Qua việc miêu tả nhân vật tác giả dân gian đã bộc lộ nhận thức như thế nào về vũ trụ

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THẦN THOẠI VIỆT NAM  VÀ THẦN THOẠI TRUNG HOA

1.1. Khái niệm về thần thoại

Khái niệm thần thoại được hiểu một cách chính xác như thế nào là vấn đề luôn được các nhà nghiên cứu cố gắng hoàn thiện. Khái niệm thần thoại không chỉ là một từ hay một nghĩa mà là ở nhiều nhân tố hợp thành. Lịch sử hình thành cho đến nay, thần thoại là đề tài phong phú cho các nhà nghiên cứu bởi nó mang một nét sâu đậm về nguồn gốc con người, quá trình cuộc sống, những quy luật thiên nhiên hay làm nên những tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa. Thần thoại nói chung còn là ở nhiều cách hiểu khác nhau ở mỗi sự nghiên cứu của mỗi tác giả. Xuất phát từ nhiều vấn đề khác nhau thì thần thoại còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học. Chính từ những góc độ nghiên cứu khác nhau đó mà mỗi bộ môn nghiên cứu khoa học có quan niệm về thần thoại tương đối độc lập và riêng biệt. Vì vậy thần thoại từ xưa đến nay vẫn là đề tài đa dạng phong phú, được lí giải thông qua nhiều ý kiến. Khái niệm thần thoại được lí giải theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:

1.1.1. Thần thoại hiểu theo nghĩa rộng

Theo như nghiên cứu của Lại Nguyên Ân, thần thoại được hiểu là: “Sáng tạo của trí tưởng tượng tập thể toàn dân, phản ánh khái quát hiện thực dưới dạng những vị thần được nhân cách hóa hoặc những sinh thể có linh hồn mà dù là quái tượng, phi thường đến mấy cũng vẫn được đầu óc người nguyên thủy nghĩ và tin là hoàn toàn có thực. Mặc dù thần thoại tồn tại như những truyện kể về thế gian, nhưng thần thoại không phải là một thể loại ngôn từ mà là những ý niệm và biểu tượng nhất định về thế giới. Cảm quan thần thoại nói chung không chỉ bộc lộ bằng truyện kể, mà còn bộc lộ trong nhiều hình thức khác: trong hành động (nghi lễ, lễ thức, răn cấm), trong các bài ca, điệu nhảy… Đặc trưng của thần thoại thể hiện rõ nhất trong văn hóa nguyên thủy, ở đó thần thoại là cái tương đương với văn hóa tinh thần và khoa học của xã hội cận hiện đại”. [2]

Trong tư duy của con người nguyên thủy, họ nhận thức và lí giải thế giới bằng hệ thống các câu chuyện sáng tạo. Về sau, “thần thoại phân chia thành các hình thái ý thức xã hội như tôn giáo, nghệ thuật, văn học, khoa học, tư tưởng chính trị… thì các hình thái ấy vẫn bảo lưu trong chúng hàng loạt mô hình thần thoại, được chế biến lại để đưa vào cấu trúc mới, thần thoại có cuộc sống thứ hai” [16; 299]. Như vậy theo cách hiểu này thì khái niệm thần thoại là một hình thức tư duy, và từ đó người nguyên thủy nhận thức được về khách thể thông qua phương thức tư duy này. 

Những tri thức thần thoại trong các nghiên cứu của Mác gắn liền với các tri thức triết học. Ông cho rằng: “Thần thoại nào cũng chinh phục, chi phối và nhào nặn những sức mạnh tự nhiên ở trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng. Không thể nào hiểu đúng được thần thoại nếu tách nó ra khỏi xã hội nguyên thủy, nơi mà nhu cầu lí giải, chinh phục tự nhiên và xã hội của con người thời cổ đại gắn liền với thế giới quan thần linh hay cũng gọi là thế giới quan thần thoại. Dùng trí tưởng tượng để hình dung, giải thích và chinh phục thế giới, người nguyên thủy đã tạo ra thần thoại và thần thoại là một hình thái ý thức nguyên hợp đa chức năng, nó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật vô ý thức, đồng thời còn là tín ngưỡng, tôn giáo của người nguyên thủy.”[3; 9]

Như vậy, với những quan điểm trên, Mác vừa lí giải thần thoại đồng thời cũng giải thích được các vấn đề trong xã hội thời khởi nguyên. Thần thoại không chỉ là một thể loại tự sự trong văn học mà còn chứa đựng rất nhiều tri thức thuộc các loại hình khác. Từ các quan điểm trên, ta nhận thấy, thần thoại vừa là hình thức tư duy, vừa là loại hình nghệ thuật, phản ánh xã hội nguyên thủy, thời kì đẹp đẽ “một đi không trở lại”.

1.1.2. Thần thoại hiểu theo nghĩa hẹp

Thần thoại là vấn đề được quan tâm nghiên cứu từ lâu, không chỉ trong nghiên cứu ở Việt Nam mà còn nhiều nước trên thế giới. Trong từng công trình nghiên cứu khác nhau, thì khái niệm thần thoại cũng được trình bày theo nhiều hướng khác nhau.

E.M. Meletinski – nhà nghiên cứu người Nga chỉ ra: “Từ thần thoại có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nghĩa đen là truyền thuyết, truyện thoại. Thường người ta hiểu nó là truyện về các vị thần, các nhân vật được sùng bái hoặc có quan hệ nguồn gốc với các vị thần, về các thế hệ xuất hiện trong thời gian ban đầu, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập nên những nhân tố của nó – thiên nhiên và văn hóa. Hệ thần thoại (mifalogia) là tổng thể những câu chuyện như thế về các vị thần và các nhân vật đồng thời là hệ thống những quan niệm hoang đường về thế giới” [7; 653]. Melentinski đã nhìn nhận thần thoại là thể loại văn học tự sự tiên phong trong văn học dân gian, cho thấy được thế giới con người thời khởi nguyên.

Xem xét các mối quan hệ giữa thần thoại và xã hội nguyên thủy, Ph.Ănghen nhận thấy: “Thần thoại là sản phẩm tinh thần của người nguyên thủy, nội dung của nó mang nặng tính chất hoang đường ảo tưởng nhưng trong đó cũng chứa đựng nhiều yếu tố có giá trị quan trọng về nhiều mặt. Sự nhận thức và lí giải sai lầm, ảo tưởng về thế giới ở trong thần thoại là điều tất yếu không thể tránh khỏi” [13; 315]. Ý kiến này của Ănghen cho chúng ta thấy hai vấn đề mang tính bản chất của thể loại thần thoại. Thứ nhất, đó là sản phẩm tinh thần của người nguyên thủy, mang tính chất ảo tưởng, hoang đường nhưng chứa đựng nhiều yếu tố có giá trị về nhiều mặt. Thứ hai, sự nhận thức và lí giải sai lầm ảo tưởng tồn tại trong thần thoại mang tính tất yếu không thể tránh khỏi, đó chính là dấu hiệu của tư duy nguyên thủy đặc thù mà ta chỉ có thể tìm thấy trong thần thoại mà thôi.

Các nhà nghiên cứu văn học trong nước khi trình bày khái niệm về thần thoại cũng đi theo con đường riêng của mình. Ở Việt Nam, cuốn “Lược khảo về thần thoại Việt Nam” được xem là một trong những nghiên cứu có tính chất tiên phong về thần thoại của Nguyễn Đổng Chi. Thần thoại được ông đưa ra như sau: “Thần thoại là một truyện cổ tích. Trong các truyện cổ tích có thể chia làm hai thứ: một thứ nội dung hoàn toàn nói về người hoặc về vật mà ta có thể gọi là nhân thoại, vật thoại, trong đó không có sức thần phép tiên len vào; một thứ trái lại, bao hàm ít nhiều chất hoang đường quái đản. Thần thoại thuộc về thứ sau” [4; 9]. Cách hiểu trên đây của Nguyễn Đổng Chi đã cho chúng ta thấy mấy vấn đề trong nghiên cứu thần thoại:

– Thứ nhất, ranh giới giữa thần thoại và một số thể loại khác (đặc biệt là với truyền thuyết, cổ tích) là khá mong manh, do đó có những tác phẩm được xếp vào nhiều thể loại.

-Thứ hai, cách thức phản ánh của thần thoại và cổ tích có những nét hết sức giống nhau, từ đó dẫn tới việc phân loại và nghiên cứu thần thoại gặp nhiều rắc rối.

Vũ Ngọc Khánh trong công trình chủ biên của mình là “Kho tàng thần thoại Việt Nam” đã đưa ra nhận định: “Thần thoại là hình thức sáng tác của con người thời đại xa xưa, nó thể hiện ý thức muốn tìm hiểu vũ trụ, lí giải vũ trụ và chinh phục vũ trụ của con người” [10; 5]. Nhận định này đã lần nữa bổ sung và khẳng định sự tồn tại của thần thoại Việt Nam.

Trong giáo trình “Văn học dân gian Việt Nam” do Đinh Gia Khánh làm chủ biên, khái niệm thần thoại được đưa ra: “Thần thoại là hiện tượng văn hóa tinh thần ra đời từ khá sớm. Theo quy luật phổ biến, thần thoại chủ yếu ra đời trong xã hội cộng đồng nguyên thủy, vào những thời kì xa xưa của các xã hội trước khi có giai cấp. Thần thoại phản ánh một cách kì diệu nhận thức về vũ trụ, về công cuộc đấu tranh thiên nhiên, sinh hoạt xã hội và tư duy xã hội ở các tộc người anh em từ thời cổ sơ” [9; 585].

Cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, Lê Bá Hán chủ biên trình bày khái niệm thần thoại như sau : “Thần thoại còn gọi là huyền thoại. Là thể loại truyện ra đời và phát triển sớm nhất trong lịch sử truyện kể dân gian các dân tộc. Đó là toàn bộ những truyện hoang đường, tưởng tượng về các vị thần hoặc những con người, những loài vật mang tính chất kỳ bí, siêu nhiên do con người thời nguyên thủy sáng tạo ra để phản ánh và lí giải các hiện tượng trong thế giới tự nhiên và xã hội theo quan niệm vận vật có linh hồn (hay thế giới quan thần linh) của họ” [8; 250]. Dựa vào những quan điểm được nêu ra ở trên, ta nhận thấy được rằng khái niệm thần thoại được xem xét, nghiên cứu một cách toàn diện hơn. Quan điểm đó không chỉ nêu ra thời gian ra đời mà bên cạnh đó đối tượng, nội dung hay cách thức thể hiện đều được trình bày. Theo lối tư duy này, người nghiên cứu có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn.

Từ các cơ sở trên ta có thể đưa ra cách hiểu về thần thoại theo cách chung nhất là: Thần thoại là một thể loại tự sự của văn học dân gian phản ánh thế giới con người nguyên thủy theo “phương thức thần thoại”. Nhìn chung, mỗi nhà nghiên cứu lại trình bày khái niệm về thần thoại theo quan niệm của mình, đó là vấn đề còn tồn tại nhiều ý kiến. Tuy còn tồn tại những ý kiến khác nhau nhưng suy cho cùng thì trong mỗi quan điểm ấy vẫn tồn tại những nét giống nhau. Điều đó làm cơ sở nền tảng cho người nghiên cứu có cái nhìn tương đối toàn diện về thể loại.

1.2. Thần thoại Việt Nam

Có thể thấy đại bộ phận thần thoại đều đề cập đến việc giải thích những hiện tượng tự nhiên có ảnh hưởng đến nông nghiệp như mưa, bão, gió, nước lũ… Ở thời kỳ đồ đá mới trở về trước chúng ta chưa thấy dấu vết gì chứng tỏ lúc này đã có nghề nông nghiệp nguyên thủy ra đời. Cho nên có thể kết luận rằng thần thoại chưa phải là sản phẩm tinh thần của giai đoạn lịch sử này.

Muốn có điều đó phải đợi đến thời đại sau này khi thực tiễn xã hội đòi hỏi phải giải thích tự nhiên để tiến hành sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp; đòi hỏi phải tìm hiểu xã hội và giải thích địa vị, tác dụng của các tập đoàn xã hội trong sản xuất, cũng như khi năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa của tư duy con người đã đạt đến mức có thể tạo ra được những cốt truyện để thuyết minh, những tình tiết mạch lạc, có hệ thống. Lẫn với những đồ bằng đồng, người ta còn đào được ở Đông Sơn một mũi giáo bằng đồng và sắt tiếp hợp và các vật khác bằng sắt. 

Nếu như trong giai đoạn trước người ta mới biết cải biến những vật sẵn có trong tự nhiên như cành cây, hòn đá để làm công cụ hoặc mới biết nặn đồ gốm, thì bây giờ con người đã tổng hợp được tri thức, sáng kiến của mình và vận dụng nó để chế tạo ra những công cụ tinh vi, phức tạp như lưới mác, mũi tên, trống đồng… mà trước đó con người chưa bao giờ làm được. Đối với nền sản xuất của xã hội thì tác dụng của những công cụ lao động bằng đồng này nhất định có ý nghĩa lớn hơn, trực tiếp hơn, hiệu quả hơn nhiều so với rìu đá, búa đá. Còn về đồ gốm thì tuy là một bước tiến quan trọng nhưng vẫn chỉ có tác dụng hạn chế trong phạm vi sinh hoạt của con người hơn là có tác dụng trực tiếp đến sản xuất. Công cụ sản xuất mới xuất hiện đã thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của xã hội.

Nghề săn bắn và đánh cá phát triển mà nhất là nông nghiệp nguyên thủy ra đời đem lại cho con người nguồn lương thực dồi dào hơn. Dần dần người ta có ý niệm nuôi gia súc làm lương thực dự trữ. Người ta ước đoán xã hội có những người chuyên làm về những công cụ bằng động như giáo, mác, tên, lưỡi cuốc, trống đồng… chắc rằng thủ công nghiệp đã trở thành một ngành sản xuất độc lập. Như thế tức là công cụ bằng đồng xuất hiện đã đẩy mạnh nền sản xuất xã hội đồng thời cũng đã mở rộng rất nhiều phạm vị tác động vào tự nhiên của con người. Địa bàn hoạt động càng được mở rộng thì lại đòi hỏi con người càng phải giải quyết nhiều khó khăn, càng buộc con người phải tiến lên một bước tìm hiểu và giải thích tự nhiên.

Về săn bắn và chăn nuôi cũng vậy. Khi thú vật săn được ăn không hết phải để dành đến hôm sau, nghề chăn nuôi nguyên thủy ra đời thì đồng thời cũng xuất hiện những mâu thuẫn mới trong lĩnh vực này. Con người tiến dần từ nông nghiệp nương rẫy đến nông nghiệp đồng bằng. Trong quá trình đó con người phải đấu tranh với tự nhiên. Chính vì thế có sự tác động đến thế giới bên ngoài. Khi canh tác con người đặt ra các câu hỏi: do đâu lại có mưa, gió, sấm sét? Tại sao thì nắng gắt làm cho cây cối khô cằn, khi lại mưa tràn trề gây lên ngập lụt, làm khó khăn việc canh tác của con người? Hiện tượng lũ lụt, hạn hán là tại đâu?…

Như chúng ta biết, sức sản xuất trong: nông nghiệp, chăn nuôi, thủ công nghiệp… ở thời đại đồ đồng rất phát triển. Sức sản xuất tăng cao giúp cho con người có thể sản xuất được nhiều số lương thực tối thiểu mà họ cần thiết để sinh sống. Do đó xã hội đã có sản phẩm dư thừa và chế độ tư hữu nguyên thủy ra đời.

Lúc này trình độ tri thức của loài người đã tương đối phát triển, khả năng phân tích và tổng hợp, trừu tượng và khái quát đã đạt đến mức độ có thể giải thích thế giới hoặc bước đầu nhận biết để cải tạo thế giới mặc dầu rằng nó còn rất sơ khai. Tất cả những yêu cầu đấu tranh sản xuất và đấu tranh xã hội trên cơ sở đồng thời là điều kiện quyết định ra sự ra đời và phát triển của thần thoại và cũng chính vào lúc mà xã hội tiến đến giai đoạn đồ đồng là lúc tổ tiên chúng ta có đầy đủ điều kiện để sáng tác thần thoại.

Thần thoại là sản phẩm tất yếu của giai đoạn xã hội thời nguyên thủy đang chuyển sang chế độ nô lệ. Tóm lại ta có thể kết luận rằng mặc dù các truyện thần thoại đều bao gồm tính chất hoang đường, thần linh của nó nhưng sứ mạng chủ yếu của nó vẫn là phục vụ cho sản xuất, cho cuộc đấu tranh chống áp bức, chống ngoại xâm. Ra đời do những nhu cầu lịch sử và trên cơ sở một điều kiện nhất định của trình độ sản xuất, thần thoại Việt Nam thể hiện lòng ước muốn và cố gắng nhận thức về vũ trụ, thế giới, vươn lên trong lao động, và đấu tranh của tổ tiên người Việt Nam chúng ta.

Như vậy có thể nói, thần thoại Việt Nam hình thành từ ba nguồn chủ yếu. Một là, mối mâu thuẫn giữa nhu cầu lí giải các hiện tượng tự nhiên với trình độ non nớt về giới tự nhiên của ngày xưa. Hai là, khát vọng ngự trị thế giới tự nhiên, chinh phục tự nhiên của con người. Ba là, khát vọng lí giải các mối quan hệ mới xuất hiện và ngày càng đa dạng giữa con người với chính mình, với người khác giữa cộng đồng này với cộng đồng khác.

