Quy phạm định nghĩa là gì

Tài liệuKiến thức môn học

Quy phạm pháp luật là gì

Bởi HILAW.VN Cập nhật Th21 4, 2021
0
Chia sẻ

Một trong những thuộc tính cơ bản, quan trọng của pháp luật là tính quy phạm phổ biến, pháp luật được tạo nên chủ yếu là từ các quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật được xem là những thành tố tạo nên pháp luật, vì vậy quy phạm pháp luật vừa mang những đặc tính của pháp luật vừa có những đặc tính riêng rẽ của mình liên quan đến hình thức và nội dung của nó.

Nghiên cứu lý luận về quy phạm pháp luật có ý nghĩa rất lớn không chỉ về mặt lý luận nhận thức mà còn phục vụ rất thiết thực cho các hoạt động thực tiễn pháp lý như xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật được chính xác, khoa học. Ngoài ra nó còn phục vụ việc nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, tạo kỹ năng sống và làm việc theo pháp luật của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Vì những lẽ đó mà lý thuyết vquy phạm pháp luật cần được nghiên cứu chi tiết, đầy đủ hơn.

1. Đời sống xã hội và quy phạm xã hội

Để tồn tại và phát triển con người buộc phải liên kết với nhau thành những cộng đồng. Có thể nói, Cộng đồng là môi trường tồn tại của mỗi cá nhân trong xã hội. Tính cộng đồng của đời sống loài người xuất hiện nhu cầu cần phải phối hợp, quy tụ hoạt động của những cá nhân riêng rẽ theo những hưởng nhất định, để đạt được những mục đích nhất định, nghĩa là, nhu cầu điều chỉnh những mối liên hệ giữa con người với con người. Về nhu cầu này C.Mác đã nhấn mạnh: Tt cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành tn quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều ng đều cần đến một sự chđo đđiều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khi quan độc lp của nó. Như vậy, điều chỉnh mối quan hệ giữa con người là nhu cầu cần thiết, tất yếu của đời sống con người, đặc biệt là khi tính chất xã hội hoá các hoạt động của con người ngày càng được mở rộng về quy mô và sự phức tạp.

Việc phối hợp [điều chỉnh] hoạt động của các cá nhân riêng rẽ có thể được thực hiện dựa vào những mệnh lệnh cá biệt hoặc bằng cách mẫu hóa cách xử sự của con người, nghĩa là, đưa ra những quy tắc xử sự làm mẫu để bất kỳ ai khi ở vào những hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu cũng xử sự như vậy.

Sở dĩ có thể đưa ra được những cách xử sự mẫu để điều chỉnh hành vi của con người là vì:

Thứ nhất, hành vi của con người thường mang tính tái diễn, lặp đi lặp lại trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định, mà những hoàn cảnh, điều kiện của đời sống xã hội lại diễn ra theo quy luật. Do vậy, có thể biết và dự kiến trước được những cách xử sự có thể có của con người khi ở vào những hoàn cảnh, điều kiện đó.

Thứ hai, đi với những người bình thường thì họ luôn hoạt động có lý trí và có tự do ý chí, nghĩa là, họ nhận thức được việc mình làm và có thđiều khiển được hành vi của mình [có thể lựa chọn cho mình cách xử sự phù hợp từ những cách xử sự có thể có trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định]. Chính vì vậy, có thể đưa ra trước một cách xử sự mẫu để buộc mọi người khi ở vào những hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu đều phải chọn cách xử sự đó.

Việc mẫu hóa cách xử sự của con người phải là kết quả nghiên cứu nhiều cách xử sự cá biệt cụ thể khác nhau rồi khái quát hoá để tạo ra một cách xử sự mẫu sao cho phù hợp với đa số để dùng chung cho nhiều người.

Đời sống cộng đồng xã hội đòi hỏi phải đặt ra rất nhiều những quy tắc xử sự khác nhau để điều chỉnh hành vi của con người. Những quy tắc xử sự ấy được sử dụng nhiều lần trong đời sống xã hội chúng được gọi là quy phm. Trong những quy phạm mà con người đặt ra được chia thành hai loại là quy phạm kỹ thuật và quy phạm xã hội. Quy phạm xã hội là những quy tắc xử sự hình thành trong quá trình hoạt động xã hội của con người [hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi, sinh hoạt của các tổ chức và cá nhân trong xã hội], chúng được dùng để điều chỉnh các mối quan hệ giữa người với người. Là khuôn mẫu cho hành vi con người, mỗi quy phạm xã hội thường chỉ ra: Trong những điều kiện, hoàn cảnh nào? Tổ chức hay cá nhân nào sẽ xử sự như thế nào? Hậu quả gì đối với tổ chức hay cá nhân nào không xử sự đúng với những quy định đó.

