So sánh sán dây lợn và sán dây bò

Phân biệt sán dây lợn và sán dây bò

Sán dây bò- Taenia saginata

Nói chung bệnh sán dây bò, phổ biến hơn sán dây lợn. Theo ước tính trên thế giới có khoảng 39 triệu người nhiễm. Theo thống kê của Viện Sốt rét - KST - CT Trung ương, đến năm 2004, ở Việt Nam đã có 49 tỉnh thành phát hiện bệnh nhân có sán dây bò.

Đặc điểm hình thể.

Sán trưởng thành:

Sán trưởng thành dài 4 - 12 m, hoặc có thể dài hơn nữa.

Thân có khoảng 1.200 - 2.000 đốt.

Đầu sán: hơi dẹt, đường kính khoảng 1- 2 mm, có 4 giác, không có vòng móc.

Cổ: dài khoảng 5 mm, hẹp.

Các đốt sán: gần đầu, chiều ngang lớn hơn chiều dọc, càng xa đầu chiều dài càng lớn hơn chiều ngang. Kích thước trung bình mỗi đốt từ 6 - 20 x 10 - 12 mm.

Tử cung chứa đầy trứng (khoảng 100.000 trứng).

So sánh sán dây lợn và sán dây bò

Hình 12.10: Sán dây T.saginata trưởng thành.

Các đốt sán:

Các đốt gần cổ (đốt non) chưa có cấu tạo gì bên trong rõ rệt, chỉ chứa mầm phôi thai của cơ quan sinh dục. Các đốt càng xa cổ càng già, có thể chia ra làm ba loại đốt:

Đốt non: bộ phận sinh dục đực xuất hiện trước và chiếm ưu thế, bộ phận sinh dục cái xuất hiện sau.

Đốt trưởng thành: có cả bộ phận sinh dục đực và cái phát triển hoàn thiện và cân đối.

Đốt già: bộ phận sinh dục cái xuất hiện trước và chiếm ưu thế, toàn đốt chỉ gồm có tử cung phân nhánh, chứa đầy trứng, bộ phận sinh dục đực chỉ còn lại dấu vết của đường dẫn tinh, các bộ phận khác thoái hoá hết. Lỗ sinh dục mở ra bên cạnh đốt, xen kẽ không đều nhau giữa các đốt.

So sánh sán dây lợn và sán dây bò

Hình 12.11: Đốt sán dây T.saginata.

Hình 12.12: Trứng sán dây T.saginata.

Trứng:

Trứng màu nâu xẫm, rất giống trứng của sán dây lợn, khó phân biệt.

Nang ấu trùng sán dây bò:

Là một bọc chứa đầy chất lỏng trong đầu ấu trùng, không có móc, có bốn giác gọi là “gạo bò”, ở thịt bò có kích thước 7,5 - 10 x 4 - 6 mm.

Đặc điểm sinh học.

Sán dây bò kí sinh ở ruột non người.

So sánh sán dây lợn và sán dây bò

Hình 12.13: Vòng đời sinh học của sán dây T.saginata.

Những đốt sán già tự động ngắt ra khỏi thân sán, chủ động bò ra hậu môn, rồi bò ra quần áo, giường chiếu. Vì vậy bệnh nhân thường biết là mình có bệnh. Các đốt sán rụng ra thành những đơn vị độc lập, chuyển động nhờ những cơ rất khoẻ, chúng có thể bò lên bụng, lên nách bệnh nhân hoặc bò khắp giường chiếu. Hàng ngày thân sán có thể mọc dài ra 3 - 28 đốt.

Các đốt sán già rơi ra ngoại cảnh vỡ ra, giải phóng hàng trăm nghìn trứng. Trâu, bò ăn phải đốt sán, vào tới ruột trứng sán nở ra ấu trùng, ấu trùng rơi vào hệ tuần hoàn về tim vào đại tuần hoàn đi tới các cơ vân hình thành nang ấu trùng ở cơ của trâu, bò, gọi là “gạo bò” (cysticercus - bovis).

Nang ấu trùng thấy nhiều ở cơ lưỡi, cơ hoành, cơ tim, cơ mông… của trâu, bò.

Nếu người ăn thịt trâu, bò có nang ấu trùng, chưa được nấu chín hoặc tái, sống thì nang ấu trùng vào ruột người rồi ấu trùng thoát ra khỏi nang, đầu lộn ra ngoài, bám vào màng ruột và phát triển thành sán trưởng thành, trong từ khoảng 8 - 10 tuần.