1.3. Thần thoại Trung Hoa

Thần thoại Trung Hoa là một bộ phận quan trọng không chỉ với văn học Trung Quốc mà còn là phần không thể thiếu trong văn học nhân loại. So với thần thoại Hy Lạp hay thần thoại Ấn Độ thì thần thoại Trung Hoa thiếu đi tính hệ thống, có nhiều lí do dẫn đến tình trạng này. Nhưng với những thành quả còn tồn tại, nhân loại không thể không thừa nhận sự kì vĩ của nó. Những mẩu câu chuyện, mẩu nhỏ của thần thoại được lưu giữ trong nhiều sách cổ của Trung Quốc như Sơn hải kinh, Trang Tử, Hoài Nam Tử, Sở Từ… sau đó các nhà nghiên cứu đã xâu chuỗi lại để có được diện mạo rõ ràng hơn.

Dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên sự gắn kết các mảnh vụn còn sót lại của cả một kho tàng thần thoại kì vĩ như vậy không thể thành công mĩ mãn. Hiện tượng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Có thể là do những chuyện thần thoại đó sinh ra từ nhiều nguồn riêng rẽ, có thể không có sự liên quan, liên kết với nhau. Có thể trong quá trình lưu truyền qua thời gian bị thất tán, đứt gãy, không phục nguyên được nữa, hoặc  có thể do con người vô tình làm thần thoại biến dạng, khiến cho sự kết nối các mảnh thần thoại càng khó thực hiện. Tình trạng vụn vặt đó được giải thích trong cuốn “Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc”ở trang 34, 35: “Thần thoại Trung Quốc sở dĩ chỉ còn những mẩu vụn vặt, các thuyết cho là gì vì hai lẽ: Lẽ thứ nhất là nhân dân Trung Hoa, đầu tiên sống ở lưu vực sông Hoàng Hà, thiên nhiên tương đối thiếu thuận lợi, sinh sống đòi hỏi phải cần cù, thành ra trong thực tế mà truất bỏ tư tưởng thần bí, đi đến chỗ không có khả năng tập hợp chuyện cổ để làm một áng văn lớn. Lẽ thứ hai là Khổng Tử ra đời, lấy những vấn đề thực dụng sửa mình, yên nhà, trị nước, bình thiên hạ làm giáo lí, không muốn nói việc thần, những thuyết hoang đường thời thái cổ đều là những điều nhà Nho không nói, cho nên về sau chẳng những không làm được gì cho sáng sủa, lớn lao thêm mà còn để tản mát, mất mát đi nữa. Nhưng xét cho rõ, thì lí do nhấn mạnh hơn là ở chỗ thần với quỷ không phân biệt rạch ròi. Người xưa nói, thiên thần, địa kì, nhân quỷ, nghe như phân biệt rõ ràng, song nhân quỷ cũng làm được thần kì. Người lẫn lộn thì cái tín ngưỡng nguyên thủy còn thì những điều giống với truyền thuyết mỗi ngày xuất hiện không ngừng, những điều cũ đó đã chết cứng đi mà cái mới có cuối cùng cũng không sáng bừng lên được”.

Mặc dù vậy, dù có hệ thống hay chỉ là những mảnh vỡ vụn vặt thì một điều không thể phủ nhận rằng thần thoại Trung Hoa cho thấy sức sáng tạo bay bổng của con người nguyên thủy. Trong “túi khôn” của mình, “người Trung Quốc cổ xưa đã nhân hóa,thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên; thần thánh hóa, anh hùng hóa các nhân vật trong cộng đồng của họ; mỹ hóa, lí tưởng hóa, kì vĩ hóa, kì dị hóa toàn bộ thế giới ấy… (bao gồm cả các nhân vật). Cho nên người ta mới thấy được hai con mắt của ông Bàn Cổ là mặt trăng, mặt trời.

Hay như vua Nghiêu có hai con mắt nhưng lại có đến bốn con ngươi; những tộc người trong cộng đồng ấy không cần ăn, chỉ uống sương nhưng vẫn có thể sống, rồi bay lên bay xuống giữa trời; rồi những con cua to bằng cả hòn đảo, những con chim xòe cánh che kín cả một góc trời; những vị thần đầu người mình rắn, đầu chó mình người hay đầu người mình chim…” [1; 5] Quả thực là một sự tưởng tượng bay bổng đến kì lạ, kì dị.

Nhờ có trí tưởng tượng bay bổng ấy mà người dân Trung Hoa có thể gói ghém, gửi gắm vào thần thoại nhận thức của mình về thế giới, về xã hội, đồng thời qua đó gửi gắm những ước mơ, những khát vọng, hoài bão của chính bản thân con người. Người dân Trung Hoa giải thích có trời và có đất là do “khí nhẹ bay lên tạo thành trời”, “khí nặng thì lắng xuống tạo thành đất”. Hiện tượng nắng nóng, hạn hán gắn với thần thoại của mười mặt trời; loài người ra đời là công tạo sinh từ bàn tay của Nữ Oa. Để trị vì, để bảo vệ cho cuộc sống của con người thì có Thần Nông, Hoàng Đế, vua Nghiêu, vua Thuấn. Chim Tinh Vệ nhỏ bé mà vẫn miệt mài lấp biển, Hình Thiên mất đầu thế nhưng vẫn cố gắng chống lại cường quyền… Chính những điều đó trở thành động lực cho biết bao thế hệ con người từng bước tiến đến hoài bão, khát vọng của mình dù còn nhiều chông gai và vô vàn gian khó.

Như vậy, kho tàng thần thoại Trung Hoa để lại cho xã hội loài người những ý nghĩa nhất định. Đó là những ý thức về hiểm họa, tồn tại cả trong thế giới bên ngoài và ngay cả trong thế giới loài người; đồng thời qua đó gửi gắm một sức sống mãnh liệt, một tinh thần phản kháng, đấu tranh không biết mệt mỏi đối với tự nhiên và xã hội, nhằm vươn đến một cuộc sống thịnh vượng, đầy đủ, ấm no, hạnh phúc hơn.

Có thuyết nói rằng, thần thoại được xuất phát từ trong quá trình lao động của con người, họ tìm kiếm những câu chuyện mang đến tinh thần lạc quan trong xã hội. Thần Thoại Trung Hoa cũng vậy, qua lao động họ thấy và hiểu nhiều với cuộc sống, sáng tạo ra nhân vật chính là niềm tin vào cuộc sống, bài ca, điệu múa sau những lần mệt mỏi, buồn sầu hay thiên nhiên tàn phá con người không yên… Thần thoại là một thể loại sáng tác để gắn chặt hoạt động của nhân dân thời viễn cổ chiến đấu với tự nhiên để duy trì cuộc sống, có quan hệ với cuộc sống và lịch sử viễn cổ. Họ biểu hiện khát vọng chống lại các thế lực siêu hình đang tàn phá tự nhiên hay ảnh hưởng đến con người. Những thế lực đen tối ấy bí ẩn mà con người chúng ta không lường trước được. Con người chúng ta yếu ớt nên khả năng chống lại tự nhiên để sinh tồn là tinh thần vượt khó, là sức mạnh cộng đồng, sức mạnh thần bí mà con người gọi là thần đó. Nhân dân viễn cổ sống theo bầy, sống chung và lao động tập thể, họ sáng tạo ra những công cụ thô sơ để giúp ít cho công việc hằng ngày có từ thời nguyên thủy, kí hiệu trên gỗ, văn tự bằng hình vẽ, âm nhạc và múa nguyên thủy. Đồng thời từ đó thần thoại xuất phát từ nhu cầu khám phá thế giới bí ẩn và tạo nên một tinh thần mạnh mẽ để đấu tranh với tử thần. Thần thoại bước vào xã hội nguyên thủy không ngừng sáng tạo và phát triển cùng với tiến trình lịch sử đất nước. Từ rất sớm, người Trung Hoa nguyên thủy đã sáng tạo ra văn hóa đồ đá, đó là thời kì con người bước vào nhận thức để ý thức về thế giới xung quanh mình. Vào giữa và cuối thời kì đồ đá xã hội dần tiến cao đến xã hội thị tộc “mẫu hệ” như ở lưu vực sông Hoàng Hà, Trường Giang, đó là nơi gắn bó với dòng máu mẹ do vậy mà thần thoại cũng xuất hiện nhiều nữ thần như Nữ Oa, Tây Vương Mẫu, Hy Hòa… Họ là những người sáng tạo ra con người và vạn vật, cải tạo và chinh phục xã hội. Cùng với xã hội “mẫu hệ” là “phụ hệ” ra đời, thần thoại xuất hiện nhiều nhân vật phái nam như Ngọc Hoàng, Thần Nông, Hậu Nghệ… Là những nhân vật phi thường hay là ngoại hình khác lạ với sức tưởng tượng trong thần thoại: kỳ cầm dị thú, hung thần quái vật cùng với thần thị tộc, thần bộ lạc, thần Sấm, thần Mưa… đều không thể tách khỏi những quan niệm đó. Nhận thức và tưởng tượng của con người dần dần phát triển, giữa người và thần, động vật, thiên nhiên luôn là biểu hiện muôn màu của hình thái ý thức ở con người thần thoại xưa và tiếp tục tồn tại. Ý thức đó là do có thể thấy, hiểu, nhìn và với sự quan sát tinh tế mới thấu đáo được cùng tâm linh con người. Qua từng giai đoạn con người cũng có nhận thức hơn thành một xã hội hoàn chỉnh, tách rời thiên nhiên, tiến tới thế giới khác theo mong muốn con người.

Tóm lại, thần thoại Việt Nam hay Trung Hoa đều ra đời từ thời nguyên thủy nhằm mục đích giải thích các hiện tượng tự nhiên, phản ánh đời sống của con người. Thần thoại xuất phát từ nhu cầu khám phá tự nhiên và tạo nên một tinh thần mạnh mẽ để đấu tranh với tử thần. Thần thoại bước vào xã hội nguyên thủy không ngừng sáng tạo và phát triển cùng với sự đi lên của các dân tộc. Qua kho tàng thần thoại hai quốc gia, độc giả thấy được những ý nghĩa con người xưa gửi gắm trong những câu chuyện đó. Đó là những ý thức về hiểm họa cả trong ngoại giới lẫn xã hội loài người; coi trọng con người đồng thời qua đó gửi gắm một sức sống mãnh liệt, một tinh thần phản kháng, đấu tranh không biết mệt mỏi đối với tự nhiên và xã hội, vươn đến một cuộc sống thái bình, đầy đủ, ấm no, hạnh phúc hơn.

CHƯƠNG 2: THẦN THOẠI VIỆT NAM VÀ THẦN THOẠI  TRUNG HOA – NHỮNG BIỂU HIỆN TƯƠNG ĐỒNG

2.1. Tương đồng về nhân vật

2.1.1. Nhân vật là thần

Nhân vật trung tâm trong thần thoại ở Việt Nam và Trung Hoa là thần. Sự tương đồng về nhân vật thần biểu hiện qua những dấu hiệu phổ biến như sau:

2.1.1.1. Đặc điểm ngoại hình

Ngoại giới trong nhận thức của con người còn quá nhiều điều bí ẩn. Mỗi sự vật trong thế giới ấy đều có nguồn gốc cho sự tồn tại. Con người xưa đã sáng tạo ra các vị thần với những hành trạng cụ thể, tạo ra không gian trời đất – nơi mà mọi sự vật trong không gian ấy có thể duy trì sự sống để lí giải về sự nảy sinh của trời đất. Thần thoại được con người xưa sáng tạo ra để lí giải tự nhiên . Do đó, qua khảo sát, ta nhận thấy thần là nhân vật trung tâm trong thế giới thần thoại. Thần thoại ra đời với chức năng cơ bản là đề cập đến ngoại giới và mối quan hệ của thế giới đó với loài người. Nghệ sĩ dân gian đã sáng tạo ra hình ảnh các vị thần để giải thích các hiện tượng tự nhiên, giải thích vũ trụ từ đâu mà có hay loài người từ đâu sinh ra và mỗi sự vật trong thế giới tự nhiên. Cách lí giải của người xưa tuy còn đơn giản, phiến diện và ngây thơ nhưng ta vẫn có thể thấy được khả năng tư duy của con người thời cổ. Những lực lượng tự nhiên có sức mạnh, ảnh hưởng đến đời sống con người, vượt qua khỏi sự tưởng tượng của con người, khiến con người không thể giải thích được. Chính vì vậy các nhân vật thần được xuất hiện, họ hiện lên phong phú đa dạng, có khi hiền dịu, có khi lại hung dữ lắm. Con người xưa nể phục, sùng bái các thần.

Các vị thần được xuất hiện trong thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa được xây dựng đều có ngoại hình to lớn, kì vĩ. Dân gian đã khắc họa nên những vị thần. Những vị thần ấy xuất hiện với tầm vóc sánh ngang với trời đất mênh mang. Phải chăng để mô phỏng tự nhiên nên nhân dân đã khắc họa thần có ngoại hình như vậy? Nói đến nhân vật thần thường gợi cho người đọc xúc cảm về cái đẹp. Belinxki đã nêu lên: “Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của thế giới nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật, đó là một định lí”. Hình tượng các nhân vật thần là sự kết tinh nét đẹp khỏe mạnh của người xưa. Điều này chứng minh cho quan niệm: con người và thiên nhiên đã cùng hòa vào cùng một khối.

Trong kho tàng thần thoại Việt Nam, người xưa đã khắc họa nên hình ảnh của nhiều vị thần để trả lời cho câu hỏi về nguồn gốc của con người và vạn vật. Những vị thần được tưởng tượng ra với những nét chấm phá ban đầu qua những hình tượng cụ thể vừa sống động, hồn nhiên, vừa vươn tới dạng khái quát của tư duy triết học của con người thuở ban đầu. Những nhận thức ban đầu về vũ trụ của Việt tộc gắn liền với hình ảnh trời –  đất. Họ cho rằng vạn vật nảy sinh từ đó. Tuy nhiên, những chuyện thần thoại Việt vẫn mang những nét sáng tạo, nhân văn riêng.

Nguồn gốc hình thành của thế giới trong thần thoại Việt Nam được thể hiện rõ nét qua câu chuyện “Thần Trụ Trời”. Thần Trụ Trời được miêu tả với “thân thể to lớn không biết bao nhiêu mà kể, chân thần bước một bước cứ như bay từ đỉnh núi này sang đỉnh núi kia, từ tỉnh này sang tỉnh nọ” [10; 24]. Nhờ có thân hình to lớn, kì vĩ đến vậy, thần Trụ Trời mới có thể thực hiện được công việc vô cùng quan trọng: khai sáng vũ trụ “một hôm bỗng đứng dậy, dùng đầu đội trời lên cao rồi đào đất đá; đắp thành cái cột vừa to vừa cao để chống trời. Cột càng được thần đắp lên cao chừng nào thì trời, tựa như một tấm màn lớn được nâng cao lên chừng ấy. Thần cứ một mình cầy cục đắp, cột đá càng cao chót vót đẩy trời lên cao mãi” [10; 24].

Biển cả bao la cũng được cai quản bởi các vị thần – thần Biển. “Thần Biển đội lốt một con rùa. Thân hình của thần to lớn đến mức khó có thể xác định được. Thần nằm yên lặng một nơi ngoài biển Đông rộng lớn, không ăn uống, không làm lụng không ngủ. Có thể nói thần không lớn thêm mà cũng không chết.” [10; 26] Phải chăng thân hình to lớn ấy chính là sự mênh mông của biển cả mà người xưa muốn thể hiện?

Người xưa còn xây dựng nên vị thần: “thần Nam” và “thần Nữ” hay còn gọi là “thần Đực” và “thần Cái”. “Thần Đực hay còn gọi là Tứ Tượng, thần Cái gọi là Nữ Oa” [10; 80]. Hai vị thần này được khắc họa với thân hình vô cùng to lớn. Trong dân gian còn có câu ví để khắc họa nên cơ thể vĩ đại của hai thần:

“Bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng
Ông Tứ Tượng mười bốn con sào”

Chính nhờ thân hình kì vĩ ấy mà họ đã làm nên những điều kì diệu mà tưởng chừng như không thể nào làm nổi, những điều tưởng như chỉ có thể xuất hiện trong trí tưởng tượng.

Trong hệ thống thần thoại Trung Hoa, nhân vật thần xuất hiện cũng mang tầm vóc khổng lồ. Tác giả dân gian đã thần thánh hóa các nhân vật ấy. Thần Chúc Long mang ngoại hình “thân dài ngàn dặm, mặt người, mình rắn, da màu đỏ, mắt nhìn thẳng mà mí mắt dựng đứng”. [1; 12]

Ông Bàn Cổ được xây dựng trong hình dạng vô cùng đặc biệt. Ông có thân hình rất lớn. Ông Bàn Cổ được khắc họa “đầu người, mình rắn”, vô cùng to lớn, kì vĩ: “Trong mười tám ngàn năm, trời đất hình thành, những chất trong trẻo tạo nên trời, những chất đục bẩn tạo nên đất. Ông Bàn Cổ ở giữa, mỗi ngày biến hóa chín lần. Thế giới mới chỉ có mình ông nên ông là thần trên trời, thánh dưới đất. Trời mỗi ngày cao thêm một trượng, đất mỗi ngày dày thêm một trượng, ông Bàn Cổ mỗi ngày lớn hơn một trượng. Vì thế, sau mười tám ngàn năm, trời cực cao, đất cực dày, ông Bàn Cổ cực lớn”. [3; 14] Với sức sáng tạo diệu kì, trí tưởng tượng bay bổng của mình, nhân vật thần đã được con người xây dựng mang ngoại hình khổng lồ, lớn lao . Điều đó càng nhấn mạnh quan niệm của người xưa: thiên nhiên và con người luôn hòa vào làm một khối. Điểm tương đồng đầu tiên có thể nhận thấy rõ nét trong hình tượng các nhân vật trong thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa đó chính là việc khắc họa những nét chấm phá về nhân vật thần, xây dựng nhân vật thần với kích thước to lớn, kì vĩ, mang kích thước không gian trời đất.

