nhà văn, một cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới với quan điểm sáng tác rất hay: "Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người".

Vâng! Con người trong cuộc sống là tiêu điểm mà Nguyễn Minh Châu rất quan tâm, tìm tòi, khám phá những điều thú vị, mới mẻ. Và nói về con người thì "toàn bộ sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu là một bài ca tràn đầy cảm hứng nhân đạo nồng nhiệt". Với truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa"(1983)- một trong những tác phẩm xuất sắc thuộc giai đoạn đổi mới- Nguyễn Minh Châu càng bộc lộ rõ nét, sâu sắc cảm hứng nhân đạo của mình. Qua những trang viết, nhà văn gửi lại cuộc đời tấm lòng ưu ái đối với những người phụ nữ làng chài lam lũ, chịu nhiều nỗi đau đớn, thiệt thòi và những đứa trẻ của kiếp vạn đò rày đây mai đó trên sông trên biển; nhà văn gửi lại những hiểu biết, khám phá sâu sắc của mình về số phận, về những cuộc đời buồn vui, dang dở.

Truyện ngắn" Chiếc thuyền ngoài xa" lấy bối cảnh là một vùng biển từng là chiến trường cũ của thời chống Mĩ. Mạch chính của truyện là những lời kể, những suy tư của nhân vật Phùng- một nghệ sĩ nhiếp ảnh, cũng từng là một người lính trực tiếp tham gia chiến đấu ở vùng biển này; nay về lại chiến trường cũ để chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Trong chuyến đi thực tế ấy, Phùng đã phát hiện ra cái mâu thuẫn éo le trong nghề nghiệp của mình: đằng sau bức tranh con thuyền mờ sương rất đẹp như "một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ" mà anh đã tình cờ chụp được là số phận đớn đau của một người phụ nữ, là sự nheo nhóc chẳng đẹp đẽ gì trong một gia đình lao động làm nghề chài lưới. Với cuộc sống nghèo khổ, cảnh vật vắng lặng, chỉ "vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ".

Hình ảnh người đàn bà xấu xí trạc ngoài bốn mươi tuổi dần hiện ra với "một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch", rỗ mặt, "mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Song song hình ảnh người đàn bà lag hình ảnh người đàn ông xuất hiện cùng "tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ", "đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rũ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ". Hình ảnh đã khắc hoạ phần nào cuộc sống khổ cực của họ. Chính từ cuộc sống này đã nảy sinh ra một cảnh tượng: cảnh chồng đánh vợ,"ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng". Tuy đã được sáng tác cách đây một phần tư thế kỉ, nhưng đề tài của tác phẩm vẫn còn rất nóng, dai dẳng đến ngày hôm nay, đó là : bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình, trong mỗi chúng ta không ai không biết nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Minh Châu thì đề tài này được thể hiện một cách sinh động. Chúng ta sẽ không xa lạ với hình ảnh người chồng "mặt đỏ gay, hùng hổ", rút trong người chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng "quật tới tấp vào lưng" người vợ, "vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ".

Đánh vợ chưa làm hắn nguôi cơn giận, lão đàn ông quay sang đánh con- thằng Phác. Lão "liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát". Giống như một cuốn phim quay nhanh với những cảnh chọn lọc, tiêu biểu, Nguyễn Minh Châu đã dựng trước mắt chúng ta sự tàn bạo ghê gớm của bạo lực gia đình: gia đình không êm ấm, con người bị thương tích, đau khổ. Ông đã dấy lên trong lòng người đọc nỗi xót thương pha lẫn nỗi lo âu về tình trạng phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sớm nhiễm thói vũ phu, thô bạo do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào cuộc sống.

Điều mọi người lo lắng và không bao giờ dư, nó đã xảy ra với Phác- một thằng bé từ "tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cha nó. Sống và chứng kiến cảnh cha mẹ đánh nhau, làm cho tâm hồn Phác chất chứa những nỗi đau âm ỉ như những đợt sóng biển phủ vào đất liền đã rút nhưng vẫn để lại cái chất mặn làm xót cây khoai, cây lúa; tâm hồn em bị tổn thương. Phác thương mẹ, hận cha; tính cách em trở nên cộc cằn, thô bạo, không hồn nhiên như những đứa bạn cùng trang lứa. Mỗi khi mẹ bị cha đánh, thằng Phác "giận dữ căng thẳng", nó "như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm" nhảy xổ vào cha nó,"giàng lấy chiếc thắt lưng", "dướng thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng" của lão đàn ông. Hay có lúc Phác dùng con dao găm làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương của nó, nhưng đã bị người chị gái giật lại. Rồi nó tuyên bố với mọi người rằng "nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh". Tất cả làm cho tâm hồn Phác bị vẩn đục. Nguyễn Minh Châu như muốn nhắn nhủ mọi người hãy bảo vệ trẻ em, hãy để chúng lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, sống trong gia đình hạnh phúc, phát triển toàn diện. Đồng thời mọi người hãy tạo ra môi trường tốt đẹp cho trẻ em; cũng chính vì lẽ đó mà ở cuối truyện Nguyễn Minh Châu đã viết "sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay", như một lời thông điệp khuyên mọi người nên thay đổi môi trường sống sao cho phù hợp, tốt đẹp với trẻ em.