Các quy phạm xã hội là những hiện tượng không thể thiếu trong đời sống xã hội, chúng là những phương tiện để quản lý xã hội, phối hợp ý chí và quy tụ có mục đích hoạt động của từng cá nhân riêng rẽ lại nhằm đạt được những lợi ích và mục đích mong muốn tạo điều kiện cho xã hội ổn định và phát triển.

Trong xã hội có nhiều loại quy phạm xã hội khác nhau cùng được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội như quy phạm đạo đức, quy phạm tập quán, quy phạm của các tổ chức chính trị xã hội, quy phạm [tín điều] tôn giáo và quy phạm pháp luật Các quy phạm xã hội khác nhau thì có những đặc tính khác nhau, nhưng chúng luôn liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và cùng tác động lên các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, sự tác động của các loại quy phạm xã hội khác nhau lên các quan hệ xã hội thì khác nhau. Đương nhiên, các quy phạm xã hội không thể tự mình tác động lên các quan hệ xã hội được mà sự tác động đó chỉ có thể được thực hiện thông qua những hoạt động lý chí của con người. Trong xã hội có giai cấp thì quy phạm pháp luật có vai trò quan trọng nhất đối với việc duy trì trật tự xã hội, tạo điều kiện cho xã hội ổn định và phát triển.

Hình minh họa. Quy phạm pháp luật là gì

2. Khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật

Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội, vì vậy nó vừa mang đầy đủ những thuộc tính chung của các quy phạm xã hội vừa có những thuộc tính của riêng mình. Cụ thể là:

Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự. Với tư cách là quy tắc xử sự, quy phạm pháp luật luôn là khuôn mẫu cho hành vi con người, nó chỉ dẫn cho mọi người cách xử sự [nên hay không nên làm gì hoặc làm như thế nào] trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Điều này cũng có nghĩa là quy phạm pháp luật đã chỉ ra cách xử sự và xác định các phạm vi xử sự của con người, cũng như những hậu quả bất lợi gì nếu như không thực hiện đúng hoặc vi phạm chúng.

Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định gii hạn và đá giả hành vi của con người. Không chỉ là khuôn mẫu cho hành vi, quy phạm pháp luật còn là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh từ phía nhà nước, từ những người có chức vụ, quyền hạn, từ phía các chủ thể khác về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong xử sự của các bên. Nghĩa là, thông qua quy phạm pháp luật mới biết được hoạt động nào của các chủ thể có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào không có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào phù hợp với pháp luật, hoạt động nào trái pháp luật Chẳng hạn, để biết được đâu là hoạt động tình cảm, đâu là hoạt động pháp luật của cá nhân chúng ta phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật hay để đánh giá hành vi nào là vi phạm hành chính, hành vi nào là vi phạm hình sự [tội phạm] thì phải căn cứ vào các quy phạm của pháp luật hành chính và pháp luật hình sự.

Quy phm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn, do vậy bản chất của chúng trùng với bản chất của pháp luật. Quy phạm pháp luật thể hiện ý chí nhà nước, chúng chứa đựng trong mình những tư tưởng, quan điểm chính trị- pháp lý của nhà nước, của lực lượng cầm quyền trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, Nhà nước áp đặt ý chí của mình trong quy phạm pháp luật bằng cách xác định những đối tượng [tổ chức, cá nhân] nào trong những hoàn cảnh, điều kiện nào thì phải chịu sự tác động của quy phạm pháp luật, những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ có và cả những biện pháp cưỡng chế nào mà họ buộc phải gánh chịu. Bằng việc chỉ ra các quyền, nghĩa vụ hoặc trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật điều chỉnh tức là nhà nước đã nhận trách nhiệm bảo vệ chúng và bảo đảm cho chúng được thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Thuộc tính do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện là thuộc tính thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa quy phạm pháp luật với các loại quy phạm xã hội khác.