2.1.1.2. Đặc điểm chức năng

Trong thần thoại, mỗi vị thần được xây dựng lại mang chức năng riêng biệt. “Nhân vật chức năng – nhân vật có những đặc điểm, phẩm chất cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối, không có đời sống nội tâm, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng trong truyện và trong việc phản ánh đời sống. Nhân vật đồng nhất với vai trò mà nó đóng trong tác phẩm”. [8; 228]

Nhân vật thần đều mang hành trạng riêng của mình. Các nhân vật thần ấy có thể đem lợi ích đến cho con người hay gây hại, ảnh hưởng đến thế giới loài người. Con người xưa đã định cho họ một hay vài nhiệm vụ cụ thể trong tự nhiên cũng như đối với con người.

Trong thần thoại Việt Nam và Trung Hoa xuất hiện một số vị thần đầu tiên mang chức năng khai sáng trời đất. Trong thần thoại của người Êđê, thần Aiđiê được khắc họa vô cùng đặc biệt: “Đầu tròn của thần là trời, trán thần nhăn là mây bay lượn, hơi thở thần thành không khí, hai tay thần là hai cây trụ phân chia đất trời” . Ông Bàn Cổ của người Trung Hoa cũng sinh ra từ hỗn mang. “Xưa trời đất còn hỗn độn như một quả trứng gà lớn, ông Bàn Cổ sinh ra ở trong quả trứng ấy” [10; 14]. “Trời mỗi ngày cao thêm một trượng, đất mỗi ngày dày thêm một trượng, ông Bàn Cổ mỗi ngày lớn hơn một trượng. Vì thế, sau mười tám ngàn năm, trời cực cao, đất cực dày, ông Bàn Cổ cực lớn”. [10; 14] Đó là những vị thần đầu tiên trong thần thoại hai dân tộc.

Quan niệm của người Việt cổ về nguồn gốc nảy sinh và quá trình hình thành vũ trụ được thể hiện rõ nét qua hình tượng nhân vật thần Trụ Trời. Nếu còn băn khoăn trời và đất do đâu mà có thì “Thần Trụ Trời” là câu chuyện thần thoại lý giải nguồn gốc sinh ra trời và đất. Và thần Trụ Trời được tưởng tượng với chức năng là “phân cách trời và đất bằng cách đội trời lên”, tạo nên khoảng cách giữa trời và đất. Để làm được công việc đó thì thần Trụ Trời phải có hình dáng to lớn, kì vĩ như đã khảo sát ở trên. Người Việt quan niệm có trời đất như hiện nay còn là do công lao đóng góp của những đôi thần nam nữ mang chức năng khai sáng vũ trụ. Đó là “ông Đực – mụ Cái”, “ông Đùng – bà Đoàng”, “Nữ Oa – Tứ Tượng”, “ông Lộc Cộc – bà Tồ Cô”, …

Nhân vật thần trong những câu chuyện Trung Hoa xưa khi xuất hiện cũng đảm nhiệm chức năng trong thế giới tự nhiên. Thần Hỗn Độn tuy có dáng hình quái đản nhưng lại là vua ở trung tâm trời đất, khi còn đang là một thứ hỗn mang. “Thần Âm, thần Dương được sinh ra từ một chốn u u minh minh… Hai thần phân định ra tám hướng. Thần Âm cai quản đất. Thần Dương cai quản trời. Thế giới được hình thành” [1; 11]. Khi trời đất được hình thành thì xuất hiện thần Cự Linh, dùng thần lực của mình và cái chất của nguyên khí tạo ra núi non, sông suối…

Thần thoại được coi là thể loại tiên phong xuất hiện ngay từ thuở hồng hoang. Lúc bấy giờ trình độ hiểu biết cũng như khả năng tư duy của con người còn nhiều giới hạn. Mưa, bão, hạn hán, gió, mưa, trăng tròn, trăng khuyết… là những điều còn xa lạ đối với người xưa. Thế giới tự nhiên với nhiều biến động nên buộc người xưa phải tìm cách hiểu và lí giải nó. Nhiều thế lực khác bắt đầu tồn tại trong đời sống con người. Chính vì điều đó, con người đã tìm cách lí giải ngoại giới đầy kì bí ấy bằng cách tạo dựng nên nhân vật thần đảm nhiệm từng vai trò riêng.

Thần Biển trong câu chuyện của dân tộc Kinh “thở ra hít vào làm nước triều lên xuống, thần cựa mình thành giông bão.Thần chỉ có mỗi một công việc là hô hấp, khi thần thở ra thì nước biển dâng lên, khi thần hít vào thì nước xuống thấp, làm thành hiện tượng thủy triều” [1; 26]. Chức năng này hoàn toàn phù hợp với ngoại hình to lớn cũng như những hành động của thần.

Thần Nước Cộng Công trong thần thoại Trung Hoa ra đời cũng gắn liền với nước, với nông nghiệp của nhân dân.

Thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa đều có nhân vật thần để lí giải cho hiện tượng hạn hán, lũ lụt. Ở Việt Nam, có hiện tượng này là Thủy Tinh do không lấy được Mỵ Nương – con gái của vua Hùng, cho nên dâng nước để trả thù Sơn Tinh. “Hàng năm, cứ vào tháng sáu, tháng bảy (âm lịch) trời lại mưa to, gió lớn, nước sông dâng lên cao, gây ra lũ lụt. Nhân dân thường nói đó là Thủy Tinh dâng nước lên đánh Sơn Tinh để báo thù.” [ 10; 130] Đối với Trung Hoa, tác giả dân gian lí giải có hiện tượng mưa là do nữ thần Nữ Thi tạo ra, còn nữ thần Bạt làm nên hiện tượng hạn hán “từ cơ thể nữ thần luôn tỏa ra sức nóng ghê gớm. Nữ thần tới đâu, ở đó lập tức bị nóng bức, hạn hán nên mọi người coi nữ thần là thần Hạn hay còn gọi là thần Hạn Bạt” [10; 80]

Như vậy, trong thần thoại, người cổ đại để nhân vật của mình đảm nhiệm công việc lớn lao, kì vĩ. Thần thoại hai nước đã giúp cho thế hệ sau trau dồi thêm kiến thức về một giai đoạn “một đi không trở lại – thời kì khởi nguyên”. Ở đó, con người sống hòa hợp với tự nhiên, hòa vào với thiên nhiên, sống bình đẳng, hồn nhiên, và đặc biệt rất dân chủ. Thần là hình tượng nghệ thuật mang vẻ đẹp độc đáo, tạo nên bản sắc riêng, vẻ đẹp riêng mà nghệ thuật các thời đại sau không thể bắt chước được. Sức khỏe và tài năng của các thần chính là sự thần thánh hóa sức mạnh và trí tuệ của con người. Qua đó, con người Việt Nam cũng như Trung Hoa thời cổ đại muốn gửi gắm ước mơ cháy bỏng, ước mơ muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục tự nhiên, cải tạo vũ trụ.

2.1.2. Nhân vật là anh hùng văn hóa

Người anh hùng văn hóa trong các sáng tác thần thoại Việt Nam và Trung Hoa hiện lên tương đối hoàn hảo. Đó là những con người có sự thống nhất cả về đạo đức lẫn hành trạng. Họ đều là những con người được nhân dân dành những tình cảm đặc biệt như đối với những vị thần. Nói khác đi, họ chính là những vị thần trong lòng người dân. Vì vậy, nhân vật anh hùng văn hóa mang nhiều vẻ đẹp, gắn bó với đời sống nhân dân, chăm lo, sáng chế, góp phần đảm bảo cuộc sống được thái bình, thịnh vượng. Những người anh hùng ấy đem trong mình khát vọng, lí tưởng của dân tộc hai nước.

Người xưa đã xây dựng nên hình tượng nhân vật Lạc Long Quân là tượng đài người anh hùng khai sáng mang nhiều vẻ đẹp. Nữ thần Lạc Long Nữ có một người con trai đó chính là Lạc Long Quân, ở tại nơi thủy cung vô cùng tráng lệ. Hồ Tinh, Ngư Tinh, Mộc Tinh là những con yêu quái dữ tợn, khiến nhân dân vô cùng khiếp sợ, thế nhưng cũng phải chịu khuất phục dưới sức mạnh và trí tuệ của Lạc Long Quân. Chàng hết mực yêu thương nhân dân, nếu dân gặp nguy hiểm, chỉ cần gọi tên thì chàng sẵn sàng xuất hiện, giúp dân trừ hại. Xây dựng nên hình tượng nhân vật Lạc Long Quân, nhân dân ta không chỉ khắc họa nên đó là con người tài đức, mà nhân vật này được xây dựng còn với chức năng lí giải nguồn gốc dân tộc Việt. Lạc Long Quân là tổ tiên của Việt Nam ta. Từ cái bọc trăm trứng của Lạc Long Quân và Âu Cơ mà người Việt đã sinh ra từ đó. Bằng việc khắc họa nhân vật bố Rồng- mẹ Tiên, người xưa đã giải thích được nguồn gốc dân tộc, tự hào mang trong mình dòng giống rồng tiên cao quý. Chính điều này đã khơi dậy trong tâm thức mỗi người dân đất Việt lòng bao dung, niềm thương cảm, sự gắn bó và tinh thần đoàn kết. Bên cạnh đó, lòng tự hào trong họ trỗi dậy, lòng tự tôn lớn hơn bao giờ hết. Với sức mạnh của dòng giống rồng tiên, Lạc Long Quân đã chinh phục được thiên nhiên, giúp dân diệt trừ yêu quái, lập nước ở cả vùng núi và đồng bằng. Hành động này của chàng tượng trưng cho tinh thần quả cảm, sẵn sàng chiến đấu với mọi thế lực gây hại và qua đó cũng thể hiện được khả năng tự chủ của con người. 

Với trí tưởng tượng của người xưa, Sơn Tinh hiện lên với dáng hình kì vĩ, khổng lồ với hoạt động đào sông xây núi, đứng uy nghiêm, hùng dũng. “Sơn Tinh đặt trái núi chắn ngang sông Đà, sông Đà phải đổi dòng chảy. Sơn Tinh không chỉ đắp núi Ba Vì và rải đất tạo thành những dãy gò đồi ở xung quanh núi Tản, ông còn quảy đất đắp thành những trái núi dọc bờ tản ngạn sông Đà, khắp một vùng Thanh Thủy, Thanh Sơn” [10; 142]. Nhờ sự giúp sức của Sơn Tinh mà sông Hồng và sông Đà chảy về xuôi như ngày nay. Trong công cuộc trị thủy giúp dân, thành quả cho sự lao động và trí tuệ của con người cùng với sự kết hợp với cọc gỗ, lưới sắt đã chiến thắng thiên nhiên. Hình ảnh trị thủy này ta bắt gặp ở Trung Hoa thông qua hình ảnh vua Vũ trị thủy mà ta sẽ khảo sát trong phần dưới. Không chỉ là người anh hùng lập nước mà Sơn Tinh còn dạy dân đi săn bắn, hướng dẫn cách tạo ra lửa, bắt cá và cùng dân bảo vệ đất nước. Sơn Tinh hiện lên với tầm vóc sánh ngang tầm vũ trụ, cùng với hiên ngang ngút trời. Hình tượng người anh hùng ấy biểu hiện sắc nét ý chí, quyết tâm, quá trình chiến đấu bền bỉ và lạc quan của dân ta. Sức mạnh phi thường và niềm tin mãnh liệt của người Việt xưa đã tạc vào sông núi cũng chính là thứ mà họ đã gửi gắm vào hình tượng Sơn Tinh.

Khi nói đến người anh hùng văn hóa gắn với lịch sử dân tộc Trung Hoa, thì hình ảnh vua Nghiêu và vua Thuấn là hình ảnh mà ta không thể bỏ qua. Đế Nghiêu, Đế Thuấn là những vị vua anh minh, trong suốt thời gian trị vì đều hết lòng vì nhân dân. Vua Nghiêu dành tâm huyết cả đời lo cho nhân dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Dưới vua, có nhiều người tài sẵn sàng, phò tá, phụng sự vua. Vua nhân đức lại có người tài giúp đỡ nên nhân dân lúc bấy giờ an nhàn, cuộc sống no đủ.

Bên cạnh đó, không thể không kể đến vua Thuấn. Đây cũng là một vị vua hết lòng lo nghĩ cho nhân dân. Do con trai là kẻ chỉ biết ăn chơi, ca hát nhảy múa nên vua Nghiêu, vua Thuấn đã truyền ngôi lại cho Vũ. Đây là người có công giúp nhân dân thoát khỏi nạn lũ. Hành động ấy chứng tỏ ông hết lòng vì nhân dân, muốn có người tốt nhất thay thế mình lo cho dân. Hơn nữa, ông còn đẩy mạnh về âm nhạc, bồi dưỡng đời sống tinh thần cho dân.

Truyền thuyết Trung Hoa còn gắn Vũ với công lao trị thủy. Thực ra công cuộc trị thủy bắt đầu từ trước khi Vũ ra đời. Cha của Vũ là Cổn, vốn là một con rồng, đã ăn trộm đất lở để giúp dân đắp đê trị thủy, nhưng do kém tính toán nên không thành công, Cổn bị trừng phạt và chết. Vũ tiếp tục công cuộc trị thủy thay cha mình. Ông thường phải đánh nhau với thủy thần, phải biến hóa thành con gấu để đào đất trị thủy. Vợ ông tình cờ thấy được chồng mình biến thành con gấu, hoảng sợ bỏ chạy rồi hóa đá, ông chạy theo thét đòi lại con mình là Hạ Khải. Sau này Hạ Khải lên ngôi lập ra nhà Hạ, từ đây cũng bắt đầu lệ cha truyền con nối chứ không còn truyền cho người hiền như xưa. Dưới thời nhà Hạ, dân chúng sung túc quây quần, vui ca suốt đêm, hằng năm vua thường tổ chức những chuyến đi săn. Cũng từ đó mà nhiều cuộc nổi loạn dấy lên nhân dịp này, tiêu biểu là cuộc nổi loạn của Hậu Nghệ.

Như vậy, cuộc sống con người đã được ổn định, hạnh phúc khi có sự hỗ trợ từ các anh hùng văn hóa, anh hùng dân tộc.

2.1.3. Nhân vật là con người

Trong thần thoại, nhân vật là con người cũng giữ vị trí rất quan trọng. Con người trong mỗi câu chuyện ấy được lí tưởng hóa với sức mạnh, với ý chí để làm nên những kì tích, góp phần ổn định cuộc sống ấm no cho loài người. Họ bất tử trong tâm thức của mỗi con người. Người xưa đã thể hiện những khát vọng mãnh liệt, muốn chinh phục làm chủ tự nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình thông qua những hình tượng con người ấy. Thời nguyên thủy, con người đưa ra sự lí giải của mình còn ngây thơ, còn nhiều hạn chế, đôi khi còn là ấu trĩ. Để trả lời cho câu hỏi làm thế nào để chinh phục được thiên nhiên bao la ấy thì hình tượng con người đã được xây dựng mang sức mạnh phi thường. Tác giả dân gian còn bộc lộ khát vọng làm chủ tự nhiên, bắt đầu đi chinh phục lực lượng thần bí bằng việc mở rộng trí tưởng tượng của mình. Hiện tượng tự nhiên từ chỗ không thể chinh phục được đã chuyển sang phục vụ cho con người.

Nhân vật thằng Quải trong truyện “Nữ thần mặt trời và mặt trăng” của dân tộc Kinh là một chàng trai có “thân thể cực kì to lớn và sức khỏe tuyệt vời” [10; 153]. Nhờ có ngoại hình như vậy cùng với sức khỏe phi phường nên nàng Mặt Trăng phải chạy lên cao, cách xa trần gian, Quải đã giúp dân làng tránh được oi bức và hạn hán.  Nhờ công lao của Quải mà “cô ta hốt hoảng, vội vụt bay lên cao, lảng xa ra chỗ Quải đứng. Từ đó trở đi cô nàng không dám xà xuống mặt đất nữa” [10; 154]. Một số truyện khác như “Cường Bạo đại vương”, “Người kiện Thần Gió” hay “Thằn lằn chống voi”…  tiêu biểu cho tinh thần bất khuất của con người trước những lực lượng lớn hơn mình.

