Phân tích các nội dung cơ bản của tâm lý học nhận văn và tâm lý học nhận thức

3. Các quan điểm cơ bản trong tâm lý học hiện đại

Mục lục

  • 1 3.1. Tâm lý học hành vi
  • 2 3.2. Tâm lý học Gestall (còn gọi là tâm lý học cấu trúc)
  • 3 3.3. Phân tâm học
  • 4 3.4. Tâm lý học nhân văn
  • 5 3.5. Tâm lý học nhận thức
  • 6 3.6. Tâm lý học hoạt động
  • 7 Tác phẩm, tác giả, nguồn

3.1. Tâm lý học hành vi

Chủ nghĩa hành vi do nhà tâm lý học Mĩ J. Oatsơn (1878 - 1958) sáng lập. J. Oatsơn cho rằng tâm lý học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể ở con người cũng như ở động vật. Hành vi được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một kích thích nào đó. Toàn bộ hành vi, phản ứng của con người và động vật thể hiện bằng công thức:

s - R

(Stimulus - Reaction)

Kích thích - Phản ứng

Với Công thức trên, J. Oatsơn đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lý học: coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan, từ đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp "thử - sai". Nhưng chủ nghĩa hành vi đã quan niệm một cách cơ học, máy móc về hành vi, đánh đồng hành vi của con người với hành vi của con vật, hành vi chỉ còn là những phản ứng máy móc nhằm đáp lại kích thích, giúp cho cơ thể thích nghi với môi trường xung quanh. Chủ nghĩa hành vi đồng nhất phản ứng với nội dung tâm lý bên trong làm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lý con người, đồng nhất tâm lý con người với tâm lý động vật, con người chỉ phản ứng trong thế giới một cách cơ học, máy móc. Đây chính là quan điểm tự nhiên chủ nghĩa, phi lịch sử và thực dụng.

Về sau này các đại biểu của chủ nghĩa hành vi mới như: Tonmen, Hulo, Skinơ... có đưa vào công thức S - R những "biến số trung gian" bao hàm một số yếu tố như: nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống của con người, hoặc hành vi tạo tác "operant nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho cơ thể, nhưng về cơ bản chủ nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc, thực dụng của chủ nghĩa hành vi cổ điển Oatsơn.

3.2. Tâm lý học Gestall (còn gọi là tâm lý học cấu trúc)

Dòng phái này ra đời ở Đức, gắn liền với tên tuổi các nhà tâm lý học: Vécthaimơ (1880 - 1943), Côlơ (1887 - 1967), Côpca (1886 - 1947). Họ đi sâu nghiên cứu các quy luật về tính ổn định và tính trọn vẹn của tri giác, quy luật "bừng sáng" của tư duy Trên cơ sở thực nghiệm, các nhà tâm lý học Gestalt khẳng định các quy luật của tri giác, tư duy và tâm lý của con người do các cấu trúc tiền định của não quyết định. Các nhà tâm lý học Gestalt ít chú ý đến vai trò của vốn kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử.

3.3. Phân tâm học

Thuyết phân tâm do S. Phrơt (1859 - 1939), bác sĩ người áo xây dựng nên. Luận điểm cơ bản của Phrơt là tách con người thành ba khối: cái ấy (cái vô thức), cái tôi và cái siêu tôi. Cái ấy bao gồm các bản năng vô thức: ăn uống, tình dục, tự vệ, trong đó bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ đời sống tâm lý và hành vi của con người, cái ấy tồn tại theo nguyên tắc thoả mãn và đòi hỏi: Cái tôi - con người thường ngày con người có ý thức tồn tại theo nguyên tắc hiện thực. Cái tôi có ý thức theo Phrớt là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài của cái nhân lõi bên trong là "cái ấy" Cái siêu tôi - là cái siêu phàm, "cái tôi lí tưởng" không bao giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép. Như vậy phân tâm học đã đề cao quá đáng cái bản năng vô thức dẫn đến phủ nhận ý thức, phủ nhận bản chất xã hội, lịch sử của tâm lý con người đồng nhất tâm lý của con người với tâm lý loài vật Học thuyết Phrớt là cơ sở ban đầu của chủ nghĩa hiện sinh, thể hiện quan điểm sinh vật hoá tâm lý con người.

Tóm lại, ba dòng phái tâm lý học nói trên ra đời ở cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX góp phần tấn công vào dòng phái chủ quan trong tâm lý học, đưa tâm lý học đi theo hướng khách quan. Nhưng do những giới hạn lịch sử, ở họ có những hạn chế nhất định như thể hiện xu thế cơ học hoá, sinh vật hoá tâm lý con người, bỏ qua bản chất xã hội lịch sử và tính chủ thể của đời

3.4. Tâm lý học nhân văn

Dòng phái tâm lý học nhân văn do C. Rôgiơ (1902 - 1987) và A Maxlâu (1908 - 1972) sáng lập. Các nhà tâm lý học nhân văn quan niệm rằng bản chất con người vốn tốt đẹp, con người có lòng vị tha, có tiềm năng kì diệu.

