Nữ bao nhiêu tuổi đủ tuổi kết hôn năm 2024

Sau 12 năm đi vào cuộc sống, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã bộc lộ nhiều bất cập. Một trong những nội dung được Bộ Tư pháp đưa ra lấy ý kiến trong việc sửa đổi Luật HNGĐ năm 2000 tại Phiên họp lần thứ nhất Tổ biên tập Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật HNGĐ là vấn đề kết hôn cùng giới tính. Ngoài ra, việc hạ độ tuổi kết hôn cũng được đặt ra. Tuổi được kết hôn có thể nữ là 16 hoặc 17, nam 18 tuổi.

Sau 12 năm đi vào cuộc sống, Luật Hôn nhân và Gia đình [HNGĐ] năm 2000 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế trong các quy định về áp dụng phong tục, tập quán, về chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền [hôn nhân thực tế], về giới tính trong kết hôn, về độ tuổi kết hôn…, đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung kịp thời.

Quy định \"mềm” đối với kết hôn đồng giới

Một trong những nội dung được Bộ Tư pháp đưa ra lấy ý kiến trong việc sửa đổi Luật HNGĐ năm 2000 tại Phiên họp lần thứ nhất Tổ biên tập Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật HNGĐ [ngày 21-6 vừa qua] là kết hôn cùng giới tính. Theo lý giải của Bộ Tư pháp, xét về đảm bảo quyền tự do cá nhân thì việc kết hôn giữa những người cùng giới cần được công nhận. Nhưng xét về văn hóa, tập quán gia đình của người Việt Nam, tính nhạy cảm xã hội của vấn đề, hậu quả xã hội của quy định pháp luật chưa được dự báo hết thì thời điểm này, việc thừa nhận người cùng giới tính có quyền kết hôn với nhau ở Việt Nam là quá sớm. Do đó, quy định về cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính tại khoản 5 Điều 10 của Luật HNGĐ cần tiếp tục được quy định. Tuy nhiên, việc chung sống giữa những người cùng giới tính là một hiện tượng xã hội có thật, từ đó phát sinh các mối quan hệ nhân thân, tài sản hoặc về con [ví dụ nhận con nuôi], pháp luật không thừa nhận hôn nhân của họ nhưng cũng phải có cơ chế pháp lý để điều chỉnh các hậu quả về thân nhân, tài sản và con từ việc chung sống giữa những người cùng giới tính. Về vấn đề này, bà Ngô Thị Hường [trường Đại học Luật Hà Nội] cho biết: hiện trên thế giới đã có 19 quốc gia, vùng lãnh thổ công nhận kết hôn đồng giới, một số quốc gia chưa công nhận kết hôn đồng giới nhưng có quy định cho phép cùng chung sống. Do vậy, ở Việt Nam nên chăng cũng cho phép họ cùng chung sống, không nhất thiết phải có luật riêng, để giải quyết tranh chấp tài sản khi không còn chung sống. Ông Nguyễn Văn Cừ [Đại học Luật Hà Nội] cũng đồng tình và cho rằng: việc chấp nhận hay không phụ thuộc rất nhiều vào phong tục, tập quán của Việt Nam. Nên chăng chỉ là không công nhận, chứ không quy định là cấm. Một số nước trên thế giới đã công nhận và đưa vào luật, tuy nhiên, ở Việt Nam thì chưa phù hợp. Còn hậu quả của việc chung sống giữa những người cùng giới tính thì pháp luật đã quy định rồi, đương sự phải có căn cứ chứng minh công sức của mình để chia tài sản. Về con cái, chỉ nhận con nuôi một bên vì theo Luật Con nuôi thì 2 người cùng giới tính không được nhận con nuôi. Do đó, cần có những quy định \"mềm” để những người đồng tình không cảm thấy quyền lợi của họ bị xâm phạm.

Sẽ hạ độ tuổi kết hôn?

