Om ami dewa hrih là gì

Câu chú này luôn luôn đi theo với Úm Ma Ni Pát Mê Hum (Hồng). Căn cứ theo chư sư truyền lại, nên thêm Úm A Di Đát Phạ và thêm chữ Ta Ha cũng được.

Kinh dạy: Chữ Hật Rị (HRIH) Đủ bốn chữ thành một Chơn ngôn. Chữ Hạ tự môn, nghĩa là tất cả pháp nhơn bất khả đắc. Chữ RA tự môn, nghĩa là tất cả pháp ly trần. Trần nghĩa là ngũ trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc). Cũng gọi hai món chấp trước năng thủ và sở thủ. Chữ Y tự môn, là tự tại bất khả đắc, hai điêm ác tự nghĩa. Chữ Ác gọi là Niết Bàn. Do giác ngộ các pháp vốn không sanh, đều xa lìa món chấp trước, chứng được pháp giới thanh tịnh. Chữ Hật Rị này cũng nói làm tàm (hổ thẹn), nếu nói đủ là tàm quí (hổ thẹn), tự thẹn với lương tâm mình và xấu hổ đối với kẻ khác, vì thế nên không làm tất cả điều bất thiện vậy. Đầy đủ tất cả pháp lành vô lậu vậy. Cho nên Liên Hoa Bộ cũng gọi là Pháp Bộ.

Do gia trì chữ Hật Rị này mà ở thế giới Cực Lạc, nước, chim, cây, rừng đều diễn nói pháp âm. Rộng như trong kinh đã thuyết minh. Nếu có người nào trì một chữ Chơn ngôn này, có công năng hay diệt trừ tai họa, tật bệnh. Sauk hi chết sẽ sanh về cõi An-Lạc quốc, được thượng phẩm thượng sanh. Đây là nhứt thông tu Quán Tự Tại tâm Chơn ngôn của người tu hành và cũng là hay trợ giúp cho các người tu các bộ Du Già vậy.

Tỳ Khưu Thích Viên Ðức
Theo phatgiaovnn.com

3. A DI ĐÀ TÂM CHÚ

_A Di Đà Phật (Amitābha-buddha) trong Mật Giáo:

Nguyên là một trong năm Trí của Đại Nhật Như Lai (Vairocana-buddha) sinh Tây Phương Diệu Quán Sát Tam Muội. Trong Thai Tạng Giới (Garbha-dhātu) có vị trí ở phương Tây của Trung Đài Bát Diệp Viện, trong Kim Cương Giới (Vajra-dhātu) có vị trí ở phương Tây của năm Giải Thoát Luân, là Trí Phương Tiện của Như Lai.

_Ngay trong “Quán Vô Lượng Thọ Kinh” nói: “Thân của Vô Lượng Thọ Phật(Amitāyus-buddha) có màu vàng ròng như trăm ngàn vạn ức Dạ Ma Thiên (Yama-deva) Diêm Phù Đàn (Jambu-dvīpa). Thân Phật cao như sáu mươi vạn ức na do tha do tuần, Bạch Hào (Ūrṇa: sợi lông mày trắng) ở Tam Tinh (my gian) uyển chuyển xoay theo bên phải lớn như năm ngọn núi Tu Di (Sumeru), mắt Phật rộng như bốn biển lớn màu xanh trắng rõ ràng, lỗ chân lông trên toàn thân đều hiện bày ánh sáng”

_Tại Thế Giới Sa Bà (Sāha-dhātu), sự cứu độ của chư Phật, nên dùng A Di Đà Phật là bậc nhất. Ánh sáng của Đức Phật A Di Đà có thể phân chia là: Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang, Vô Đối Quang, Diễm Vương Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Trí Tuệ Quang, Bất Đoạn Quang, Nan Tư Quang, Vô Xứng Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang

Thế Giới Cực Lạc (Sukha-vatī) ở phương Tây có cảnh giới của ba Phẩm, chín sinh. Hành Giả chỉ cần một lòng chẳng loạn (nhất tâm bất loạn), tin tưởng bền chắc vào Bản Nguyện của Đức Phật A Di Đà ắt được thành tựu sinh về Thế Giới Cực Lạc ở phương Tây.