Thần thoại Trung Hoa xây dựng hình tượng nhân vật Khoa Phụ. Chàng đuổi theo mặt trời – đó là việc kinh thiên động địa, quá sức đối với người thường cho nên ước vọng ấy không thể được hoàn thành. Trung Hoa cổ đại lúc bấy giờ còn xảy ra nạn hạn hán do các con của Hi Hòa, vợ Đế Tuấn gây ra – mười mặt trời cùng nhau chiếu rọi, thiêu đốt mặt đất. Bà Nữ Sửu được nhân dân tin tưởng, nhưng chưa làm được lễ cầu mưa bà đã chết vì mặt trời tỏa ra sức nóng ghê gớm. Hay “ông già Ngu Công chín mươi tuổi đã di rời được hai ngọn núi Thái Hàng và Vương Ốc có chu vi bảy trăm dặm, cao tới vạn nhẫn” [1; 95] “Kể từ đó, trước cổng nhà Ngu Công là một vùng đất bằng phẳng, đi lại rất thuận tiện từ mặt nam Kí Châu, Bắc Hà Dương tới mặt Bắc sông Hán Thủy không còn bị núi lớn ngăn trở nữa”. [1; 97]

Để có một cuộc sống yên bình hơn thì người xưa đã mơ ước có thể chinh phục thế giới tự nhiên – đó là ước mong chính đáng của con người trong thần thoại Việt Nam và Trung Hoa. Thế giới mênh mông lắm, còn chứa đựng nhiều điều bí ẩn, biến động không ngừng nên trong họ luôn khát khao làm chủ được trời đất bao la ấy. Con người được nhân dân ta khắc họa một cách thần thoại hóa với sức mạnh, ý chí mạnh mẽ để thể hiện được ước vọng của mình. Chính vì thế, hình tượng con người trong thần thoại hai nước không chỉ là những con người bình thường mà họ là những con người đã được thần thánh để trở thành những tượng đài bất hủ.

Bên cạnh việc khát khao làm chủ được thế giới tự nhiên thì mong muốn có cuộc sống ấm no hạnh phúc, giảm bớt sức lao động là một trong những ước muốn mà cả người dân Việt Nam và Trung Hoa đều mong muốn có được. Vì lẽ đó trong thần thoại hai nước có sự xuất hiện của nhân vật mang ý nghĩa này. Thần thoại của dân tộc ta được gửi gắm thông qua nhân vật thằng Cuội trong chuyện “Sự tích thằng Cuội cung trăng”. Ở đó con người gửi gắm ước nguyện được cải tử hoàn sinh, được sống cuộc sống lâu dài bên người mình thương yêu.

Nhân vật Đế Nghiêu, Đế Thuấn là hình tượng tiêu biểu khi nhắc đến những con người có công góp phần cho cuộc sống Trung Hoa ổn định, yên bình. Đế Nghiêu có nguồn gốc xuất thân từ Thiên Đế, là một vị vua hết mực anh minh đối với nhân dân Trung Hoa. Người dân sống dưới thời của ông vô cùng sung túc, không phải lo nghĩ cơm ăn áo mặc, được vui chơi thỏa thích. Đế Thuấn là ông vua biết thực hiện nhiều chính sách đúng đắn, góp phần ổn định cuộc sống nhân dân. Bên cạnh hai vị vua kể trên thì còn phải kể đến vua Vũ và vua Khải là những vị vua cũng có những đóng góp cho cuộc sống của nhân dân thái bình, cường thịnh. Vua Vũ là người có công to lớn giúp Thiên Đế đánh bại tướng Liễu, giúp dân trị thủy thành công, khai sáng ra nhà Hạ.

Như vậy, hình tượng con người trong thần thoại đã được tác giả dân gian lí tưởng hóa, thần thánh hóa biến họ trở thành những con người huyền thoại, bất tử trong tâm hồn nhân dân. Những câu chuyện về con người ấy cũng chính là ước mơ, khát vọng của người xưa về cuộc sống yên bình, giàu đẹp, cường thịnh mà bất kể người Việt Nam hay người Trung Hoa đều hướng đến.

2.2. Tương đồng về cốt truyện

Cốt truyện trong thần thoại Việt Nam và Trung Hoa còn khá đơn giản và ít tình tiết. Phần lớn các câu chuyện ấy thể hiện sự nhận thức và lí giải thế giới một cách giản đơn, ngây thơ. Đi theo cốt truyện này thì thường thấy kết cấu một thần – một nhân vật – một hành động.

Trong thần thoại Việt Nam giải thích sự hình thành thế giới tự nhiên và đời sống con người, nguồn gốc con người và những hiện tượng của tự nhiên và vũ trụ có thể thấy rõ qua một số thần thoại: Thần Trụ Trời, thần Mưa, thần Gió,… Theo thần thoại của người Mnông thì tất cả những gì trong vũ trụ, theo cách nhìn và cách thể hiện của họ, dường như chúng đều có hồn và sống động. Người Mnông tin tưởng rằng ở trên trời, cũng như ở dưới đất đều có rất nhiều vị thần trú ngụ. Vị thần tối cao, toàn diện, toàn năng nhất ở tầng trời là thần Mặt Trời với các tên gọi Yang Nar, Yang TNghe, Yang Măt. Ở tầng trời, quyền lực sau thần Trời là thần Sét (Yang N’glai). Vị thần này là một người đàn ông to lớn, có giọng nói dữ tợn, có thanh gươm chặt ra lửa. Đây là vị thần nửa thiện, nửa ác. Trừng trị những kẻ gây tội ác cho con người là nhiệm vụ chính của thần Sét, do vậy ở vị thần này, phần thiện trội hơn phần ác và thần rất được con người ngưỡng mộ.

Thần thoại của người Bana thì kể rằng “Khi chưa có trời đất vũ trụ, đã có hai vị thần. Thần nam là Bok Kơi Dơi, thần nữ là Ia Kon Keh. IaKonKeh dùng cám vắt ra trời đất, Bok Kơi Dơi thì làm ra mặt trăng, mặt trời và các ngôi sao. Họ sống chung với nhau và sinh được ba người con. Con cả là Ia Pôn ở lại làm thần Trời, hai anh em nam nữ Ia Bok xuống trần gian, trở thành tổ tiên của loài người. Họ được ông bà Bok Kơi Dơi – IaKonKeh cho các giống cây cỏ, chim muông, thú vật xuống làm vui cho mặt đất”. [10; 273]

Người Bana còn hình dung ra thần Sét (thần Bot Gơ Lai) là một vị thần linh thiêng ghê gớm nhất, tay có lông lá, mùa xuân thì ngủ, còn mùa hè thì cầm búa đi tuần tra dưới trần gian…

Thần thoại về vũ trụ của Trung Hoa đã cho thấy sự ra đời của ông Bàn Cổ từ khi trời đất còn hỗn độn như một quả trứng gà lớn (phải chăng là nói đến quả trứng vũ trụ). Đất và trời tách xa khỏi nhau nhờ vào sự lớn lên của ông Bàn Cổ. Nhờ có sự trợ giúp của búa và đục, trời và đất đã Bàn Cổ tách hoàn toàn. “Bản thân Bàn Cổ đứng lên thành cây trụ chống trời. Sau khi Bàn Cổ chết, thịt ông hóa thành đất, xương hóa thành vàng và đá, tóc trên đầu hóa thành các vì sao, lông trên người hóa thành cây cỏ, máu biến thành sông, mồ hôi thành mưa và sương, nước mắt hóa thành các con sông, mạch máu hóa thành các con đường, mắt trái biến thành mặt trời, mắt phải biến thành mặt trăng, hơi thở hóa thành gió, giọng nói hóa thành sấm, và các ký sinh trùng trên mình ông hóa thành con người, thịt biến thành đất đai, tóc biến thành tinh tú, tinh túy biến thành châu ngọc. Đầu Ngài biến thành Đông Nhạc Thái Sơn, hai chân biến thành Tây Nhạc Hoa Sơn, ngực và bụng biến thành Trung Nhạc Tùng Sơn, vai trái biến thành Nam Nhạc Hoành Sơn, tay phải biến thành Bắc Nhạc Hằng Sơn.” [10; 14]. Bàn Cổ không chỉ là đấng sáng thế, mà còn là tổ tiên ban đầu của loài người.

Thần thoại còn tập trung xây dựng những tình tiết, những sự kiện, những con người để ca ngợi những nhân vật anh hùng, nhân vật sáng tạo văn hóa.

Trong thần thoại Việt Nam , hình ảnh các nhân vật anh hùng sáng tạo hiện lên trong trí tưởng tượng của tác giả dân gian gắn liền với quá trình giữ nước và xây dựng đất nước. Nhân dân ta còn xây dựng hình ảnh anh hùng Lạc Long Quân với nhiều chiến tích đánh Mộc Tinh ở Châu Phong, đánh Ngư Tinh ở vùng bờ biển đông nam và cửu vĩ Hồ Tinh ở vùng Long Biên. Sức mạnh cũng như kinh nghiệm trị thủy của dân ta được thể hiện rõ nét thông qua hành động trị thủy của Sơn Tinh. Chàng làm cho đồi núi mọc cao lên để chặn lại dòng nước. Để chống lại sức công phá của nước, Sơn Tinh đã cùng nhân dân gánh đất để đắp đê, đan phên, cạp bờ, bỏ đá làm kè, thả rong ven sông. Không chỉ vậy, Sơn Tinh còn dạy nhân dân đào ao, giếng khơi; chữa bệnh cho dân, hướng dẫn dân khai hoang, săn bắn. Đặc biệt thần cùng nhân dân chiến đấu với quân Thục để bảo vệ nền độc lập nước Văn Lang. Hình ảnh ấy đã đi sâu vào trong tiềm thức của người Việt dẫu thời gian tuần hoàn.Trong tiềm thức của người Việt, người anh hùng khai sáng là bản anh hùng ca từ ngàn đời xưa còn vọng lại, thể hiện rõ niềm kính trọng vô bờ với họ.

hần thoại Trung Hoa cũng đi theo lối ca ngợi anh hùng sáng tạo văn hóa. Hành trạng của các thần hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Để tạo ra loài người, Nữ Oa đã lấy đất hoàng thổ nặn theo bóng của mình in bóng trên mặt nước. Khi đã được tạo ra, con người cần có những thú vui để phát triển cuộc sống của mình, vậy nên Phục Hi ra đời đem lại những sáng tạo cho con người. Ông là người tìm ra lửa, giúp cho nhân dân tránh việc ăn thịt sống, đồng thời tìm ra nhiều loại thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Nhắc đến công lao của nhân vật sáng tạo văn hóa thì phải kể đến câu chuyện của Thần Nông với các tình tiết, sự kiện cho thấy ông là vị đại thiên thần, giúp đỡ nhân dân trong nhiều hoạt động. Thần là ông tổ nghề nông, hướng dẫn nhân dân trồng ngũ cốc, dạy dân cùng nhau mở chợ nhằm mục đích buôn bán hoặc trao đổi lương thực, nâng cao chất lượng đời sống. Ông chế tạo ra đàn Ngũ Huyền để nâng cao, bồi dưỡng đời sống tinh thần cho nhân dân. 

Thần thoại Việt Nam và Trung Hoa đều xuất hiện sớm từ thời nguyên thủy, ra đời nhằm giải quyết nhu cầu về nhận thức về thế giới tự nhiên của con người. Nhìn chung, thần thoại hai quốc gia vẫn còn đơn giản. Sự tương đồng giữa các câu chuyện ấy thể hiện sự nhận thức và lí giải thế giới một cách giản đơn, ngây thơ của người xưa về ngoại quan.

2.3. Tương đồng về mô típ

Trong văn học dân gian, mô típ được hiểu là chi tiết nhỏ nhất tạo nên một cốt truyện, là công thức để triển khai cốt truyện ấy. Chính vì đặc điểm này mà mô típ rất linh động. Nó có khả năng lắp ghép hoặc tách khỏi cốt truyện này và nhập vào một truyện khác. Mô típ trong truyện kể dân gian có khi là những khái niệm khá đơn giản. Nó có thể là những tạo vật khác thường như các vị thần, yêu tinh, con vật biết nói,… hay thế giới thần tiên, nơi mà ở đó tồn tại ma thuật, phép thuật, những hiện tượng tự nhiên khác thường. Mô típ có thể là những mẩu kể đơn giản, ngắn gây ấn tượng và sự thích thú cho người nghe. Dù thuật ngữ mô típ được dùng không chặt chẽ, nghĩa là nó có thể được đưa vào bất kì yếu tố nào trong truyện kể dân gian nhưng để trở thành nhân tố tạo thành cốt truyện thì yếu tố đó nhất định phải có cái riêng, khác thường. Một con nhím thông thường không phải là một mô típ. Một con nhím biết nói, biết nạn lụt sắp xảy ra và biết chỉ cách cho người ta tránh nạn ấy là một mô típ. Một quả bầu thông thường không phải là mô típ, một quả bầu cứu người thoát khỏi nạn đại hồng thủy và sinh ra các dân tộc là một mô típ. Cục thịt, bọc trứng bình thường không phải là mô típ, mà từ bọc trứng hay cục thịt đó phải sinh ra người trong thần thoại của nhiều dân tộc là mô típ. Ở đây mô típ còn là sự khái quát hóa nghệ thuật nguyên sơ, phản ánh những ấn tượng quan trọng nhất và có tính lặp lại mà con người tiếp nhận được trong quá trình quan sát, nhận thức cuộc sống

Như vậy, chúng ta có thể hiểu mô típ: Thứ nhất là những chi tiết nhỏ nhất tạo nên một cốt truyện. Thứ hai là sự lặp đi lặp lại nhiều lần trong truyện. Thứ ba là mang tính chất khác lạ, bất thường, đặc biệt. Mô típ trong thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa có khá nhiều nét gặp gỡ. Chúng ta sẽ cùng đi vào tìm hiểu một số mô típ tiêu biểu để thấy được vai trò của nó trong việc làm nên giá trị cho thần thoại các dân tộc.

2.3.1. Mô típ quả trứng khởi thủy

Tên nướcViệt NamTrung Hoa
Các dạngTừ cái bọc có trăm trứng, sinh ra trăm người con. Trăm người con ấy chia ra, nửa theo cha xuống biển, nửa theo lên núi.Vũ trụ là một quả trứng, sinh ra một vị thần.

Ta có thể thấy mô típ quả trứng khởi thủy xuất hiện trong thần thoại của cả hai nước Việt Nam và Trung Hoa.

Ở thần thoại Việt Nam, khi viết về bọc trăm trứng, Nguyễn Đổng Chi đã viết: “Âu Cơ có mang, đến kì sinh ra được một bọc thịt. Hai vợ chồng cho là quỷ quái bèn quăng ra ngoài đồng. Quá bảy ngày tự nhiên trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng tự nhiên nở ra người con trai. Thấy sự lạ, Âu Cơ đem con về nuôi. Những đứa bé đó chả cần phải bú mớm gì cả, lớn lên như thổi, người nào người nấy khỏe mạnh,trí dũng khác thường”.[ 10; 99] Song “Lạc Long Quân thuộc tính rồng, Âu Cơ lại thuộc giống tiên” [10; 100], tập tính khác nhau, do đó có sự việc năm mươi con theo mẹ về núi, năm mươi con theo cha xuống biển.

Người Việt ta là sự hợp nhất giữa hai tộc người, đó là tộc Âu Việt – tộc người sống trên núi và Lạc Việt – tộc người sống ở đồng bằng. Họ có nét chung trong văn hóa, đó là tín ngưỡng thờ vật tổ. Vật tổ của hai tộc người này là con chim và con rồng. Chim ở trên núi tượng trưng cho mẹ Âu Cơ, rồng là con vật không có thật, tượng trưng cho cha Lạc Long Quân. Cuộc gặp gỡ giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ đã sinh ra cái bọc trăm trứng. Ở đây ta thấy hình tượng vật tổ là chim, rồng là những loài vật đẻ trứng, chính vì vậy đó hình ảnh mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trứng là điều hoàn toàn dễ hiểu và lô gic.Từ cách lí giải nguồn gốc tổ tiên như vậy, mỗi người con đất Việt luôn phải nhớ về cội nguồn, cùng bảo vệ nhau vì trong mỗi người đều mang dòng máu của rồng tiên. Qua đó, chứng tỏ rằng thần thoại dù hư ảo đến đâu vẫn gắn chặt với hiện thực: hiện thực của tình cảm biết ơn tổ tiên, ý thức nguồn cội và khát vọng chinh phục thế giới của nhân loại buổi đầu. Và tất cả những tình cảm đẹp đẽ đó vẫn còn là điều đáng quý đối với chúng ta hôm nay. 

Giống với thần thoại Việt Nam, thần thoại Trung Hoa xây dựng mô típ ấy cũng từ một quả trứng. “Xưa trời đất còn hỗn độn như một quả trứng gà lớn, ông Bàn Cổ sinh ra ở trong quả trứng ấy”. “Trời mỗi ngày cao thêm một trượng, đất mỗi ngày dày thêm một trượng, ông Bàn Cổ mỗi ngày lớn hơn một trượng. Vì thế, sau mười tám ngàn năm, trời cực cao, đất cực dày, ông Bàn Cổ cực lớn”[1; 14]. Không ai biết rõ quả trứng khởi thuỷ từ đâu. Chúng tôi cho rằng quả trứng ấy có thể lúc đầu do một loài chim sinh ra:

Chim -> Trứng-> Thần/ Người

Nếu như huyền thoại quả bầu, giải thích loài người hoặc tộc người được sinh ra từ đó (tư duy vẫn còn gắn với thực vật) thì lối tư duy trên cho rằng chim là khởi đầu cho sự sinh nở thần – người đã gắn với động vật. Do vậy, nguyên lý Đực – Cái bắt nguồn từ đây, chứng tỏ ý niệm về nguồn gốc, tổ tiên đã có phần sáng rõ, dù xét đến cùng, nó vẫn còn rất ngây thơ.

Thông qua mô típ quả trứng khởi thủy, ta có thể thấy phần nào được quan niệm của người xưa về sự tích giống nòi. Thế giới của thần thoại cũng lung linh nhiều sắc màu như bản thân nó vậy.

2.3.2. Mô típ hôn nhân cận huyết

Ở mô típ này, chúng ta lại thấy một phương diện khác, vừa liên quan đến thần thoại lập quốc, lại gửi gắm nhiều ý tưởng kín đáo, thâm trầm.