Quy phạm pháp luật là quy tắc xsự chung. Quy phạm pháp luật được ban hành không phải cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Mọi tổ chức, cá nhân ở vào những hoàn cảnh, điều kiện mà quy phạm pháp luật đã quy định đều xử sự thống nhất như nhau. Về vấn đề này V.I. Lênin đã viết: Bất cứ quyền nào cũng đều nghĩa là áp dụng một tiêu chuẩn duy nhất cho những người khác nhau, cho những người thật ra thì không ging nhau và cũng không ngang nhau. Tuy nhiên, tính chất chung của các quy phạm pháp luật khác nhau thì khác nhau. Chẳng hạn, quy phạm pháp luật luật hiến pháp thì có liên quan đến mọi tổ chức và cá nhân trong đất nước, nhưng quy phạm pháp luật luật lao động thì chỉ liên quan đến những người quản lý, sử dụng lao động và những người lao động

Tính chất chung của quy phạm pháp luật còn thể hiện ở chỗ nó được đặt ra không phải chỉ để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, nghĩa là, từng quan hệ xã hội cụ thể bên cạnh những điểm chung thì cũng có rất nhiều những điểm riêng biệt, nhưng quy phạm pháp luật đã thống nhất tất cả chúng lại và thiết lập ra quy tắc xử sự có tính chất chung cho tất cả những chủ thể tham gia quan hệ xã hội chung đó. Chẳng hạn, giữa những người nua và những người bán khác nhau có thể thiết lập nên rất nhiều những quan hệ mua bán cụ thể với những đặc điểm riêng của từng mối quan hệ, song tất cả những quan hệ giữa người mua và người bán đều phải tuân theo các quy tắc có tính chất chung đã được quy định trong pháp luật dân sự.

Quy phạm pháp luật có thể tác động rất nhiều lần và trong thời gian tương đối dài cho đến khi nó bị thay đổi, hoặc bị mất hiệu lực. Nó được sử dụng trong tất cả mọi trường hợp khi xuất hiện những hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu.

Quy phạm pháp luật là công cđiều chỉnh quan hệ xã hội, mà nội dung của nó thường thể hiện hai mặt là cho phép và bắt buộc, nghĩa là, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự trong đó chỉ ra các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội trong quy phạm pháp luật thường chứa đựng những chỉ dẫn về khả năng và các phạm vi có thể xử sự, cũng như những nghĩa vụ [sự cần thiết phải xử sự] của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Các quyền và nghĩa vụ được quy phạm pháp luật dự liệu cho các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh luôn có sự liên hệ mật thiết với nhau. Hình thức, tính chất của sự liên hệ đó do nhà nước xác định phụ thuộc vào tính chất của chính quan hệ xã hội đó. Vì vậy, trong cơ chế điều chỉnh pháp luật quy phạm pháp luật có vai trò thực hiện chức năng thông báo của nhà nước đến các chủ thể tham gia quan hệ xã hội về nội dung ý chí, mong muốn của nhà nước để họ biết được cái gì có thể làm, cái gì không được làm, cái gì phải làm, cái gì phải tránh không làm trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định nào đó

Quy phm pháp Luật có tính hệ thống. Môi quy phạm pháp luật được nhà nước ban hành không tồn tại và tác động một cách biệt lập, riêng rẽ, mà giữa chúng luôn có sự liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau tạo nên những chỉnh thể lớn nhỏ khác nhau [hệ thống pháp luật và các bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật] cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự ổn định và phát triển xã hội. Quy phạm pháp luật của các nhà nước hiện đại chủ yếu là quy phạm pháp luật thành văn, chúng được chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Do nhu cầu điều chỉnh xã hội mà số lượng các quy phạm pháp luật của một nhà nước được ban hành ngày một nhiều hơn và phạm vi các đối tượng mà chúng tác động cũng ngày càng rộng hơn, trật tự ban hành, áp dụng và bảo vệ chúng ngày càng dân chủ hơn với sự tham gia của đông đảo các thành viên trong xã hội. Nội dung của quy phạm pháp luật ngày càng trở nên chính xác, chặt chẽ, rõ ràng, thống nhất và có tính khả thi cao.

Phản ánh năng động sự phát triển của xã hội các quy phạm pháp luật luôn có sự thay đổi cùng với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển. Các quy phạm pháp luật có thể bị hủy bỏ, sửa . đổi hoặc bổ sung trong quá trình hoạt động pháp luật của nhà nước.

Tóm lại: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nưc ban hành và bảo đm thực hiện đđiều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và nhằm đt được những tin độc nhất định.

Các quy phạm pháp luật có thể là là những quy tắc xử sự của công dân, của những người có chức vụ, quyền hạn, là những quy định về cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, là những quy định về địa vị pháp lý của các đoàn thể, tổ chức quần chúng và các chủ thể pháp luật khác.