Đây là nội dung nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận xã hội nhất là trong bối cảnh hiện nay, tâm sinh lý của giới trẻ có nhiều thay đổi. Bên cạnh đó do phong tục, tập quán ở nhiều địa phương không coi trọng đăng ký kết hôn bằng đám cưới. Luật HNGĐ hiện hành quy định nữ từ 18 tuổi, nam từ 20 tuổi được kết hôn nhưng bất cập rõ nhất của quy định về độ tuổi này trong thực tiễn là sự thiệt thòi cho nữ giới. Theo ông Nguyễn Văn Cừ, sửa Luật phải kết hợp đạo lý với kinh nghiệm các nước thì mới phát huy hiệu quả. Trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình có những nét rất riêng, không thể nhập vào Bộ luật Dân sự. Luật có nhiều vấn đề cần xem xét. Trong chương II, về độ tuổi kết hôn tối thiểu, Luật của ta chỉ quy định tối thiểu, không có tuổi tối đa. Ở góc độ khác, bà Ngô Thị Hường thẳng thắn cho rằng: độ tuổi kết hôn không nên quá quan trọng tròn hay đủ mà cần dựa trên cơ sở tâm sinh lý của người kết hôn cũng như phong tục, tập quán. Nhiều trường hợp không đủ tuổi kết hôn nhưng vẫn chung sống, sinh con đẻ cái, chính vì vậy cần hạ tuổi kết hôn, nữ là 16 hoặc 17, nam 18 tuổi. Tuy nhiên, bà Bùi Thị Dung Huyền [Viện Khoa học Xét xử, TANDTC] cho rằng: hiện đa số các ý kiến đều cho rằng tuổi kết hôn như hiện nay là phù hợp. \"Không thể dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của người kết hôn để cho phép kết hôn mà pháp luật phải có quy định chung, đó là nữ phải đủ 18 tuổi và nam đủ 20 tuổi trở lên mới được kết hôn. Việc sửa đổi lần này chúng ta cần nghiên cứu kỹ, chọn lựa những vấn đề để sửa đổi, những quy định nào vẫn còn phù hợp nên giữ, tránh lãng phí về thời gian và tài chính” - bà Huyền kiến nghị.

Thực hiện chương trình xây dựng pháp luật của Nhà nước ta, Ban Dự thảo của Hội đồng Bộ trưởng về Luật hôn nhân và gia đình đã khẩn trương làm việc, tiến hành điều tra, nghiên cứu, nhiều lần tranh thủ ý kiến của các ngành, các cấp, và đến nay đã làm xong bản Dự thảo. Uỷ ban pháp luật của Quốc hội cùng các thường trực của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, Uỷ ban y tế và xã hội của Quốc hội đã nhiều lần thẩm tra và góp ý kiến. Gần đây, bản Dự thảo cũng đã được các Đoàn đại biểu Quốc hội sơ bộ cho ý kiến.

Trong phiên họp ngày 14 và ngày 16 tháng 6 năm 1986 Hội đồng Nhà nước đã xem xét và quyết định cho phép Ban Dự thảo của Hội đồng Bộ trưởng báo cáo nội dung Dự thảo Luật trước Quốc hội tại kỳ họp này.

Dưới đây, chúng tôi xin báo cáo tổng hợp những ý kiến chính của các Đoàn đại biểu Quốc hội và những đề nghị của Uỷ ban pháp luật về các vấn đề đó:

1. Về tuổi kết hôn

Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định tuổi kết hôn đối với nam là từ 20 tuổi trở lên, nữ là từ 18 tuổi trở lên. Điều 5 trong Dự thảo Luật mới cũng quy định tuổi kết hôn như Luật năm 1959.

Về vấn đề này, có hai loại ý kiến: Nhiều Đoàn tán thành quy định của Dự thảo, nhưng cũng có ý kiến đề nghị nâng tuổi kết hôn lên cao hơn: nam từ 22 hoặc 25 tuổi trở lên, nữ từ 20 hoặc 22 tuổi trở lên, với lý do là cần bảo đảm cho thanh niên có điều kiện học tập và làm nghĩa vụ quân sự, đồng thời, cũng nhằm bảo đảm chính sách sinh đẻ có kế hoạch.

Uỷ ban chúng tôi tán thành quy định như Dự thảo Luật, vì vấn đề tuổi kết hôn phải được xem xét toàn diện, phải chú ý đầy đủ đến các mặt tâm lý, sinh lý của thanh niên, và tập quán của xã hội ta. Luật này áp dụng cho cả nước, nên cần chú ý đúng mức đến tình trạng xã hội không đồng đều giữa miền xuôi và miền núi, giữa thành thị và nông thôn, v.v.. Hơn nữa, Dự thảo Luật chỉ quy định mức tuổi tối thiểu để được kết hôn [dưới tuổi đó thì không được kết hôn], chứ không phải bắt buộc nam đến tuổi 20, nữ đến tuổi 18 thì phải kết hôn, do đó, hoàn toàn không ngăn cản gì những người muốn kết hôn muộn hơn. Còn sinh đẻ có kế hoạch là một cuộc vận động quần chúng; Nhà nước ta, vì lợi ích chung của đất nước và lợi ích riêng của mỗi gia đình, nên hết sức khuyến khích việc sinh đẻ có kế hoạch, nhưng không dùng những biện pháp ép buộc. Chúng tôi nghĩ rằng chủ trương như vậy là rất đúng, vì không phải bằng biện pháp nâng tuổi kết hôn mà có thể hạn chế được sinh đẻ, ngược lại, còn có thể gây ra những diễn biến tiêu cực, phức tạp hơn.