Trong thần thoại Việt Nam có ghi chép lại rằng: Bấy giờ, có thần Đế Lai đưa em gái của mình là Âu Cơ sang thăm đất Lạc. Nói như sách “Lĩnh Nam chích quái” thì thần Đế Lai cũng thuộc dòng giống Thần Nông ở cõi Bắc. Trong khi đó, Lạc Long Quân có ông tổ là Thần Nông phía Bắc núi Ngũ Lĩnh. Điều đó cho thấy Lạc Long Quân và Âu Cơ không tránh khỏi có bà con họ hàng. Hai người đã lấy nhau, sinh ra cái bọc thịt, từ cái bọc đó nở ra trăm trứng, mỗi quả trứng lại nở ra người con trai, trong đó có Hùng Vương làm vua nước Văn Lang.

Thần thoại Trung Hoa kể rằng: Phục Hy – Nữ Oa là hai anh em ruột.

Lúc đó trên thế giới này xảy ra một trận lụt lớn, loài người không còn sống sót một ai, duy chỉ còn hai anh em sống sót nhờ chui vào quả bầu. Họ thoát nạn, chui ra từ quả bầu và bắt đầu một cuộc tái sinh màu nhiệm: sáng tạo ra loài người, những thứ liên quan đến cuộc sống con người.

Từ những dẫn chứng trên, chúng tôi thấy mô típ hôn nhân cận huyết có trong thần thoại hai nước. Căn nguyên của sự trùng lặp này có thể gắn với chế độ tạp hôn thời nguyên thủy. Thực ra, việc kết hôn giữa những người cùng huyết thống trong xã hội nguyên thủy không phải chuyện tuỳ tiện. Nó thuộc một trong rất nhiều yếu tố cấm kỵ của loài người buổi sơ khai. Việc này chỉ xảy ra trong những trường hợp hết sức đặc biệt hoặc liên quan đến sự kiện quan trọng nào đó như: sự tái sinh loài người, việc cần thiết phải duy trì nòi giống hoặc gây dựng lại cộng đồng. Điều này rất phù hợp với mô típ hôn nhân cận huyết trong thần thoại Việt Nam và Trung Hoa. Nếu đặt chúng dưới sự soi chiếu của nội dung lập quốc, thì chính nhờ những cuộc hôn phối “bất thường” này đã dẫn đến sự sinh nở thần kỳ. Và đằng sau cuộc sinh nở ấy là những con người cũng hết sức phi thường. Chính họ sau này lớn lên, trưởng thành sẽ là những ông vua, anh hùng, đấng sáng tạo. Nhờ bàn tay, khối óc của họ mà đất nước buổi đầu từ trong “trạng thái hỗn mang chuyển sang trạng thái vũ trụ”, nghĩa là từ chỗ trên mặt đất chẳng có gì, trở thành một tổ chức văn hoá.

Ở Việt Nam, chính nhờ các vua Hùng, mới tồn tại nước Văn Lang – Âu Lạc.

2.3.3. Mô típ nguồn gốc xuất thân thần kì

Nhân vật trong thần thoại không đơn thuần là những con người bình thường. Đó là những con người đã được thần thánh hóa, mang những yếu tố thần kì, hư ảo. Chính vì lẽ đó mà nhân vật trong thần thoại Việt Nam và Trung Hoa được sinh ra với mô típ nguồn gốc xuất thân vô cùng đặc biệt.

Trong thần thoại của người Kinh, khi giải thích về nguồn gốc các núi Ba Vì và Tam Đảo, tác giả đã giới thiệu về nguồn gốc xuất thân của nhân vật chàng hết sức thần kì. Người đàn bà kia khi lên núi tìm chồng không được, “một hồi lâu do quá khát nước, bà tìm quanh quẩn hốc cây bên cạnh mộ chồng còn đầy nước mưa, liền gạn lấy uống. Vài hôm sau bà thấy trong người khang khác. Bà có mang và ba năm sau bà sinh ra cậu con trai khôi ngô tuấn tú, lớn nhanh như thổi, cơm không đủ ăn, mỗi bữa ăn hết cả nồi cháo to” 10; 251]. Cậu bé ấy là “người đã chặt những đám núi nhỏ vứt vung vãi xuống vùng xung quanh đó tạo thành vùng trung du chạy suốt từ Hà Bắc qua Bắc Thái đến Tuyên Quang ngày nay” [10; 255].

Khi nói đến nguồn gốc xuất thân của thần Tử (Bắc Đẩu)  và Thần Sinh (Nam Tào), tác giả dân gian xây dựng cũng rất đặc biệt. “Bà mẹ của hai thần già nua mới bắt đầu có thai, đến 69 tháng mới sinh ra hai cục thịt dính máu không đầu, không có tay chân. Một trăm ngày sau từ hai cục thịt đó hóa ra thành hai chàng trai hết sức khôi ngô, tuấn tú, trí nhớ phi thường, có thể nhớ đủ mọi điều ở khắp mọi nơi. Trời thấy điều đó nên cho hai chàng trai đó làm thần, ghi nhớ những việc sống chết của loài người”. [10; 82]

Trong thần thoại Trung Hoa, có thể nhận thấy mô típ xuất thân thần kì này xuất hiện với tần suất khá lớn. Đế Thuấn có xuất thân vô cùng đặc biệt. Ông là một vị vua vô cùng hiền đức, có tấm lòng bao dung. Ông sinh ra trong một gia đình đầy bất hạnh. Cha của Thuấn tên là Cổ Tẩu, ông bị mù cả hai mắt. “Một đêm kia, Cổ Tẩu nằm mơ thấy con chim phượng hoàng ngậm đến cho ông một hạt gạo, cho ông ta ăn và bảo rằng đó là đem dòng giống tốt đến cho Cổ Tẩu. Thời gian sau, vợ Cổ tẩu quả nhiên sinh được một người con trai, đặt tên là Thuấn”.[1; 166] Đế Thuấn không thuộc dòng dõi thần tiên nhưng ông là một vị vua nhân đức, được nhân dân hết sức tôn sùng và kính trọng. Mô típ này ta có thể thấy trong một số câu chuyện khác như: mẹ Thần Nông cảm được rồng thần ở núi Hoa Sơn mà sinh ra ông; Mẹ Hoàng Đế nhìn thấy được Bắc cực quang, cảm ứng mà sinh ra Hoàng Đế; mẹ của Thiếu Hạo cảm được tinh túy của sao Thái Bạch (sao Kim) mà Thiếu Hạo ra đời hay như mẹ của vua Nghiêu cảm được rồng đỏ mà có ông… Con người Trung Hoa luôn tôn thờ thần linh. Họ cho rằng từ thiên nhiên và vạn vật trong trời đất đến con người, cây cỏ đều được thần linh tạo ra và các thế lực ấy đã chi phối mọi khía cạnh trong đời sống của họ. Có lẽ vậy mà các nhân vật trên nếu không miêu tả mang tầm vóc, ngoại hình của thần thì cũng là được phóng đại hóa trong nguồn gốc xuất thân, có nguồn gốc từ thần tiên. Qua đây càng chứng tỏ rằng, đời sống người dân Việt cổ và Trung Hoa không thể thiếu thế lực thần linh giúp đỡ và chở che cho con người, để con người ta có thể sống trong thế giới ấm no, yên bình, hạnh phúc. Nhận thấy được sự tương đồng này có được là do có sự giao thoa về mặt văn hóa giữa hai nước.

2.3.4. Mô típ cột chống trời

Thuở xưa trời và đất còn chưa rõ ranh giới, trời đất là vùng hỗn độn, tăm tối. Vì lẽ đó trong thần thoại hai nước có sự xuất hiện của mô típ cột chống trời.

Nói đến mô típ này trong thần thoại Việt Nam thì phải kể đến Thần Trụ Trời. Được miêu tả với ngoại hình to lớn, kì vĩ “cao lớn vô cùng, chân dài không sao kể xiết, mỗi bước chân thần đi là từ vùng này qua vùng khác, từ đỉnh núi này qua đỉnh núi khác”, điều đó hoàn toàn phù hợp để thần Trụ Trời thực hiện hành trạng lớn lao của mình. Thần vất vả đào đất, khuân đá để đắp lên thành cái cột thật to, chống trời. Cái cột đấy cứ cao dần, cao dần cũng là lúc trời được đẩy lên cao, ranh giới giữa trời và đất được phân rõ. “Khi trời đã cao và khô cứng, thần liền phá tan cột đi, lấy đất đá ném tung ra khắp nơi. Mỗi hòn đá văng đi biến thành một hòn núi hay một hòn đảo, đất tung tóe ra mọi nơi thành gò, đống, thành những dải đồi cao. Vì thế, mặt đất ngày nay không còn bằng phẳng mà có chỗ lõm, chỗ lồi. Chỗ thần đào sâu để lấy đất đá đắp cột, ngày nay là biển cả mênh mông” [10; 24]. Thần thoại của các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam cũng lí giải nguồn gốc vũ trụ. Đây là nội dung chủ yếu của thần thoại Việt Nam. Điều quan tâm đầu tiên của người nguyên thủy là vũ trụ do đâu mà có, ai làm ra trời đất, sông ngòi và các hiện tượng tự nhiên như trăng sao, sấm chớp, mưa.

Trong thần thoại Trung Hoa, người thực hiện công việc chữa cột chống trời, luyện đá ngũ sắc vá trời xanh đó chính là Nữ Oa. “Trời vào thuở xưa đó được chống bằng bốn cột trụ. Chẳng may những cột trụ đó bị hư hỏng đi,trời xụp xuống, chín châu bị phân liệt. Dân chúng rơi vào cảnh trời không che, đất không chở, nơi cao thì lửa cháy phừng phừng chẳng ai dập tắt nổi, nơi thấp thì hồng thủy lan tràn chẳng ai ngăn cản được. Những loài mãnh thú bắt dân làng ăn thịt, những loài ác điểu dám sà xuống tha đi những người già lão và con trẻ yếu đuối. Bà Nữ Oa bèn đứng ra luyện đá ngũ sắc để vá trời xanh. Bà chặt chân một loài giải lớn ở biển để giữ chữa bốn cột trụ chống trời. Bà lại giết được con rồng đen cực lớn để cứu châu Kỳ khỏi bị mưa lụt” [1; 17]. Khi thực hiện xong công việc vá trời, Nữ Oa lấy tàn than ở lò luyện đá ngũ sắc, ngăn chặn trận đại hồng thủy, cứu lấy nhân dân, đồng thời bà tiêu diệt được các ác quỷ, cuộc sống của người dân trở lại bình yên.

2.3.5. Mô típ nạn hồng thủy

Thần thoại dân tộc Việt Nam và Trung Hoa còn lưu giữ ký ức về trận lụt lớn, về nạn đại hồng thuỷ, nó giống như một đại hoạ khủng khiếp khiến cho loài người bị tuyệt diệt và cùng với đó là ký ức về sự tái sinh của con người nhờ những quả bầu kỳ lạ.

Nói về trận hồng thuỷ ở Việt Nam, người Giáy có truyện “Nước ngập trời”. Vào năm nọ, “mặt đất mưa mấy tháng liền không dứt cơn, hạt mưa to như quả mận. Núi non sạt lở, đất nhão thành bùn, cây to cây nhỏ trôi ầm ầm về phía cửa trời và đá tảng cũng lăn theo đến đó… Nước lụt dâng lên vùng thấp, dâng lên núi cao, ngập hết mọi nơi, nước dâng lên tận trời làm cho người và vạn vật đều chết hết” [10; 396].

Người Thái có thần thoại “Hồng thuỷ”: “Ngày xưa có Trời, Đất, Cỏ, Cây. Trời giống hình cái nấm khổng lồ làm bằng bảy miếng đất, ba khối đá, chín con sông… Trời bỗng trở nên tối tăm, sấm sét nổi dậy. Trong vòng một ngày có trên một trăm ngàn trận mưa rơi đầy mặt đất. Tất cả khe suối, ao hồ đều tràn ngập. Đồng ruộng cũng đầy cả nước. Nước dâng cao lên đến tận Trời, tất cả mọi sinh vật sống trên mặt đất đều chết sạch”.[10; 694]

Người H’mông kể về “Hồng thuỷ” với “những trận mưa liên tiếp luôn bốn mươi ngày đêm, nước dâng lên ngập mặt đất, dâng lên đến tận trời cao”. [1; 410]. Người Lô Lô thì kể “loài rồng dâng nước lên khắp nơi trên trái đất, nước dâng lên ngày càng cao. Cuối cùng những ngọn núi cao nhất cũng phải chịu ngập trong nước, mọi người đều bị chết đuối hết”. [10; 498]

Người Bana kể: “Nước dâng lên ngập sông, ngập biển và đến tận trời. Tất cả mọi sinh vật đều chết hết, trừ có hai người, hai anh em trai và gái vào nấp trong một chiếc trống lớn. Họ đem theo mỗi giống vật một đôi… Nước lụt bảy ngày bảy đêm. Nước rút… hai anh em lấy nhau, sinh đẻ nhiều con cái”.[10; 277]

Người Raglai cũng ghi lại truyện “Hồng thuỷ” : “Nước lụt từ biển dâng lên đến ngọn núi, nước lên cao đến tận trời. Có hai người ở miền Thượng, một trai một gái chui vào một cái trống… Sau trận lụt lớn ấy, tất cả đều chết sạch, chỉ trừ hai người còn sống sót ở trong cái trống. Họ lấy nhau rồi dần dà sinh sôi nảy nở ra loài người”. [10; 603]

Sau trận hồng thuỷ, con người đã được tái sinh. Hệ thống thần thoại các dân tộc đã lưu truyền rộng rãi những câu chuyện kể về “Quả bầu” nở ra hàng vạn người con với nhiều giống người. Loại truyện “Quả bầu” này có trong kho tàng dân gian Đông Nam Á và nó đã được dân tộc hoá tuỳ theo sự sáng tạo của từng dân tộc. Truyện “Quả bầu” của người Thái ở Tây Bắc thì kể rằng người Thái, người Xá được dây bầu mọc bên bờ sông Nậm Rốn đẻ ra,… Truyện của người Thái, người Dao đều kể: “Sau trận lụt, chỉ có hai anh em nhà kia sống sót nhờ nấp trong quả bầu nên họ đành phải lấy nhau. Ba năm sau, họ sinh ra một quả bầu. Thấy trong quả bầu có tiếng ồn ào, họ đem dùi ra đục. Một cặp nam nữ mình đen ra trước. Đó là người Xá. Người Thái, người Lự, người Lào, sau rốt là người Kinh chui ra. Con cái nhiều quá, nuôi không xuể, hai bố mẹ mới phân chia các con đi các ngả kiếm ăn. Cặp con cả ở lại với bố mẹ là tổ tiên của người Xá hiện nay. Cặp con út đi xa xuống đồng bằng là tổ tiên người Kinh ngày nay vậy” (Thái) [10; 699]. Hoặc là “Từ vỏ, cùi, hạt bầu đều hoá thành người. Vỏ bầu ít hoá thành người Dao, người Mèo ở trên núi cao. Cùi bầu nhiều hơn thì hoá thành người Tày người Nùng ở lưng chừng núi. Còn vô vàn hạt bầu hoá thành người Kinh (Việt) ở vùng thấp, vùng đồng bằng đông đúc” (Dao) [10; 355]. Truyện “Quả bầu” của người Khơ Mú nhận rằng nguồn gốc của tộc người này là từ một quả bầu mẹ sinh ra. Người ta tin rằng quả bầu ấy có hồn thiêng. Truyện “Quả bầu” ở Tây Nguyên thì kể rằng nó đã đẻ ra người Vân Kiều, người Bru, người Khau, ngoài ra còn có cả người Xrô (Xô), người Cùi ở bên Tây Trường Sơn của nước Lào nữa.

Thần thoại của một số dân tộc Tây Nguyên đã khẳng định sự sinh ra của loài người, của các dân tộc Việt Nam đều từ một gốc. Thần thoại Bana kể lại rằng các dân tộc anh em (bao gồm người Bana, người Êđê, người Giarai, người Mnông, người Xtiêng, và người Kinh) đều từ ông tổ BokXơgơr sinh ra…

Thần thoại “Hồng thuỷ” của người Lô Lô nói con cái của hai người sống sót sau trận lụt được sinh ra từ cục thịt. “Họ xẻ ra thành nhiều mảnh đem vứt dưới gốc nhiều loại cây khác nhau: đào, lê, mận, táo… Miếng vứt ở gốc đào biến thành làng họ Đào, miếng vứt ở gốc lê mang họ Lý (Lê). Loài người sinh sôi đông đúc, nói tiếng nói khác nhau. Và các dân tộc đều là anh em, đều chung một tổ tiên, chung một bọc mà ra”. [10;503]

Còn ở thần thoại các dân tộc khác như thần thoại Bana thì lại kể nguyên nhân là do tai hoạ tại trời gây ra. Như truyện “Bok Xơgơr” kể rằng: Con cháu ông Xơgơr dựng nhà rông lên quá cao đã làm Trời tức giận, Trời còn làm cho anh em không nghe, không hiểu được tiếng nhau. Họ bèn ôm nhau khóc lóc rồi chia tay nhau. Từ đấy anh em mỗi người một ngả, ra ở những chỗ khác nhau và dần dần trở thành các dân tộc anh em ngày nay… “Kẻ nói tiếng Bana thì đến xứ Bana, những người nói tiếng khác nữa thành ra tổ tiên của các dân miền núi như Giarai, Xêđăng, Êđê, Xtiêng, Raglai… Chỉ có người con cả nói tiếng Kinh thì ở lại với cha mẹ, họ khôn ngoan và giàu có hơn các em”. [10; 276]

Trong thần thoại Trung Hoa, mô típ này cũng xuất hiện trong việc lí giải nguồn gốc loài người Trung Hoa. Nguyên nhân của nạn hồng thủy là do cuộc đánh nhau giữa một vị thần từng ở trên trời với thần Sấm (Lôi Công). Người xưa đã trình bày nguyên nhân trên theo hai cách. Một vị thần trên trời và thần Sấm có mối thâm thù với nhau từ xưa nên vị thần nọ đã xuống trần gian sinh sống. Vì vậy, thần Sấm đã tạo ra một cơn đại hồng thủy giết chết kẻ thù của mình. Theo cách kể khác, thì hai người vốn là hai anh em nhưng giữa họ đã nảy sinh tranh chấp về việc phân quyền cai quản trời đất nên đã dẫn đến mâu thuẫn sâu sắc. Thần Sấm tức giận không cho mưa xuống, sau đó người anh em đã lấy trộm mưa trên trời đem cho loài người, thần Sấm nổi giận, gây ra trận đại hồng thủy.