5/5 - [4 bình chọn]
0
Chia sẻ FacebookTwitterGoogle+E-mailFacebook MessengerTelegramPrint

Một trong những thuộc tính cơ bản, quan trọng của pháp luật là tính quy phạm phổ biến, pháp luật được tạo nên chủ yếu là từ các quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật được xem là những thành tố tạo nên pháp luật, vì vậy quy phạm pháp luật vừa mang những đặc tính của pháp luật vừa có những đặc tính riêng rẽ của mình liên quan đến hình thức và nội dung của nó.

Nghiên cứu lý luận về quy phạm pháp luật có ý nghĩa rất lớn không chỉ về mặt lý luận nhận thức mà còn phục vụ rất thiết thực cho các hoạt động thực tiễn pháp lý như xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật được chính xác, khoa học. Ngoài ra nó còn phục vụ việc nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, tạo kỹ năng sống và làm việc theo pháp luật của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Vì những lẽ đó mà lý thuyết vquy phạm pháp luật cần được nghiên cứu chi tiết, đầy đủ hơn.

1. Đời sống xã hội và quy phạm xã hội

Để tồn tại và phát triển con người buộc phải liên kết với nhau thành những cộng đồng. Có thể nói, Cộng đồng là môi trường tồn tại của mỗi cá nhân trong xã hội. Tính cộng đồng của đời sống loài người xuất hiện nhu cầu cần phải phối hợp, quy tụ hoạt động của những cá nhân riêng rẽ theo những hưởng nhất định, để đạt được những mục đích nhất định, nghĩa là, nhu cầu điều chỉnh những mối liên hệ giữa con người với con người. Về nhu cầu này C.Mác đã nhấn mạnh: Tt cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành tn quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều ng đều cần đến một sự chđo đđiều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khi quan độc lp của nó. Như vậy, điều chỉnh mối quan hệ giữa con người là nhu cầu cần thiết, tất yếu của đời sống con người, đặc biệt là khi tính chất xã hội hoá các hoạt động của con người ngày càng được mở rộng về quy mô và sự phức tạp.

Việc phối hợp [điều chỉnh] hoạt động của các cá nhân riêng rẽ có thể được thực hiện dựa vào những mệnh lệnh cá biệt hoặc bằng cách mẫu hóa cách xử sự của con người, nghĩa là, đưa ra những quy tắc xử sự làm mẫu để bất kỳ ai khi ở vào những hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu cũng xử sự như vậy.

Sở dĩ có thể đưa ra được những cách xử sự mẫu để điều chỉnh hành vi của con người là vì:

Thứ nhất, hành vi của con người thường mang tính tái diễn, lặp đi lặp lại trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định, mà những hoàn cảnh, điều kiện của đời sống xã hội lại diễn ra theo quy luật. Do vậy, có thể biết và dự kiến trước được những cách xử sự có thể có của con người khi ở vào những hoàn cảnh, điều kiện đó.

Thứ hai, đi với những người bình thường thì họ luôn hoạt động có lý trí và có tự do ý chí, nghĩa là, họ nhận thức được việc mình làm và có thđiều khiển được hành vi của mình [có thể lựa chọn cho mình cách xử sự phù hợp từ những cách xử sự có thể có trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định]. Chính vì vậy, có thể đưa ra trước một cách xử sự mẫu để buộc mọi người khi ở vào những hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu đều phải chọn cách xử sự đó.

Việc mẫu hóa cách xử sự của con người phải là kết quả nghiên cứu nhiều cách xử sự cá biệt cụ thể khác nhau rồi khái quát hoá để tạo ra một cách xử sự mẫu sao cho phù hợp với đa số để dùng chung cho nhiều người.

Đời sống cộng đồng xã hội đòi hỏi phải đặt ra rất nhiều những quy tắc xử sự khác nhau để điều chỉnh hành vi của con người. Những quy tắc xử sự ấy được sử dụng nhiều lần trong đời sống xã hội chúng được gọi là quy phm. Trong những quy phạm mà con người đặt ra được chia thành hai loại là quy phạm kỹ thuật và quy phạm xã hội. Quy phạm xã hội là những quy tắc xử sự hình thành trong quá trình hoạt động xã hội của con người [hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi, sinh hoạt của các tổ chức và cá nhân trong xã hội], chúng được dùng để điều chỉnh các mối quan hệ giữa người với người. Là khuôn mẫu cho hành vi con người, mỗi quy phạm xã hội thường chỉ ra: Trong những điều kiện, hoàn cảnh nào? Tổ chức hay cá nhân nào sẽ xử sự như thế nào? Hậu quả gì đối với tổ chức hay cá nhân nào không xử sự đúng với những quy định đó.