Maxlâu đã nêu lên 5 mức độ nhu cầu cơ bản của con người xét thứ tự từ thấp đến cao:

- Nhu cầu sinh lí cơ bản,

- Nhu cầu an toàn;

- Nhu cầu về quan hệ xã hội;

- Nhu cầu được kính nể, ngưỡng mộ...

- Nhu cầu phát huy bản ngã, thành đạt.

C. Rôgiơ cho rằng con người ta cần phải đối xử với nhau một cách tế nhị, cởi mở, biết lắng nghe và chờ đợi, cảm thông với nhau. Tâm lý học cần phải giúp cho con người tìm được bản ngã đích thực của mình, để có thể sống một cách thoải mái, cởi mở, hồn nhiên và sáng tạo. Tuy nhiên, tâm lý học nhân văn đề cao những điều cảm nghiệm, thể nghiệm chủ quan của bản thân mỗi người, tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội, chú ý tới mặt nhân văn trừu tượng trong con người, vì thế thiếu vắng con người trong hoạt động thực tiễn.

3.5. Tâm lý học nhận thức

Hai đại biểu nổi tiếng của tâm lý học nhận thức là G. Piagiê (1896 - 1980) (Thuỵ Sĩ) và G. Brunơ (trước ở Mĩ, sau đó ở Anh). Tâm lý học nhận thức coi hoạt động nhận thức là đối tượng nghiên cứu của mình. Đặc điểm tiến bộ nổi bật của dòng phái tâm lý học này là nghiên cứu tâm lý con người, nhận thức của con người trong mối quan hệ với môi trường, với cơ thể và với não bộ. Vì thế, họ đã phát hiện ra nhiều sự kiện khoa học có giá trị trong các vấn đề tri giác, trí nhớ, tư duy ngôn ngữ... làm cho các lĩnh vực nghiên cứu nói trên đạt tới một trình độ mới. Đồng thời họ cũng đã xây dựng được nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể đóng góp cho khoa học tâm lý ở những năm 50 - 60 của thế kỉ XX Tuy nhiên dòng phái này cũng có những hạn chế, họ coi nhận thức của con người như là s ự nỗ lực của ý chí để đưa đến s ự thay đổi vốn kinh nghiệm, vốn tri thức của chủ thể, nhằm thích nghi, cân bằng với thế giới, chưa thấy hết ý nghĩa tích cực, ý nghĩa thực tiễn của hoạt động nhận thức.

Tất cả những dòng phái tâm lý học nói trên đều có những đóng góp nhất định cho sự hình thành và phát triển của khoa học tâm lý. Song do những hạn chế lịch sử, họ thiếu một cơ sở phương pháp luận khoa học biện chứng, vì vậy họ vẫn chưa có quan điểm đầy đủ và đúng đắn về con người, về hoạt động tâm lý của con người... Sự ra đời của tâm lý học mácxit hay còn gọi là tâm lý học hoạt động đã góp phần đáng kể vào việc khắc phục hạn chế nói trên và tiếp tục đưa tâm lý học lên đỉnh cao của sự phát triển.

3.6. Tâm lý học hoạt động

Dòng phái tâm lý học này do các nhà tâm lý học Xô viết sáng lập như L.x Vưgốtxki (1896 - 1934), X.L. Rubinstêin (1902 - 1960), AN. Lêônchiép (1903 -1979), AR. Luria (1902 - 1977)... Đây là dòng phái tâm lý học lấy triết học Mác - Lênin làm cơ sở lí luận và phương pháp luận, xây dựng nền tâm lý học lịch sử người: coi tâm lý học là sự phản ánh thế giới khách quan vào não, thông qua hoạt động.

Tâm lý người mang tính chủ thể, có bản chất xã hội, tâm lý người được hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động và trong các mối quan hệ giao lưu của con người trong xã hội. Chính vì thế tâm lý học mácxit được gọi là "tâm lý học hoạt động".

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Giáo trình Tâm lý học đại cương
  • Tác giả: Nguyễn Xuân Thức (Chủ biên) - Nguyễn Quang Uẩn - Nguyễn Văn Thạc - Trần Quốc Thành - Hoàng Anh - Lê Thị Bừng - Vũ Kim Thanh - Nguyễn Kim Quý - Nguyễn Thị Huệ - Nguyễn Đức Sơn
  • Nguồn: Nhà Xuất bản Đại học Sư Phạm, 2007

Có thể bạn muốn xem

"Like" us to know more!
Knowledge is power
Lấy từ https://vi.kipkis.com/index.php?title=Các_quan_điểm_cơ_bản_trong_tâm_lý_học_hiện_đại&oldid=15425