Trong chuyện “Anh em nhà Hồ Lô”, nguyên nhân của trận hồng thủy được lí giải theo cách khác. Nguyên nhân là do thần Sấm – thần quản lí việc tạo mưa, lười nhác không chịu làm công việc của mình, nên đã nhờ đến người thợ săn nọ có pháp thuật để cầu mưa. Chính điều đó khiến cho thần Sấm nổi giận. Sau khi đã cho hai anh em ấy chiếc răng của mình, như sự báo đáp cho việc giúp đỡ thần, Thần Sấm quay về trời, dâng nước làm ngập hết cả mặt đất. Chiếc răng đó của thần Sấm ra hoa kết trái biến thành quả bầu, giúp cho hai anh em sống sót qua trận hồng thủy. Trên mặt đất chỉ còn lại có hai anh em, hai người cần lấy nhau để duy trì hôn phối.

Tiểu kết

Qua việc phân tích những đặc trưng thể loại tiêu biểu, ta có thể thấy thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa có nhiều điểm tương đồng. Đó là sự tương đồng trong cách xây dựng hình tượng nhân vật là thần hay những nhân vật là con người hiện thực được thần thánh hóa. Bên cạnh đó, sự tương đồng về cốt truyện và mô típ cũng cho thấy tính chất gần gũi trong tư duy  nghệ thuật, trong quan niệm thẩm mĩ của tác giả dân gian. 

CHƯƠNG 3: THẦN THOẠI VIỆT NAM VÀ THẦN THOẠI  TRUNG HOA – NHỮNG BIỂU HIỆN KHÁC BIỆT

Ngoài những điểm chung thì thần thoại mỗi dân tộc lại có những nét riêng biệt chứng minh cho tính chất “đặc thù”  mỗi nền văn hóa, mỗi khu vực  địa lý. Điều đó đã làm nên nét riêng không thể trộn lẫn trong thần thoại mỗi quốc gia.

3.1. Khác biệt trong cách thức miêu tả và xây dựng nhân vật

3.1.1. Ngoại hình và diện mạo

Nhân vật trong thần thoại Việt Nam được khắc họa hiện thực, gần gũi với con người. Hình dung của con người xưa về sự sống được thể hiện rõ nét thông qua hình dáng nhân vật thần.

Trong thần thoại Việt Nam, thần Núi là vị thần gần gũi với đời sống con người. Thần thường hiện lên với ngoại hình là ông già râu tóc bạc phơ. Con người khi thực hiện công cuộc kiếm sống của mình như kiếm củi, lấy gỗ, săn thú đều nằm trong địa phận của thần. Vì vậy, con người rất quý trọng thần Núi, trong đó không thể không kể đến thần núi Tản Viên, vị thần bảo hộ con người trong những lúc nguy nan, gặp nạn. Núi non là những gì to lớn trong thế giới tự nhiên, nên việc miêu tả thần Núi như vậy có thể thấy trong cuộc sống con người ở bất cứ thời đại nào thì núi là người bạn không thể thiếu,luôn là người đồng hành cùng con người trong cuộc mưu sinh.

Trong trí tưởng tượng bay bổng của dân gian Việt Nam, thần Văn là người có học thức, văn hóa nên vị thần này được khắc họa trong hình dáng của “người lớn tuổi, nghiêm trang mặc áo nhà quan, tay cầm một cái hốt” [10; 84]. Còn thần thi cử lúc nào cũng bận rộn suy nghĩ việc học hành, cho việc học tập của mình nên hiện thân lên là một vị thần xấu xí, chỉ xếp sau thần Sét. Nhân dân thường hình dung ra thần với “mặt mũi nhăn nhó, tay trái cầm một cái nghiên, tay phải cầm bút lông, người nghiêng ra trước, chân trái nhấc lên phía sau như sắp chạy, thân hình để trần, chỉ quấn qua miếng vải phía dưới, còn chân phải đạp lên lưng con rùa”.[10; 84]

Thần Tài là vị thần biểu trưng cho sự thành công, thịnh vượng và may mắn cho con người nên thần được nhân dân hình dung ra là “một ông lão béo trắc, cười toét miệng, tay phải cầm quạt phe phẩy, tay trái cầm một cái túi đựng vàng” [10; 86].

Tác giả dân gian đã khắc họa nên hình tượng ba thần Phúc, Lộc, Thọ với hi vọng mang lại sự may mắn, hạnh phúc cho con người. Thần Thọ hay thần sống lâu hiện lên là “một cụ già râu tóc bạc phơ, đầu sói cao, tay phải chống gậy cong queo, tay trái cầm quả đào tiên, thường đi với con rùa hoặc con cò là hai con vật có tiếng sống lâu năm, tượng trưng cho sự trường thọ.” [10; 83] thần Lộc thường cưỡi nai (Lộc), thần Phúc thì đi đâu cũng có dơi theo hầu, ăn mặc có vẻ quan cách, khác hẳn vẻ tiên ông đạo cốt của thần Thọ.

Trong thần thoại Việt Nam còn xuất hiện hình ảnh của các nữ thần, với ngoại hình và tính cách gần gũi với đời thường. Thần Lúa là một cô gái xinh đẹp, dáng người ẻo lả và có tính hay hờn dỗi. Thần Mặt Trăng là một cô em có tính tình nóng nảy. Nữ thần nghề mộc hiện lên dưới dạng người đàn bà đã già với mái tóc trắng như cước và vẻ mặt bí hiểm. Xây dựng hình tượng nữ thần nghề mộc trong hình dáng như vậy để cho thấy đó là con người kinh nghiệm từng trải, có thể truyền bá cho nhân dân những kinh nghiệm, những bài học tuyệt nhất. Dân gian miêu tả thần Lửa là một bà già khô khan bà hung dữ. Với trí tưởng tượng của mình thì việc miêu tả đó hoàn toàn chính đáng, phù hợp với thực tế khách quan: Lửa rất dữ dội, cháy nhanh và gây thiệt hại lớn.

Đúng như M.Gorki nói: “Người xưa rút ngay trong sự kiện thực tế  phần cốt yếu của những sự kiện ấy, rồi thể hiện nó ra bằng một hình tượng và như thế chính là hiện thực”.

Khác với thần thoại Việt Nam, thần thoại Trung Hoa khi xây dựng hình tượng các nhân vật thần chủ yếu là bán thần. Nhân vật ấy hiện lên gồm có hai loại: loại thứ nhất  nhân vật có cơ thể với phần đầu giống con vật, phần mình giống người; loại thứ hai cơ thể có phần đầu giống người, phần mình giống con vật. Song thông qua khảo sát thì hình tượng các nhân vật thần chủ yếu được xây dựng theo loại hai: phần đầu là người, phần mình là con vật. Ngoại hình các nhân vật thần trong thần thoại Trung Hoa được miêu tả khá tỉ mỉ và chi tiết.

Nữ thần Nữ Oa có “đầu người mình rắn”,với diện mạo ấy ta có thể thấy vị thần này rất thông minh, nhạy bén và đặc biệt thần có sự quan sát tinh tế. Thần có thể tạo ra con người bằng đất hoàng thổ, khi con người đã được tạo ra, thấy họ buồn, thần còn biết chế tạo ra âm nhạc là chiếc khèn để cùng họ vui ca, múa hát. Là nữ thần nhưng Nữ Oa lại có sức khỏe bền bỉ để kiên trì luyện đá ngũ sắc vá trời, giúp cho loài người tránh được nạn hồng thủy, khỏi ác quỷ. Đặc biệt để giúp con người duy trì nòi giống, thần còn chỉ dạy cho con người đến với nhau.

Sự xuất hiện các nhân vật là bán thần trong thần thoại Trung Hoa khá nhiều. Thần Âm, thần Dương “thân dài ngàn dặm, mặt người, mình rắn, da màu đỏ, mắt nhìn thẳng, mí mắt dựng đứng”. Thần Phục Hi dạy dân cách tạo ra lửa, dạy dân cách trồng trọt chăn nuôi mang hình dạng nửa trên là người, nửa phía dưới là mình rắn.

Ngu Cường đảm nhiệm hai nhiệm vụ: vừa là thần Gió, vừa là thần Biển. Khi mang từng nhiệm vụ khác nhau, tướng mạo của thần cũng có sự biến đổi để phù hợp, thuận tiện cho công việc. Khi xuất hiện với tư cách là thần Biển, “Ngu Cường có dáng vẻ hiền lành, mình cá, mặt người, có tay chân và cưỡi trên một con rồng”. Thần có mình cá là bởi thần vốn là một con cá ở biển lớn phương Bắc. Khi xuất hiện với tư cách là thần Gió, “Ngu Cường có mặt người, mình chim, hai tai đeo hai con rắn xanh,hai chân đứng trên hai con rắn xanh khác”[1; 113]. Thần nước Cộng Công mặt người, mình rắn, tóc đỏ thuộc dòng dõi Viêm Đế Thần Nông. Những công việc của vị thần này đều liên quan đến nước, đến nông nghiệp, giúp dân trị thủy, phát triển nông nghiệp. Dân gian khi xây dựng hình ảnh Hoàng Đế Hiên Viên với chức năng cai quản cả bốn mùa, cả bốn phương, quyền lực trùm lên các Thiên đế khác, có ngoại hình cũng tương thích với đặc điểm chức năng đó. Thần mình người, đầu có bốn mặt, tám con mắt có thể nhìn cùng lúc được bốn phương tám hướng, cai quản đất trời. Nhân vật Thiếu Hạo được xây dựng cũng nằm trong cách miêu tả bán thần đó. Thần có đầu người, mình chim để phục vụ cho nhiệm vụ của mình, đó là xem xét mức độ phản xạ ánh sáng của vầng thái dương có ổn định hay không. Ngoài ra còn một số nhân vật mà chúng tôi khảo sát được cũng được miêu tả tương tự: thần phá hủy Xuy Vưu “đầu người, mình thú (đầu đồng, trán sắt) có bốn mắt, sáu cánh tay,trên đầu còn có hai cái sừng sắc bén, cứng như thép”[1; 72 ]; Tố Nữ – em gái của Hoàng Đế có đầu người, mình rắn; Đại Hồng – kết hôn với Tố Nữ, cũng có mình rắn đầu người,thêm đôi cánh ở lưng;…

Cùng mô típ miêu tả ngoại hình các nhân vật như vậy phải chăng là dụng ý của tác giả dân gian Trung Hoa trong việc xây dựng nên các hình tượng nhân vật. Họ luôn quan niệm rằng thần linh luôn có mặt trong mọi hoạt động đời sống của họ. Vì vậy nên diện mạo của các thần cũng phần nào thể hiện được niềm tin của họ đặt vào thế lực thần thánh, đồng thời diện mạo ấy được họ tưởng tượng phù hợp với tính cách của từng nhân vật thần, hay nó cũng phù hợp với đặc điểm chức năng mà thần đảm nhiệm.

3.1.2. Chức năng

Từ tư liệu khảo sát, có thể thấy thần thoại Việt Nam không xây dựng những nhân vật thần phá hủy với chức năng riêng rõ rệt.Khi trời đất được phân tách, thế giới không chỉ có động vật, thực vật, con người mà còn có nhiều thế lực khác tác động vào cuộc sống của thế giới tự nhiên. Các vị thần được tưởng tượng ra thực hiện đúng chức năng hành trạng của mình, xử phạt nghiêm minh. Con người xưa cho rằng tất cả mọi thứ tồn tại trên thế giới đều có thần, có hồn. Các thần xuất hiện và sự có mặt của tự nhiên tồn tại như một sự thiết yếu. Trong thần thoại Việt Nam, tác giả dân gian không tập trung cụ thể khắc họa nhân vật thần phá hủy một cách riêng biệt và rõ nét như trong thần thoại Trung Hoa.

Thần Sét trong thần thoại dân tộc Kinh được xây dựng với công việc là “xét xử kẻ ác nơi trần thế. Mỗi khi xử án, thần thường nhảy xuống tận nơi, kèm theo đó là đánh trống đeo bên mình làm thành tiếng sấm. Thần trỏ ngọn cờ vào đầu tội nhân, bổ ngay búa vào đầu”  [10; 40]. Đó là sự trừng phạt của thần linh cho những kẻ gây tội ác. Người Bana còn hình dung ra thần Sét (thần Bot Gơ Lai) là một vị thần linh thiêng ghê gớm nhất, tay có lông lá, mùa xuân thì ngủ, còn mùa hè thì cầm búa đi tuần tra dưới trần gian…

Thần Gió mang gió đi khắp nơi, là thần đem lại sự trong lành cho trần gian. Những làn gió mà thần đem lại làm cho mùa hè dịu mát hơn, mùa thu trong trẻo hơn và mùa xuân thì thêm trong lành.

Thần Biển của Việt Nam thở ra hít vào làm thủy triều lên xuống, thần cựa mình làm thành giông bão. Như vậy, chức năng của thần ra đời là “giải thích hiện tượng thủy triều lên xuống, hiện tượng giông bão ngoài biển khơi” chứ tác giả dân gian xây dựng thần Biển không nhằm mục đích là đem đến thiên tai cho muôn loài.

Khác với thần thoại Việt Nam, thần thoại Trung Hoa còn thấp thoáng xuất hiện hình tượng các vị thần phá hủy – những vị thần được xây dựng có hành trạng gây hại cho thế giới muôn loài. Thần phá hủy hay còn gọi là hung thần. Dân gian Trung Hoa đã xây dựng hình tượng nhân vật này từ ngoại hình, tính cách đến hành trạng đều không có gì tốt đẹp, không có chức năng bảo vệ hay giúp đỡ con người. Phải chăng đó là cách lí giải của người Trung Hoa xưa về những sự việc, hiện tượng còn tồn tại trong cuộc sống,  những thứ phải dồn họ đến bước đường cùng, gây khó khăn cho cuộc sống của họ? Ví dụ như dịch bệch là một trong những tai ương đáng sợ đối với loài người. Điều nguy hiểm ấy khiến họ cho rằng có các  hung thần chuyên gieo rắc dịch bệnh cho con người.

Tướng Liễu là một hung thần trong thần thoại Trung Hoa. Hung thần Tướng Liễu là thần tướng dưới quyền của thần Nước Cộng Công, được khắc họa có “thân mình của loài rắn, trên cổ hắn mọc lên chín cái đầu, đều là đầu người, mặt mũi xanh lè. Chín cái đầu của hắn ta có thể ăn cùng một lúc lượng thức ăn khổng lồ lấy từ chín quả núi và rồi từ chín cái miệng đó lại nhả ra biết bao là chất độc chát đắng” [1; 48 ]. Thứ độc ấy khiến cho cây cối muôn loài không thể sống nổi. Sách nói chất độc ấy nhiều đến mức đọng thành ao đầm. Chưa dừng lại ở đó, hung thần sẽ lập tức dâng nước gây họa nếu có ai hoặc vùng đất nào trái ý của hắn, thứ nước ấy vừa cay, vừa chát đắng. Và lẽ dĩ nhiên bất cứ sinh vật nào uống phải thứ nước đó sẽ không thể sống sót nổi. Đến khi chết, Tướng Liễu vẫn tiếp tục gây họa cho nhân dân. “Máu huyết của Tướng Liễu chảy ra thành một cái đầm lớn, tanh tưởi, độc đến nỗi không thể trồng ngũ cốc được. Nước dãi từ miệng Tướng Liễu chảy ra sau khi chết chảy ra càng làm cho nước đầm thêm độc hơn, không cỏ cây nào sống được, nói gì là con người.” [1; 48]

Trong bất cứ thời đại nào cũng tồn tại những kẻ tham lam, nổi loạn và trong thần thoại Trung Hoa cũng đã nhắc đến. Đó chính là hung thần Xuy Vưu. Xuy Vưu là tên hung thần “mình thú, đầu người (đầu đồng, trán sắt), có đến bốn con mắt, sáu cánh tay, trên đầu còn có hai cái sừng sắc bén, cứng như thép” [1; 42]. Hung thần này dùng mọi kế sách để chiến đấu với Hoàng Đế.

Hết lần này đến lần khác vẫn tiếp tục chiến đấu. Lúc thì niệm thần chú gọi sương mù đến, lúc thì sai các loài quỷ Võng Lượng, Li Mị, Thần Côi ra đánh. Dùng quỷ mê hoặc không xong, Xuy Vưu tiếp tục tìm kế bắt tay với tộc người khổng lồ Khoa Phụ. Hắn còn là nguyên nhân chia cắt tình cảm đẹp đẽ của vợ chồng Tố Nữ và Đại Hồng. Lời thề mãi mãi bên nhau của họ vĩnh viễn ở lại nơi chiến trận.