Các quy phạm xã hội là những hiện tượng không thể thiếu trong đời sống xã hội, chúng là những phương tiện để quản lý xã hội, phối hợp ý chí và quy tụ có mục đích hoạt động của từng cá nhân riêng rẽ lại nhằm đạt được những lợi ích và mục đích mong muốn tạo điều kiện cho xã hội ổn định và phát triển.

Trong xã hội có nhiều loại quy phạm xã hội khác nhau cùng được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội như quy phạm đạo đức, quy phạm tập quán, quy phạm của các tổ chức chính trị xã hội, quy phạm [tín điều] tôn giáo và quy phạm pháp luật Các quy phạm xã hội khác nhau thì có những đặc tính khác nhau, nhưng chúng luôn liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và cùng tác động lên các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, sự tác động của các loại quy phạm xã hội khác nhau lên các quan hệ xã hội thì khác nhau. Đương nhiên, các quy phạm xã hội không thể tự mình tác động lên các quan hệ xã hội được mà sự tác động đó chỉ có thể được thực hiện thông qua những hoạt động lý chí của con người. Trong xã hội có giai cấp thì quy phạm pháp luật có vai trò quan trọng nhất đối với việc duy trì trật tự xã hội, tạo điều kiện cho xã hội ổn định và phát triển.

Hình minh họa. Quy phạm pháp luật là gì

2. Khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật

Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội, vì vậy nó vừa mang đầy đủ những thuộc tính chung của các quy phạm xã hội vừa có những thuộc tính của riêng mình. Cụ thể là:

Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự. Với tư cách là quy tắc xử sự, quy phạm pháp luật luôn là khuôn mẫu cho hành vi con người, nó chỉ dẫn cho mọi người cách xử sự [nên hay không nên làm gì hoặc làm như thế nào] trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Điều này cũng có nghĩa là quy phạm pháp luật đã chỉ ra cách xử sự và xác định các phạm vi xử sự của con người, cũng như những hậu quả bất lợi gì nếu như không thực hiện đúng hoặc vi phạm chúng.

Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định gii hạn và đá giả hành vi của con người. Không chỉ là khuôn mẫu cho hành vi, quy phạm pháp luật còn là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh từ phía nhà nước, từ những người có chức vụ, quyền hạn, từ phía các chủ thể khác về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong xử sự của các bên. Nghĩa là, thông qua quy phạm pháp luật mới biết được hoạt động nào của các chủ thể có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào không có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào phù hợp với pháp luật, hoạt động nào trái pháp luật Chẳng hạn, để biết được đâu là hoạt động tình cảm, đâu là hoạt động pháp luật của cá nhân chúng ta phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật hay để đánh giá hành vi nào là vi phạm hành chính, hành vi nào là vi phạm hình sự [tội phạm] thì phải căn cứ vào các quy phạm của pháp luật hành chính và pháp luật hình sự.

Quy phm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn, do vậy bản chất của chúng trùng với bản chất của pháp luật. Quy phạm pháp luật thể hiện ý chí nhà nước, chúng chứa đựng trong mình những tư tưởng, quan điểm chính trị- pháp lý của nhà nước, của lực lượng cầm quyền trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, Nhà nước áp đặt ý chí của mình trong quy phạm pháp luật bằng cách xác định những đối tượng [tổ chức, cá nhân] nào trong những hoàn cảnh, điều kiện nào thì phải chịu sự tác động của quy phạm pháp luật, những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ có và cả những biện pháp cưỡng chế nào mà họ buộc phải gánh chịu. Bằng việc chỉ ra các quyền, nghĩa vụ hoặc trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật điều chỉnh tức là nhà nước đã nhận trách nhiệm bảo vệ chúng và bảo đảm cho chúng được thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Thuộc tính do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện là thuộc tính thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa quy phạm pháp luật với các loại quy phạm xã hội khác.