_A Di Đà Phật độ sinh vô lượng:

Hành Giả Mật Tông ngay lúc tu Mật Pháp thời quán tưởng thân của mình là Phật A Di Đà hiện tại chỉ có một trong Thế Giới này, phương bên trên là Phật A Di Đà quá khứ, phương bên dưới là Phật A Di Đà vị lai. Đức Phật A Di Đà ở phương trên hóa làm điểm ánh sáng hạ xuống bên dưới, Đức Phật A Di Đà ở phương bên dưới hóa làm điểm ánh sáng bay lên bên trên. Lúc đó quá khứ, hiện tại vị lại làm thành một khối (đả thành nhất phiến), hóa làm Thế Giới Cực Lạc. Điều này rất bí mật là “dọc cùng một thời của ba đời, ngang trùm một Thể của mười phương”

Trì Mật Chú là: “Ông, a di đa oa ta”

OṂ  AMITĀBĀ

(Theo người dịch thì câu chú trên là OṂ  AMITĀBHA  HRĪḤ)

Tay Ấn là Pháp Giới Định Ấn

_Một cá nhân hay ngầm tu “A Di Đà Phật Bản Tôn Pháp”, tâm tin tưởng chẳng nghi ngờ, một lòng chẳng loạn, khi lâm chung thời niệm Thánh Hiệu A Di Đà Phật, đóng kín lỗ chân lông trên toàn thân, nhưng Phạn Đỉnh Huyệt (Huyệt ngay giữa đỉnh đầu) chẳng đóng, niệm một tiếng chữ Hồng (HŪṂ) thì Nguyên Thần xung lên mở Đỉnh Môn (cửa trên đỉnh đầu), ba vị Thánh ở phương Tây (A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát) hiện ra trước mặt, liền hóa sinh trong hoa sen

A Di Đà Phật cùng với Liên Hoa Đồng Tử (Padma-kumāra) có liên quan với nhau

Ba vị Thánh ở phương Tây cùng với Liên Hoa Đồng Tử không có hai, không có khác

Đây trong việc ấy có bí mật của bí mật lớn

Việt dịch: HUYỀN THANH

4. Thần chú của Đức Phật A DI ĐÀ (AMITABHA Buddha):

OM AMITABHA HRI

Câu chú này có khả năng tiêu tội chướng, trì tụng câu chú này cũng giống như là niệm Nam Mô A Di Đà Phật.

Hành giả khi trì tụng thì nếu có thể thì nên nhất tâm quán tưởng Đức Phật A Di Đà trong lúc trì tụng nếu không thể quán tưởng thì phải nhất tâm trì tụng và hành giả phải phát nguện cầu vãng sanh về cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà.

Hành giả phải luôn luôn trì tụng nếu muốn được vãng sanh về cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà.

Hành giả có thể tụng chú này để cầu siêu cho người chết được vãng sanh về cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà.

5. Thần chú của Đức Phật Vô Lượng Thọ (AMITAYUS Buddha):

OM NAMO BHAGAVATE APARIMITA AYUR JNYANA SUVINI CITTA TETSO RADZAYA TATHAGATAYA ARAHATE SAMYAK SAMBUDDHAYA TADHYATA OM PUNYE PUNYE MAHAPUNYE APARAMITA PUNNYE APARAMITA JNANA SOMBHARO PATSITE OM SARVA SAMSKARA PARISHUDDHA DHARMATE GAGANA SAMUDGATE SVABHAVA VISHUDDHE MAHANAYA PARIVARE SOHA.

OM AMARANI JIWANTIYE SVAHA

Hai câu chú trên dùng để cầu sống lâu và cầu trị bịnh cho mình hay cho người khác.
Khi trì tụng thì hành giả phải nhất tâm. Hành giả phải tụng càng nhiều càng tốt.

6. Chân ngôn:

  • Phật A-di-đà là tâm của một số thần chú trong Phật giáo thực hành Kim Cương thừa. Các hình thức thần chú của Phật A-di-đà là:
ॐ अमिताभ ह्री (Devanagari: oṃ amitābha hrīḥ), được phát âm trong phiên bản tiếng Tây Tạng là Om ami Dewa HRI (tiếng Phạn: om amideva hrīḥ).
  • Vãng sanh tịnh độ thần chú hay còn gọi là vãng sanh quyết định chân ngôn hoặc chú vãng sanh, gọi đầy đủ là Bạt nhất thiết nghiệp chướng Căn bổn đắc sinh Tịnh Độ Đà La Ni được lấy từ Vô Lượng Thọ Kinh cùng với Phật thuyết A Di Đà Căn Bổn Bí Mật Thần Chú Kinh:

namo amitābhāya tathāgatāya tadyathāamṛtabhave amṛtasaṃbhaveamṛtavikrānte amṛtavikrāntagāminigagana kīrtīchare svāhā