Hình tượng nhân vật Đào Ngột được xây dựng cũng rất đặc biệt: “có hình hài của một con mãnh thú, giống như hổ nhưng lại to hơn hổ, lông dài hơn hai thước, mặt người, chân hổ, mõm lợn, từ răng đến đuôi dài một trượng tám thước”[1; 112]. Đây là một hung thần chuyên gieo rắc dịch bệnh cho nhân dân.

Có thể thấy bên cạnh những nhân vật thần đẹp đẽ, có chức năng bảo hộ cho nhân dân thì nhân dân Trung Hoa còn khắc họa hình tượng các nhân vật hung thần. Có lẽ xuất phát từ quan niệm xã hội còn tồn tại nhiều mặt trái, hình ảnh các hung thần đại diện cho các góc khuất của xã hội đó, ví dụ như dịch bệnh, lòng tham lam, đố kị… Các hung thần được hình tượng hóa để giải thích cho quan niệm đó.

3.2. Khác biệt về cốt truyện

Cốt truyện trong thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa bên cạnh những nét giống nhau thì vẫn còn có những sự khác biệt trong cách xây dựng tình tiết, sự kiện trong câu chuyện.

Sự xuất hiện của các tình tiết trong thần thoại Việt Nam nhìn chung còn đơn giản, chưa thấy được sự mâu thuẫn căng thẳng của các nhân vật trong truyện, hay đặc trưng tính cách mà các nhân vật thể hiện. Trong hệ thống các truyện về các vị thần thiên nhiên, sáng tạo, tác giả dân gian Việt Nam chủ yếu miêu tả vài nét chấm phá về ngoại hình các nhân vật, sau đó là các tình tiết trình bày đặc điểm chức năng cũng như hành trạng của các nhân vật.

Tác giả dân gian đã miêu tả thần Trụ Trời “thân thể to lớn không biết bao nhiêu mà kể, chân thần bước một bước cứ như bay từ đỉnh núi này sang đỉnh núi kia, từ tỉnh này sang tỉnh nọ” [10; 24]. Nhờ có thân hình to lớn, kì vĩ đến vậy, thần Trụ Trời mới có thể thực hiện được công việc vô cùng quan trọng: khai thiên lập địa “một hôm bỗng đứng dậy, dùng đầu đội trời lên cao rồi đào đất đá; đắp thành cái cột vừa to vừa cao để chống trời. Cột càng được thần đắp lên cao chừng nào thì trời, tựa như một tấm màn lớn được nâng cao lên chừng ấy. Thần cứ một mình cầy cục đắp, cột đá càng cao chót vót đẩy trời lên cao mãi” [10; 14].

Việc chinh phục thiên nhiên, khai phá núi sông, tiêu diệt những lực lượng thần linh ma quái thuở ban đầu được con người thời cổ kể lại, khắc hoạ những mô típ quen thuộc. Thần thoại đã xuất hiện biến cố, tình tiết song vẫn còn đơn giản. Thần thoại bố rồng mẹ tiên, Lạc Long Quân – Âu Cơ… trong hệ thống truyện “Họ Hồng Bàng” của người Việt kể về vua rồng với những câu chuyện mang đậm tinh thần đấu tranh chống thiên nhiên của người Việt cổ. Ở đây, người anh hùng Lạc Long Quân có sức khoẻ hơn người đã ra tận biển Đông để chiến đấu, tiêu diệt con cá lớn đã thành tinh (Ngư Tinh) chuyên ăn thịt dân thường và làm đắm thuyền bè qua lại. Lạc Long Quân còn vào sâu trong đất liền giết con cáo chín đuôi đã thành tinh quấy phá một vùng (Hồ Tinh) và Long Quân còn dùng mưu mẹo để giết được con tinh ở trên cây (Mộc Tinh). Bằng các chiến công, Long Quân trừ được một tai hoạ cho loài người. Cũng từ đó, hễ ở đâu người Việt gặp nguy hiểm lại cất tiếng gọi: “Bố ơi ở đâu về cứu chúng con” là Long Quân tức khắc đến ngay. Câu chuyện về việc giúp nhân dân đánh bại quái vật được tác giả dân gian kể bằng những tình tiết ngắn gọn, trận đánh không được miêu tả quá chi tiết và kĩ càng. Có thể thấy, chiến thắng trong thần thoại luôn thuộc về lẽ phải.

Hình ảnh người anh hùng chinh phục thiên nhiên trong thần thoại được tác giả xây dựng với những sự kiện gắn với việc khai hoang, diệt trừ yêu tinh, giúp đỡ nhân dân. Trong thần thoại Mường là vị vua Dịt Dàng với chiến tích chặt cây Chu Đồng, săn con muông Tìn Vìn Tượng Vượng được kể trong sử thi thần thoại “Đẻ đất đẻ nước”. Ở thần thoại của người Thái là chàng khổng lồ Ải Lậc Cậc với công việc khai phá các cánh đồng lớn ở Tây Bắc. Ở thần thoại người Tày là hai vợ chồng ông bà khổng lồ Báo Luông – Slao Cải đã mở rộng các cánh đồng lớn ở Hoà An, Nguyên Bình… của vùng Cao Bằng, Bắc Cạn. Còn thần thoại của người Êđê là truyện kể về chàng khổng lồ Prông Pha, đạp đất núi lấy nước uống, tiêu diệt yêu tinh trừ lũ lụt và hạn hán. Thần thoại của người Bana thì kể lại ba anh em Việt – Bana – Lào hợp sức diệt xà tinh, trừ các tai hoạ giông bão, lũ lụt và nạn hoả hoạn…

Trong thần thoại Trung Hoa, các tình tiết, sự kiện đã có sự xây dựng chi tiết hơn. Qua hệ thống các chi tiết, sự kiện Trung Hoa đã hiện ra là một tổ chức xã hội có quy củ. Trong xã hội này tôn ti trật tự được coi trọng, hình phạt nghiêm khắc, kỷ cương bền chặt, rõ ràng. Cả thiên giới lẫn trần gian đều có người đứng đầu, đảm đương mọi việc. Mỗi người ấy lại có riêng một người phụ tá tài giỏi, hiền lành. Kẻ phụ tá Phục Hy là Câu Mang, phụ tá Thần Nông là hoả thần Chúc Dung, phụ tá Thiếu Hạo là kim thần Nhục Thu, phụ tá Chuyên Húc là thuỷ thần Huyền Minh. Cứ nhìn vào các tình tiết ấy, ta thấy từ thời xa xưa, Trung Hoa đã hình thành nếp tư duy về tính trật tự, về quan hệ vua – tôi (quân – thần). Ta hiểu rằng, ngay từ thời xa xưa, đất nước này đã phát triển tuần tự qua nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn được đánh dấu bằng những phát minh quan trọng gắn với tên tuổi từng nhân vật kiến tạo. Phục Hy dạy cho dân tộc hôn lễ, âm nhạc, kết dây, đan lưới, nuôi gia súc, nấu chín thịt trước khi ăn. Những sự kiện này gợi cho ta ý niệm về quá trình chuyển từ trạng thái săn bắn tiến lên trạng thái chăn nuôi du mục. Sau khi Phục Hy qua đời, ông truyền lại ngôi cho Thần Nông. Thần Nông sáng chế ra lưỡi cày bằng gỗ, tổ chức họp chợ, giao dịch đổi trao sản phẩm lao động. Ngoài ra, ông còn kiếm nhiều thứ cây để trị bệnh cho người. Chúng tôi thiết nghĩ rằng đây là thời đại loài người đang tiến lên trình độ canh nông. Tiếp theo dòng chảy này là thời kỳ tương ứng với “đồ gốm đen và đồ gốm màu” ở Trung Hoa. Nó gắn với truyền thuyết về Hoàng Đế, vua Nghiêu, vua Thuấn.

Điều đó chứng tỏ, ngay từ thuở bình minh, ở nơi đây, dấu ấn nghề nghiệp đã khá rõ ràng. Với các sự kiện chi tiết được sắp xếp theo trật tự, chúng ta có được hình dung bước đầu về cái mô hình nhà nước cụ thể, về một xã hội đại đồng mà ở đấy con người được tự do, bình đẳng về mọi mặt. Đó là hình ảnh nước Trung Hoa với cuộc sống mỹ mạn, khoái lạc. Đó là hình ảnh nhân dân no ấm, đủ đầy thời Viêm Đế. Đó là hình ảnh phố xá, thị trấn mọc lên khắp nơi trong thời vua Nghiêu. Xem ra, thần thoại Trung Hoa rất “ăn khớp” với “hình thể của một tổ chức xã hội” như một nhà nước lý tưởng. Một khao khát, mơ ước của con người thời xưa.

Là thần thoại của hai dân tộc khác nhau, nên thần thoại mỗi dân tộc có cách xây dựng cốt truyện riêng, khác biệt. Nếu như tình tiết, sự kiện trong các câu chuyện thần thoại ở Việt Nam còn đơn giản, ít tình tiết thì sang đến đất nước Trung Hoa, các sự kiện đã được xâu chuỗi khá liền mạch,để từ đó độc giả có thể thấy rõ nét được xã hội Trung Hoa cổ xưa đã là tổ chức khá quy củ. Tuy nhiên, ở nước ta, hiện tượng phức hợp về chủ đề trong một cốt truyện thần thoại Việt Nam phản ánh sự chứa đựng nhiều lớp văn hoá đã được chồng lấp lên nhau trong quá trình lưu truyền. Điều này tạo ra tính đa nghĩa trong một số thần thoại xuất hiện ở thời điểm muộn như thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh, Thánh Gióng của người Việt, Lệnh Trừ của người Tày, Pôư Nagar của người Chăm … Chính điều này nó làm nên nét riêng biệt trong thần thoại nước nhà, nó vẫn giữ được ý vị của người Việt.  

3.3. Khác biệt về mô típ

3.3.1. Mô típ thờ vật tổ

Người xưa cho rằng thiên nhiên có những sức mạnh kỳ bí, nên họ quan niệm rằng con người có một quan hệ huyết thống mật thiết với một loài động vật hoặc thực vật nào đó. Từ ý niệm nguyên thủy này, họ coi động vật với ý nghĩa thần linh như vật tổ biểu trưng để chở che, bảo trợ họ trong cuộc chinh phạt thiên nhiên hoặc trong những cuộc đấu tranh với các tộc khác. Từ đó, con người xưa sùng bái vật tổ và coi đó là biểu tượng văn hóa của dân tộc. Do sự khác biệt giữa nền văn hóa giữa hai dân tộc mà dẫn đến sự khác nhau trong tín ngưỡng thờ vật tổ của mỗi quốc gia. Rồng và rắn có nguồn gốc giống nhau, tuy nhiên trong tư duy của con người mỗi dân tộc có sự khác nhau, chính vì vậy có sự khác nhau trong hình thức vật tổ của mỗi nước. 

Thần thoại Việt Nam nói nhiều về rồng (Lạc Long Quân, Long Nữ, Tiểu long hầu, Thổ địa long thần,…) và về rùa (thần Kim Quy, Thần Biển,…). Nếu Âu Cơ – mẹ tiên tượng trưng cho tình cảm và đời sống tinh thần đậm nét tâm linh thì Lạc Long Quân – bố rồng biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của vật chất. Đó là những điều kiện cần thiết để sinh thành một con người Việt Nam toàn diện mang đầy đủ ý chí và tình cảm, sức mạnh vật chất và đời sống tinh thần. Trong tứ linh Long, Ly, Quy, Phượng thì rồng là con vật đứng đầu. Hình tượng con rồng là biểu tượng cho một sức mạnh tiềm tàng. Tinh thần đoàn kết của dân tộc, sự sáng tạo, linh hoạt, lòng kiên trì, bền bỉ được gửi gắm qua hình tượng rồng. Vì lẽ đó, rồng được xem là vật tổ  của nhân dân ta. Rồng như người cha luôn đùm bọc, chở che, đem lại những điều tốt đẹp cho dòng giống. Trong “Lược khảo thần thoại Việt Nam”, Nguyễn Đổng Chi cũng trình bày về vấn đề này. Rồng là con vật ở cả khô lẫn nước, được dân chúng thần thánh hóa. Tính chất huyền thoại ấy cũng rất phù hợp với tính chất hoang đường của thần thoại.

Ngoài ra, Việt tộc còn sùng bái chim như vật tổ thiêng của dân tộc mình. Nhân dân ta thờ vật biểu chim nên người xưa thần thánh hoá mẹ Âu Cơ là chim hoá thành tiên nên sau đó đẻ ra bọc trứng, đó là điều hợp lí. Nhờ vậy, thế hệ sau này tự hào cùng chung dòng giống, cùng là một nguồn, cùng từ một mẹ sinh ra. Thần thoại về nguồn gốc loài người của dân tộc Mường kể rằng: “Từ cây si lớn mọc trên núi cao, bị bão đổ xuống, trong đó bay ra một đôi chim lớn. Đôi chim này đẻ ra một trăm cái trứng, trong số có ba cái lớn dị thường. Đẻ xong, đôi chim biến thành người, trở thành hai con người đầu tiên ở mặt đất” [10; 549]. Điều đó cho thấy chim là biểu tượng vật tổ của nhiều dân tộc.

Về hình tượng rùa, ta có thể thấy tần xuất rùa xuất hiện khá nhiều trong thần thoại các dân tộc thiểu số. Nếu như rồng được là con vật được thần thánh hóa, không có thực trên thực tế thì rùa là loại động vật có thật, tuy chậm chạp nhưng sống lâu, có sức mạnh và nó được dân chúng coi là loài vật thiêng tiên tri. Trong thần thoại Thái, rùa được ca ngợi trong việc dạy nhân dân cách khóc Then. Người Thái đề cao sự thông minh của rùa với những nét chân thực mộc mạc chứ không thần thánh hóa như Rùa Vàng trong thần Kim Quy của dân tộc Kinh. Trong dân tộc Kinh, rùa được xây dựng dưới hình tượng nhân vật thần, bảo trợ, giúp đỡ con người diệt trừ yêu tinh, đánh giặc xâm lược.

Trong thần thoại Mường, rùa cũng xuất hiện trong những chi tiết liên quan đến nhà cửa. Truyện nói rằng: “Lang Cun Cần muốn làm nhà, đã tìm được thợ khéo nhưng cứ dựng mái nhà lên được mấy lần đều đổ. Sau thời gian thì nhà cũng làm xong nhưng gặp phải vấn đề là không có ánh sáng. Khi ấy, lại có nàng Sông Đón đem lòng yêu thương Khán Đồng. Vì yêu thích Sông Đón, muốn cướp lấy nàng, Lang Cun Cần bèn lập mưu bắt Khán Đồng đi tìm rùa vàng. Dưới sự giúp đỡ của Bụt thì Khán Đồng cũng bắt được rùa vàng. Nấu rùa vàng lên và tưới xung quanh nhà Chu, từ đó nhà Chu mới sáng sủa lên.” [10; 562]

Hình tượng rắn xuất hiện trong một số câu chuyện thuở khai hoang của Trung Quốc và xuất hiện thêm nhiều biến thể. Trước tiên phải kể đến một vị thần khai sinh ra trời đất là Bàn Cổ. Thần được miêu tả đặc biệt, đó là “Bàn Cổ có đầu rồng, mình rắn, thở ra thành gió mưa, rít lên thành sấm chớp, mở con mắt ra thì là ban ngày, nhắm con mắt lại thì là ban đêm”[1; 14]. Hình tượng rắn còn xuất hiện trong hình ảnh một số nhân vật thần: thần nước Cộng Công và hung thần Tướng Liễu. Thần Cộng Công là một hung thần trong thần thoại Trung Hoa, có “mặt người mình rắn, tóc đỏ”, “ngu xuẩn lại vô cùng hung bạo”. Các bộ hạ của Cộng Công đều vô cùng hung ác, dữ tợn.Tướng Liễu là bộ hạ dưới quyền của Cộng Công, cũng “mặt người mình rắn, có chín cái đầu” [1; 48], tính tình độc ác, lại vô cùng tham lam. Lúc bấy giờ, trời đất đang yên bình, con người đang sống hạnh phúc ấm no thì Thần Cộng Công và thần lửa Chúc Dung xảy ra mâu thuẫn và dẫn đến cuộc chiến giữa các thần. Thần Cộng Công là nguyên nhân gây ra trận hồng thủy, khiến nhân dân vô cùng khổ cực và khốn đốn. “Hung thần còn húc đổ chiếc cột chống trời, làm cho một nửa bầu trời phía tây bị sụp, rách nát nhiểu lỗ thủng”. [1; 47]

Mô típ thờ vật tổ của Việt Nam và Trung Hoa đều cho thấy con người xưa đều tin rằng động vật với ý nghĩa thần linh như vật tổ biểu trưng để chở che, bảo trợ họ trong cuộc chinh phạt thiên nhiên hoặc trong những cuộc đấu tranh với các tộc khác. Tuy nhiên do sự khác biệt trong văn hóa, trong quan niệm mà vật tổ của Việt Nam là rồng, là biểu trưng cho sức mạnh, cho trí tuệ con người Việt, còn rắn là vật tổ của người dân Trung Hoa. 