2. Về những trường hợp cấm kết hôn

Luật năm 1959 có quy định những người mắc bệnh hủi, những người bất lực hoàn toàn về sinh lý thì không được kết hôn. Trong Điều 7 của Dự thảo Luật, đã bỏ hai trường hợp cấm này. Nhưng có một số Đoàn không tán thành, mà đề nghị vẫn nên giữ lại quy định cấm kết hôn đối với cả hai trường hợp trên.

Hiện nay, y học thế giới cũng như Việt Nam đã xác định một cách có căn cứ khoa học rằng bệnh hủi không phải là loại bệnh truyền nhiễm và hoàn toàn có thể chữa khỏi được, do đó, việc cấm người hủi kết hôn rõ ràng là không cần thiết.

Đối với những người bất lực về sinh lý, nếu họ tự nguyện kết hôn thì cũng không nên cấm đoán. Nam nữ kết hôn với nhau, thương yêu, tôn trọng, và giúp đỡ nhau trong cuộc sống chung. Vì vậy, chúng tôi tán thành việc Dự thảo Luật đã bỏ hai trường hợp cấm kết hôn trên đây.

3. Về tài sản của vợ chồng

Dự thảo Luật trước đây quy định vấn đề tài sản của vợ chồng ở 3 Điều: Điều 14, Điều 15 và Điều 16. Đối với vấn đề này, các Đoàn có hai loại ý kiến.

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, nên giữ nguyên chế độ tài sản của vợ chồng như Điều 15 của Luật năm 1959, cụ thể là: "Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới". Nếu quy định rằng ngoài tài sản chung, vợ hoặc chồng lại có tài sản riêng thì không hợp với tâm lý, tập quán của người Việt Nam, và có thể khuyến khích tư tưởng không lành mạnh "của anh, của tôi" trong quan hệ vợ chồng.

Loại ý kiến thứ hai tán thành quy định như Dự thảo, tức là vợ hoặc chồng có quyền có tài sản riêng, vì nó phản ánh một thực tế hiện nay, nhưng cần phải quy định rõ ràng thủ tục pháp lý cho việc công nhận tài sản riêng.

Về vấn đề này, Uỷ ban chúng tôi thấy nếu nhất loạt coi tất cả tài sản của vợ hoặc chồng có trước và sau khi cưới là tài sản chung, như quy định của Luật năm 1959 thì không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Nhưng nếu quy định một cách quá rạch ròi, cứng nhắc về tài sản riêng của vợ hoặc chồng thì cũng không phù hợp với tâm lý chung của nhân dân ta.

Vì vậy, chúng tôi tán thành cách quy định mềm dẻo như đã được sửa lại ở Điều 126 của Dự thảo trình ra Quốc hội lần này: "Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được tặng hoặc thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân, thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng".

4. Vấn đề "tước quyền làm cha, làm mẹ"

Về vấn đề này, có một số Đoàn tán thành, nhưng nhiều Đoàn thấy quy định như vậy là không phù hợp với tập quán của ta.

Trong Dự thảo trình ra Quốc hội kỳ này, cách viết [Điều 26] đã được sửa lại tốt hơn. Chúng tôi tán thành cách sửa chữa đó.

5. Về vấn đề con nuôi

Hầu hết các Đoàn nhất trí và thấy cần quy định vấn đề này thành một Chương như dự thảo.

Riêng về tuổi của con nuôi, nói chung các Đoàn đồng ý là người con nuôi khi được nhận nuôi phải dưới 16 tuổi; cũng có ý kiến là phải dưới 14 tuổi. Uỷ ban chúng tôi thấy quy định con nuôi nói chung phải dưới 16 tuổi là hợp lý. Nhiều Đoàn cũng nêu ý kiến là trong một số trường hợp, tuổi của con nuôi có thể trên 16 tuổi, nhưng cần nói rõ đó là những trường hợp nào. Tiếp thụ ý kiến của các Đoàn, Ban dự thảo đã bổ sung nói rõ những trường hợp được nuôi con nuôi trên 16 tuổi [Điều 35]. Uỷ ban chúng ta tán thành những trường hợp cụ thể nêu trong Điều 35, nhưng cũng đề nghị đi sâu hơn xem có cần bổ sung những trường hợp nào khác nữa không.