Quy phạm pháp luật là quy tắc xsự chung. Quy phạm pháp luật được ban hành không phải cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Mọi tổ chức, cá nhân ở vào những hoàn cảnh, điều kiện mà quy phạm pháp luật đã quy định đều xử sự thống nhất như nhau. Về vấn đề này V.I. Lênin đã viết: Bất cứ quyền nào cũng đều nghĩa là áp dụng một tiêu chuẩn duy nhất cho những người khác nhau, cho những người thật ra thì không ging nhau và cũng không ngang nhau. Tuy nhiên, tính chất chung của các quy phạm pháp luật khác nhau thì khác nhau. Chẳng hạn, quy phạm pháp luật luật hiến pháp thì có liên quan đến mọi tổ chức và cá nhân trong đất nước, nhưng quy phạm pháp luật luật lao động thì chỉ liên quan đến những người quản lý, sử dụng lao động và những người lao động

Tính chất chung của quy phạm pháp luật còn thể hiện ở chỗ nó được đặt ra không phải chỉ để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, nghĩa là, từng quan hệ xã hội cụ thể bên cạnh những điểm chung thì cũng có rất nhiều những điểm riêng biệt, nhưng quy phạm pháp luật đã thống nhất tất cả chúng lại và thiết lập ra quy tắc xử sự có tính chất chung cho tất cả những chủ thể tham gia quan hệ xã hội chung đó. Chẳng hạn, giữa những người nua và những người bán khác nhau có thể thiết lập nên rất nhiều những quan hệ mua bán cụ thể với những đặc điểm riêng của từng mối quan hệ, song tất cả những quan hệ giữa người mua và người bán đều phải tuân theo các quy tắc có tính chất chung đã được quy định trong pháp luật dân sự.

Quy phạm pháp luật có thể tác động rất nhiều lần và trong thời gian tương đối dài cho đến khi nó bị thay đổi, hoặc bị mất hiệu lực. Nó được sử dụng trong tất cả mọi trường hợp khi xuất hiện những hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu.

Quy phạm pháp luật là công cđiều chỉnh quan hệ xã hội, mà nội dung của nó thường thể hiện hai mặt là cho phép và bắt buộc, nghĩa là, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự trong đó chỉ ra các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội trong quy phạm pháp luật thường chứa đựng những chỉ dẫn về khả năng và các phạm vi có thể xử sự, cũng như những nghĩa vụ [sự cần thiết phải xử sự] của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Các quyền và nghĩa vụ được quy phạm pháp luật dự liệu cho các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh luôn có sự liên hệ mật thiết với nhau. Hình thức, tính chất của sự liên hệ đó do nhà nước xác định phụ thuộc vào tính chất của chính quan hệ xã hội đó. Vì vậy, trong cơ chế điều chỉnh pháp luật quy phạm pháp luật có vai trò thực hiện chức năng thông báo của nhà nước đến các chủ thể tham gia quan hệ xã hội về nội dung ý chí, mong muốn của nhà nước để họ biết được cái gì có thể làm, cái gì không được làm, cái gì phải làm, cái gì phải tránh không làm trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định nào đó

Quy phm pháp Luật có tính hệ thống. Môi quy phạm pháp luật được nhà nước ban hành không tồn tại và tác động một cách biệt lập, riêng rẽ, mà giữa chúng luôn có sự liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau tạo nên những chỉnh thể lớn nhỏ khác nhau [hệ thống pháp luật và các bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật] cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự ổn định và phát triển xã hội. Quy phạm pháp luật của các nhà nước hiện đại chủ yếu là quy phạm pháp luật thành văn, chúng được chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Do nhu cầu điều chỉnh xã hội mà số lượng các quy phạm pháp luật của một nhà nước được ban hành ngày một nhiều hơn và phạm vi các đối tượng mà chúng tác động cũng ngày càng rộng hơn, trật tự ban hành, áp dụng và bảo vệ chúng ngày càng dân chủ hơn với sự tham gia của đông đảo các thành viên trong xã hội. Nội dung của quy phạm pháp luật ngày càng trở nên chính xác, chặt chẽ, rõ ràng, thống nhất và có tính khả thi cao.

Phản ánh năng động sự phát triển của xã hội các quy phạm pháp luật luôn có sự thay đổi cùng với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển. Các quy phạm pháp luật có thể bị hủy bỏ, sửa . đổi hoặc bổ sung trong quá trình hoạt động pháp luật của nhà nước.

Tóm lại: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nưc ban hành và bảo đm thực hiện đđiều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và nhằm đt được những tin độc nhất định.

Các quy phạm pháp luật có thể là là những quy tắc xử sự của công dân, của những người có chức vụ, quyền hạn, là những quy định về cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, là những quy định về địa vị pháp lý của các đoàn thể, tổ chức quần chúng và các chủ thể pháp luật khác.

5/5 - [4 bình chọn]

Video liên quan

Chủ Đề