3.3.2. Mô típ bán thần

Khi xây dựng hình tượng nhân vật trong thần thoại, tác giả dân gian có các cách xây dựng khác nhau. Với thần thoại Việt Nam, hình ảnh các nhân vật hiện lên với dáng vẻ gần gũi với con người đời thường. Thần Đất hiện lên là một cụ già, sinh hoạt ở dưới mặt đất. Nữ thần lúa là một cô gái xinh đẹp, dáng người ẻo lả, có tính cách hờn dỗi hệt như những cô con gái mới lớn. Để phù hợp với chức năng của mình là người có kinh nghiệm, dạy dỗ, truyền nghề mộc cho con người, nên nữ thần nghề mộc hiện lên là người đàn bà đã già với mái tóc trắng như cước và vẻ mặt bí hiểm. Nhân vật là thần nhưng được dân gian miêu tả chân thực, hiện lên gần gũi với đời sống con người. Từ đây ta thấy được nét tư duy, cách nhìn nhận về thế giới thần linh hết sức gần gũi, coi thần là phần không thể thiếu trong đời sống của mình, luôn hiện hữu xung quanh mỗi chúng ta.

Khác với Việt Nam, trong thần thoại Trung Hoa mô típ bán thần được sử dụng khá nhiều. Hầu như các nhân vật thần trong câu chuyện của họ đều được xây dựng theo mô típ này. Qua khảo sát ta có thể thấy các nhân vật được xây dựng khá tỉ mỉ. Thần Âm, thần Dương “thân dài ngàn dặm, mặt người, mình rắn, da màu đỏ, mắt nhìn thẳng, mí mắt dựng đứng”. 

Ngu Cường vừa là thần Gió vừa là thần Biển. Khi thực hiện từng nhiệm vụ khác nhau, tướng mạo của thần cũng có sự biến đổi để thuận tiện cho công việc. Khi xuất hiện với tư cách là thần Biển, “Ngu Cường có dáng vẻ hiền lành, mình cá, mặt người, có tay chân và cưỡi trên một con rồng” [1; 113]. Thần có mình cá là bởi thần vốn là một con cá ở biển lớn phương Bắc. Khi xuất hiện với tư cách là thần Gió, “Ngu Cường có mặt người, mình chim,hai tai đeo hai con rắn xanh,hai chân đứng trên hai con rắn xanh khác”[1; 113]. Thần nước Cộng Công mặt người, mình rắn, tóc đỏ thuộc dòng dõi Viêm Đế Thần Nông. Những công việc của vị thần này đều liên quan đến nước, đến nông nghiệp, giúp dân trị thủy, phát triển nông nghiệp. Dân gian khi xây dựng hình ảnh Hoàng Đế Hiên Viên với mình người, đầu có bốn mặt, tám con mắt có thể nhìn cùng lúc được bốn phương tám hướng, cai quản đất trời. Nhân vật Thiếu Hạo được xây dựng cũng nằm trong cách miêu tả bán thần đó.

Như vậy, có sự khác biệt trong việc sử dụng mô típ bán thần phải chăng là ý đồ nghệ thuật của tác giả dân gian khi xây dựng nhân vật trong thần thoại. Với người Việt cổ, người ta quan niệm thế giới nhân vật thần gắn liền với con người, thần cũng có đời sống tinh thần, cũng có đặc điểm như con người, cũng giận dỗi như con người. Còn với người Trung Quốc, con người xưa quan niệm thần luôn chi phối mọi vấn đề trong cuộc sống của mình. Chính vì vậy, mô típ bán thần được sử dụng phổ biến trong thần thoại nước này cũng nhằm thể hiện được niềm tin mà con người gửi gắm vào các thế lực nhân vật thần. 

3.3.3. Mô típ tiêu diệt quái vật

Thời nguyên thủy, con người và thế giới muôn loài sống gần gũi với nhau. Thế nhưng họ vẫn không tránh khỏi sự sợ hãi trước các thế lực như ma quỷ, quái vật… Chính vì vậy trong thần thoại Việt Nam, tác giả dân gian đã khắc họa hình tượng các nhân vật anh hùng tiêu diệt quái vật, giúp đỡ nhân dân trong việc chống lại quỷ dữ . Qua khảo sát có thể thấy mô típ tiêu diệt quái vật xuất hiện khá nhiều trong các câu chuyện thần thoại Việt Nam. 

Trong thần thoại dân tộc Bana, câu chuyện “Anh hùng Đam Dông” đã xây dựng anh hùng Dông chiến đấu với quỷ dữ  đem lại được cuộc sống bình yên cho dân làng, đồng thời cứu được anh trai của mình. “Con quỷ dữ đó có nhiều phép thuật kì lạ. Có lúc nó hóa thành con ngựa cái, lông trắng muốt, mắt đen; có lúc nó hóa thành bông hoa vàng, nhụy đỏ chói mắt. Ngày thường nó hiện nguyên hình là con quỷ đỏ tóc dài quá gót, răng trắng nhởn, mắt sắc như dao” [10; 288]. Dông được sự giúp đỡ của thần linh, ban cho những vật trợ thủ để giết con quái vật. “Quỷ bị phá mất phép lạ, hoảng sợ, toan chạy trốn thì Dông xông đến bổ một nhát dao như sét vào đầu nó. Quỷ chết tức khắc, chiếc gương thần mà con quỷ tác oai tác quái cũng vỡ tan tành”.[10; 294] Dông cứu được anh trai của mình, đồng thời trừ hại giúp cho dân làng. Con quỷ ma quái đầy phép thuật cũng phải chịu chết trước sức mạnh và lòng kiên trì của người anh hùng Đam Dông. 

Các câu chuyện về Lạc Long Quân đã cho độc giả thấy được những trận chiến với các quái vật: Mộc Tinh ở rừng núi, Ngư Tinh ở biển và Hồ Tinh ở đồng bằng. Quái vật trong thần thoại Việt Nam được miêu tả bằng một vài chi tiết tiêu biểu nhưng cũng đủ để con người khiếp sợ, cầu cứu đến lực lượng thần linh giúp đỡ. Ngư Tinh được miêu tả “là một con cá rất lớn, mình dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như chân rết, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chừng mười người một lúc, biến hóa vạn trạng, kinh dị khôn lường. Nó đến tung hoành ở đây không biết từ bao giờ, mỗi lần nó đi thì nổi mưa gió thuyền bè khó lòng tránh khỏi tai nạn.”[10; 90] Quái vật Hồ Tinh được nhân dân miêu tả là một con cáo chín đuôi dã thành tinh. Con yêu tinh này thường hóa thành người, vào bản dụ bắt con gái đem về hang hãm dại. Nhân dân vô cùng khiếp sợ và căm ghét. Mộc Tinh là loài yêu quái từ “một cây chiên đàn ờ đất Châu Phong trải qua nhiều năm khô héo mà biến thành yêu tinh. Con yêu tinh này thường thay đổi hình dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật, nay đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân phải lập đền thờ, hàng năm tới ngày 30 tháng chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, dân mới được yên ổn” [10; 96]. Ba con yêu tinh này đều phải chịu khuất phục dưới sức mạnh của Lạc Long Quân. Nhờ đó nhân dân mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, bớt đi nỗi sợ hãi trước các thế lực ma quỷ, quái vật.

Khác với thần thoại Việt Nam, thần thoại Trung Hoa không tập trung miêu tả cuộc chiến của các vị thần với quái vật mà tác giả dân gian của dân tộc này chủ yếu xây dựng bức tranh cuộc chiến giữa các vị thần với nhau.

Trận chiến đầu tiên không thể không nhắc đến là trận chiến giữa thần nước Cộng Công và thần lửa Chúc Dung. Nguyên nhân xâu xa của cuộc chiến này xuất phát từ mâu thuẫn của Thần Nông và Chuyên Húc. Bắt đầu từ cuộc cãi vã về nông nghiệp đất đai giữa Hoàng Đế và Thần Nông, mâu thuẫn lớn dần dẫn đến cuộc chiến giữa Chuyên Húc – cháu Hoàng Đế, cai quản phương Bắc và Thần Nông – cai quản phương Nam. Cộng Công là vị thần rất mạnh,phục vụ cho Thần Nông, nhưng nhân dân lại quay lưng với vị thần này vì lẽ Chuyên Húc tuyên truyền Cộng Công là kẻ xấu chuyên gây hại cho nhân dân.

Chuyên Húc lại sai Chúc Dung đánh Cộng Công. Cộng Công thua trận, đập đầu vào núi Bất Chu tự tử. Từ đó trời sập xuống, thế nên mới có tích bà Nữ Oa vá trời, giúp nhân dân vượt qua nhiều tai họa, trở về với cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Sau trận khi đánh thắng Cộng Công, thần lửa Chúc Dung đầu về dưới trướng Thần Nông, có lẽ để thu xếp cục diện.

Cuộc chiến của Hoàng Đế và Xuy Vưu cũng là một trong những trận chiến tiêu biểu. Xuy Vưu là bộ hạ dưới quyền của Hoàng Đế, đảm nhiệm việc mở đường, dọn đường. Xuy Vưu thấy việc hèn mọn, không phục, ganh ghét với Hoàng Đế bèn nổi dậy ở vùng phương Nam của Thần Nông, cũng chính là vùng yếu nhất do vừa ngớt chiến trận. Sau khi đánh bại Thần Nông và Chúc Dung, Xuy Vưu chiếm được ngôi Thiên Đế thay cho Thần Nông. Thần Nông phải cầu cứu đến Hoàng Đế, và từ đây diễn ra cuộc chiến giữa Hoàng Đế và Xuy Vưu.

Hoàng Đế lúc mới lâm trận tìm cách khuyên bảo Xuy Vưu lui binh, nhưng không thành công, bị quân xuy Vưu đánh phủ đầu, thua một trận to. Tuy nhiên sau khi về chuẩn bị lại lực lượng với sự giúp đỡ của các thần tướng mạnh, Hoàng đế đã lấy lại được chiến thắng. Tuy nhiên, Xuy Vưu không nản chí, hết lần này đến lần khác vẫn tiếp tục chiến đấu. Lúc thì niệm thần chú gọi sương mù đến, lúc thì sai các loài quỷ Võng Lượng, Li Mị, Thần Côi ra đánh. Dùng quỷ mê hoặc không xong, Xuy Vưu tiếp tục tìm kế bắt tay với tộc người khổng lồ Khoa Phụ. Giống người Khoa Phụ rất khỏe mạnh nhưng kém trí thông minh. Dù vậy, sức mạnh của chúng vẫn khiên Hoàng Đế đau đầu. Cửu Thiên Huyền Nữ, vị thần đầu người mình chim đã xuất hiện và dạy Hoàng Đế học binh pháp, nhờ đó mà chiến thắng được Xuy Vưu và Khoa Phụ. Xuy Vưu bị bắt rồi sau đó bị chém đầu. Máu Xuy Vưu vương đổ xuống biến thành một rừng phong, lá cây nào cũng điểm màu đỏ của máu. Màu đỏ ấy nói lên nỗi oán hận của Xuy Vưu.

Tiểu kết

Khác biệt trong cách thức miêu tả và xây dựng nhân vật, và trong một số mô típ cụ thể đã thể hiện sự khác biệt trong quan niệm về con người và thực tại của tác giả dân gian. Sự khác biệt đó còn được được lí giải từ cội nguồn văn hóa, địa lí của mỗi quốc gia. Thần thoại của mỗi dân tộc đều có những biểu hiện độc đáo riêng trong việc phản ánh và lí giải các vấn đề tự nhiên, xã hội. Điều đó làm cho kho tàng văn học thế giới thêm phong phú, đa dạng. Thần thoại mỗi dân tộc là lát cắt không thể thiếu trong bức tranh thần thoại hoàn chỉnh ấy.

KẾT LUẬN

Kho tàng thần thoại thế giới muôn hình muôn vẻ và làm nên vẻ đẹp đó không thể không kể đến thần thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa. Đó là kho tư liệu quý giá, lí giải nguồn gốc thế giới tự nhiên, thế giới loài người, đồng thời phản ánh ước mơ của con người với khát vọng chinh phục tự nhiên, mong muốn ước mơ cuộc sống hạnh phúc ấm no. Thông qua hệ thống thần thoại , ta nhận thấy được sức sáng tạo diệu kì, trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân hai quốc gia, hai dân tộc.

Với những nét tương đồng về đặc điểm văn hóa, văn học nên thần thoại Việt Nam và Trung Hoa có những điểm gặp gỡ, giao thoa không chỉ trong việc sử dụng cốt truyện mà còn trong việc xây dựng nên hình tượng các nhân vật trong thần thoại và các mô típ được sử dụng làm nổi bật nên hình tượng trung tâm đó. Cùng với cốt truyện đơn giản, ít tình tiết, tác giả dân gian của thần thoại hai nước đã khắc họa nên hình tượng nhân vật trung tâm là thần hay những con người để thông qua đó lí giải nguồn gốc loài người, nguồn gốc tổ tiên. Trí tưởng tượng phong phú của họ đã chắp cánh cho hình tượng hiện lên thật đẹp đẽ chân thực. Qua hình ảnh nhân vật ấy, họ gửi gắm tâm tư tình cảm của chính bản thân mình. Đó là khát vọng chinh phục được tự nhiên, làm chủ thiên nhiên, không còn lo sợ trước bất kì một thế lực nào cả, một ý chí không chịu khuất phục, không ngừng nuôi dưỡng và thực hiện ước vọng của mình. Bên cạnh đó tác giả dân gian còn khao khát hướng đến cuộc sống ấm no, đầy đủ, một cuộc sống thanh bình. Trong văn học dân gian nói chung và thần thoại nói riêng, mô típ đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần thể hiện cốt truyện, chủ đề, xây dựng nên hình tượng các nhân vật trở nên đặc sắc hơn. Thần thoại Việt Nam và Trung Hoa cùng sử dụng chung một số mô típ tiêu biểu như: mô típ quả trứng khởi thủy, mô típ hôn nhân cận huyết, mô típ nguồn gốc xuất thân thần kì, mô típ nạn hồng thủy,…

Thần thoại Việt Nam tuy có chịu ảnh hưởng của thần thoại Trung Hoa nhưng vẫn giữ được cốt cách của nó và với những nét riêng biệt. Nhân vật trong thần thoại Việt Nam hiện lên chân thực, mang dáng dấp con người đời thường còn nhân vật trong thần thoại Trung Hoa được xây dựng chủ yếu với mô típ bán thần: đầu người mình thú hoặc đầu thú mình người, thể hiện những dụng ý khác nhau của tác giả dân gian. Bên cạnh đó, tác giả dân gian Việt Nam không tập trung xây dựng những hung thần với chức năng riêng biệt như người Trung Hoa. Mô típ cũng có sự khác nhau trong việc sử dụng mô típ thờ vật tổ, nó thể hiện được tín ngưỡng văn hóa khác nhau của từng dân tộc. Con người xưa quan niệm thiên nhiên còn vô vàn những điều bí ẩn, nên họ cho rằng dân tộc có một quan hệ mật thiết với một động vật hoặc thực vật nào đó. Từ ý niệm nguyên thủy này, họ coi động vật có chức năng che chở, bảo trợ họ trong những cuộc đấu tranh với các tộc người khác, hay trong cuộc chinh phục tự nhiên. Những điểm khác biệt đó tô điểm thêm vẻ đẹp của mỗi dân tộc, làm nên giá trị văn hóa văn học to lớn, trường tồn theo thời gian.

Như vậy có thể thấy, với trí tưởng tượng bay bổng phong phú của tác giả dân gian, thần thoại vẫn giữ nguyên được những nét đặc sắc của mình, giữ vị trí vai trò vô cùng quan trọng trong kho tàng văn học dân gian.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

  1. Dương Tuấn Anh (sưu tầm, tuyển chọn) (2009), Thần thoại Trung Hoa, Nxb. Giáo dục Việt Nam
  2. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội
  3. Mác – Ph.Ăng ghen (1952), Về văn học nghệ thuật, Nxb. Giáo dục
  4. Nguyễn Đổng Chi (1956), Lược khảo về thần thoại Việt Nam, Nxb. Văn sử địa
  5. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội
  6. Hà Minh Đức (chủ biên) (2001), Lý luận văn học, Nxb. Giáo dục
  7. M. Meletinxki (chủ biên). Từ điển thần thoại, Nxb. Bách khoa Xô viết (Bùi Mạnh Nhị dịch)
  8. Lê Bá Hán (chủ biên,1999),Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội
  9. Đinh Gia Khánh (1998), Thần thoại Trung Quốc, Nxb. Khoa học Xã hội.
  10. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Thị Huế (2006), Kho tàng thần thoại Việt Nam, Nxb văn hóa – thông tin
  11. Trần Gia Linh (1991), Văn học dân gian, Giáo trình Trường đại học sư phạm Hà Nội 2 (Bản đánh máy)
  12. Phương Lựu (chủ biên 2004), Lý luận văn học, Nxb. Giáo dục
  13. Ăng- ghen (1957), Về văn học nghệ thuật, Nxb. Sự thật
  14. Trần Liên Sơn (2012),Truyền thuyết thần thoại Trung Quốc (Ngô Thị Soa dịch), Nxb, Truyền bá Ngũ Châu, Nxb, Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh
  15. Hoàng Tiến Tựu, (1991), Văn học dân gian, Nxb. Giáo dục

Phạm Thị Thúy, 2018, Thần Thoại Việt Nam và thần thoại Trung Hoa từ góc nhìn so sánh, Khóa luận tốt nghiệp đại học, ngành văn hóa học, trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.
https://drive.google.com/file/d/1jhXl2axY9iz3COLv7rrb5E0mVw32V7in/view?usp=sharing

Tranh minh họa: Teeworld.