6. Về vấn đề giám hộ

Trong dự thảo trước đây gửi các Đoàn đại biểu Quốc hội, có Chương VIII quy định vấn đề "giám hộ". Hầu hết các Đoàn đều nhất trí nên quy định vấn đề này trong Luật, nhằm bảo vệ quyền lợi của những người chưa thành niên mà cha mẹ đã chết, hoặc cha mẹ còn sống nhưng không có điều kiện chăm sóc, giáo dục. Một số Đoàn thấy nên thay thuật ngữ "giám hộ" bằng thuật ngữ "đỡ đầu" cho dễ hiểu hơn. Tiếp thụ ý kiến của các Đoàn, tên Chương này đã được Ban dự thảo sửa lại là "chế độ đỡ đầu".

Ngoài ra, một số Đoàn còn đề nghị nên quy định quyền và nghĩa vụ của người đỡ đầu cho cụ thể và thiết thực hơn, để khuyến khích việc đỡ đầu. Chúng tôi thấy vì trong vấn đề này, ta còn quá ít kinh nghiệm, nên chưa có điều kiện để quy định cụ thể hơn. Sau này, qua thực tế thi hành, ta sẽ rút kinh nghiệm và bổ sung khi thấy cần thiết.

7. Vấn đề hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài

Đối với vấn đề này, nhiều Đoàn đồng ý với quy định của Dự thảo, nhưng có một số Đoàn thấy nên hạn chế lại, hoặc chưa nên quy định vì quá phức tạp.

Chúng tôi thấy cần quy định vấn đề này trong Dự thảo Luật, vì đây là một vấn đề thời sự, nếu trong Luật không có quy định gì cả thì không đáp ứng yêu cầu thực tế hiện nay của xã hội. Nhưng vì quan hệ cụ thể về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài còn liên quan đến nhiều văn bản pháp luật khác, nên trong văn bản này chỉ có thể quy định những vấn đề có tính chất nguyên tắc. Chúng tôi thấy quy định như Dự thảo là vừa phải và thích hợp.

8. Về đề nghị đưa Dự thảo Luật ra cho nhân dân tham gia ý kiến

Nhìn chung, nội dung của Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình đã thể hiện được những vấn đề cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình trong xã hội ta hiện nay. Đó là nhờ sự cố gắng to lớn của Ban Dự thảo, nhờ sự đóng góp ý kiến nghiêm túc và nhiệt tình của các Đoàn đại biểu Quốc hội cũng như của các các cấp, các ngành trong quá trình xây dựng dự thảo. Tuy nhiên, do vấn đề hôn nhân và gia đình liên quan nhiều đến lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân, cho nên sự tham gia ý kiến rộng rãi của nhân dân đối với vấn đề này là rất cần thiết.

Chúng tôi đề nghị Quốc hội cho phép đưa Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình ra nhân dân thảo luận. Sau khi có ý kiến đóng góp của nhân dân, bản Dự thảo Luật sẽ phải chỉnh lý kỹ một lần nữa, kể cả về mặt văn tự, và trình Quốc hội thảo luận và thông qua trong kỳ họp tới.

Con gái bao nhiêu tuổi mới được kết hôn?

Theo những quy định trên có thể thấy, độ tuổi kết hôn của nam và nữ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay là nam từ đủ 20 tuổi trở lên và nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.

Tại sao con trai 20 tuổi mới được kết hôn?

Độ tuổi 20 là độ tuổi trung bình của nam giới trên phạm vi cả nước. Do vậy, pháp luật quy định nam giới đủ 20 tuổi mới được đăng ký kết hôn.

Tại sao nữ 18 tuổi mới được kết hôn?

2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Theo đó, hiện nay quy định rằng nữ từ đủ 18 tuổi trở lên thì mới đủ điều kiện về độ tuổi để kết hôn. Ngoài ra việc kết hôn do nữ tự nguyện quyết định và việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm theo luật hôn nhân.

Kết hôn chưa đủ tuổi bị phạt bao nhiêu?

Như vậy, pháp luật có quy định phạt tiền từ 1.000.000 đến 3.000.000 đồng đối với hành vi tảo hôn.

Chủ Đề