Bên cạnh đó, Nguyễn Minh Châu chỉ ra việc dân trí thấp, đông con và nghèo khổ là nguy cơ đáng sợ để hình thành bạo lực gia đình. Đúng vậy! Trong một lần tâm sự với nhà văn Lê Lựu, ông kể:"Quê tôi là Quỳnh Hải, thôn Kẻ Thơi, vùng Lạch Thơi, Lạch Quèn. Dữ dội lắm! Dân Lạch Thơi nhiều nơi sợ vì chỉ có uống rượu và đánh nhau. Rượu say, ngủ luôn ở bãi biển. Mỗi đêm, những người đàn bà phải đi nhặt chồng về. Cả làng làm nghề đánh cá, chài lưới chẳng học hành gì cả. Tôi còn nhớ ông Điềm mỗi khi say rượu, cởi truồng nồng nỗng, quần vắt lên vai, đi vào trong xóm, lấy quần đánh chó. Gặp ai cũng chửi tuốt nhưng vớ phải một mụ bán bánh đa ở chợ làng còn dữ dội hơn. Mụ tuột váy ra, lấy váy đánh vào mặt, lão Điềm phải thua. Lại có người uống rượu say, lấy mảnh thuỷ tinh rạch ngang bụng, ruột xổ ra rồi chết(…). Một cái làng vô học,thích ai thì nấy đúng, chẳng biết phải trái gì cả".

Từ những lời tâm sự của Nguyễn Minh Châu, chúng ta cảm nhận dáng dấp của làng nhà văn cũng xuất hiện đâu đó trong "Chiếc thuyền ngoài xa". Làng chài này có "đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật", "con nhà nào cũng trên dưới chục đứa", nhà của thằng Phác cũng không phải là ngoại lệ. Vì nghề nghiệp, ít học nên có quan niệm đẻ con đông là tốt, trời sinh voi sinh cỏ nên họ đẻ ra hàng đàn con, nhưng họ có biết đâu chính họ là cái gốc cây, cái tảng đá lớn sẽ ngăn trở xã hội tiến lên con đường hiện đại hoá; làm cho nghèo khổ đeo bám không rời, phải "ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối" hàng tháng trời khi biển động. Rồi từ đó, cái nghèo khổ làm thay đổi tất cả, nảy sinh mâu thuẫn mới. Cái nghèo khổ làm con người ta chán nản, suy sụp, thay đổi tính tình, u uất trong người và cuối cùng, đánh đập vợ con để giải toả nỗi khổ. Đó cũng là lí do để chúng ta giải thích tại sao cha thằng Phác từ một người "cục tính nhưng hiền lành" lại trở thành một ông chồng vũ phu, đánh đập vợ ở dưới thuyền rồi lên bờ và nguyền rủa vợ con chết đi. Thật đau lòng biết bao!

Ở "mỗi con người đều chứa trong lòng những nét đẹp đẽ, kì diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ nhận thức, khám phá tất cả những cái đó". Trong "Chiếc thuyền ngoài xa", Nguyễn Minh Châu tiếp tục khắc hoạ hình ảnh người phụ nữ với nét đẹp đời thường. Thái độ cam chịu, nhẫn nhục nhưng không phải mù quáng khi bị chồng đánh. Tình thương con vô hạn, tận tâm, bao bọc, che chở, cố tránh cho con khỏi bị tổn thương, luôn mang mặc cảm có lỗi. Với suy nghĩ "sống cho con chứ không thể sống cho mình" mà người đàn bà làng chài đã nhịn nhục sự vũ phu của chồng để cùng làm ăn, nuôi nấng các con và cảm thấy "vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Điều này càng thể hiện rõ khi thằng Phác nhảy vô đánh cha nó thì người đàn bà mếu máo gọi tên Phác, ôm lấy con, vái con, còn cậu bé "lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt". Hành động đó làm cho ta rơi nước mắt trước tình mẫu tử thiêng liêng của họ. Có lẽ phải đau đớn, hoảng sợ đứa con có chuyện gì lắm, một người mẹ mới chắp tay "vái lấy vái để" đứa con mình. Còn đứa con thương xót mẹ nhưng nhỏ bé, bất lực, không ngờ muốn bảo vệ mẹ lại làm mẹ khổ hơn nên chỉ biết an ủi bằng những ngón tay vụng về.

Cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn người phụ nữ là vẻ đẹp mẫu tính, cam chịu, cảm thông, chia sẻ, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hi sinh và thương con tha thiết. Đây cũng chính là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" đã góp phần vào nền văn học hiện đại giá trị nhân đạo về sự bảo vệ trẻ em, tạo môi trường tốt đẹp cho trẻ em hoạt động và hình ảnh người phụ nữ vừa quen thuộc vừa mới lạ; vừa bình dị lại vừa cao cả, lớn lao bởi vẻ đẹp vĩnh hằng mang ý nghĩa nhân văn.

Tác phẩm giúp chúng ta hiểu hơn tâm hồn con trẻ, cũng như trách nhiệm đối với chúng; hiểu rõ hơn những nhọc nhằn, đắng cay, được mất của con người, giữa cuộc đời đầy rẫy những đổi thay, để chúng ta nhận biết, quí trọng, nâng niu lòng nhân ái, luôn vươn tới cái đẹp, giữ vững niềm tin vào cuộc sống, vững bước đi trong cuộc đời. Một cảm hứng chủ đạo giúp Nguyễn Minh Châu viết đượ những trang văn hay nhất mang đầy giá trị nhân đạo sâu sắc.

Nhân xét về giá trị nhân đạo của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong "Chiếc thuyền ngoài xa" số 5

Nhân xét về giá trị nhân đạo của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong "Chiếc thuyền ngoài xa" số 5