So sánh sán dây lợn và sán dây bò

Hình 12.14: Nang ấu trùng sán dây bò trong cơ.

Người là vật chủ chính. Trâu, bò là vật chủ phụ. Sán dây bò có thể sống trong cơ thể người từ 20 - 30 năm.

Trước đây quan niệm rằng: người chỉ mắc bệnh sán trưởng thành không mắc bệnh ấu trùng. Nhưng hiện nay người ta thấy hầu hết các loại sán dây người đều có thể mắc cả bệnh sán trưởng thành và bệnh ấu trùng. Nhưng hiếm thấy người mắc bệnh ấu trùng của sán dây bò hơn.

Theo thông báo của Han Jong Rin, khoa Kí sinh trùng, trường Đại học Y Triều Tiên cho biết: sán dây bò châu Á cho đến nay được nhận dạng là T.saginata và thấy rõ sự khác biệt qua mô tả chu kì phát triển và gần đây được đặt tên là T.saginata taiwanesis (1992). Sự khác nhau chủ yếu giữa các sán dây T.saginata và sán dây mới T.saginata châu Á là vật chủ trung gian và mô nhiễm.

Ấu trùng sán dây T.saginata châu Á được tìm thấy trong gan của lợn nhiều hơn trong cơ của bò.

Vai trò y học.

Do kích thước của sán dây bò rất lớn, nên thường gây những rối loạn tiêu hoá với các triệu chứng: đau tức vùng thượng vị, đau bụng khi đói, ỉa lỏng, sút cân, đôi khi buồn nôn.

Người mắc bệnh sán dây bò còn bị những tác động tâm lí nặng nề, khó chịu và ghê sợ, khi nhìn thấy những đốt sán tự rụng ra, bò khắp nơi: giường, chiếu, quần áo…

Thường rất hiếm thấy người mắc bệnh ấu trùng sán dây bò.

Chẩn đoán.

Cần chẩn đoán phân biệt với sán dây lợn theo bảng dưới đây.

Bảng so sánh phân biệt sán dây lợn và sán dây bò:

Sán dây lợn

Sán dây bò

Đầu

Có 2 vòng móc.

Không có móc.

Chiều dài

2 - 3 m.

4 -12 m.

Đốt già

Dài 10 - 12 mm, tử cung chia nhánh: 6 - 8 - 12.

Dài 18 - 20 mm, tử cung chia nhánh: 18 - 35.

Số đốt

800 -1.000.

1.200 - 2.000.

Hình thức rụng

Thường rụng từng khúc.

Rụng từng đốt.

Đốt sán già

Ngắn có 5 - 6 đốt liền nhau theo phân ra ngoài.

Tự động bò ra ngoài không cần theo phân.

Trứng

Hình cầu, đường kính 35 - 36 µm.

Hình bầu dục 30 - 40 x 20 - 30µm.

Nang ấu trùng

(gạo)

Cysticercus celluloase dễ nhận

Cysticercus bovis khó nhận.

Vật chủ trung gian

Lợn (bắt buộc), người, lợn rừng, chó...

Trâu, bò (bắt buộc), người có thể là vật chủ trung gian nhưng hiếm.

Hình thức nhiễm sán

Do ăn thịt lợn sống có ấu trùng, ăn phải trứng hoặc có sán rồi bị nôn đốt sán già từ ruột non lên dạ dày.

Do ăn thịt bò, trâu sống.

Điều trị.

Giống như điều trị sán dây lợn trưởng thành.

Dịch học và phòng chống.

Nhìn chung, phòng chống sán dây bò giống như sán dây lợn. Sán dây phân bố rộng rãi trên thế giới.

Trâu bò mắc bệnh do ăn cỏ có trứng sán, những cánh đồng cỏ hai bên bờ sông bị ngập nước, trứng sán bò vẫn có thể sống lâu hơn 8 tuần lễ. Bò con dưới 1 tuổi dễ nhiễm bệnh sán. Bò lớn hơn có miễn dịch một phần.

Các xứ sở theo đạo Hồi như Ấn Độ… rất hiếm bị bệnh sán dây bò vì kiêng thịt bò.

Hiện nay có xu hướng phòng bệnh cho trâu, bò bằng cách tiêm vaccin tạo cho bò không nhiễm sán. Dùng kháng nguyên điều chế từ oncospheres cho bò cái uống. Kháng thể IgA do tế bào lympho B ở niêm mạc tăng tiết. Từ đó IgA chuyển sang tuyến vú và IgA có trong sữa bò cái. Bê bú sữa này có kháng thể IgA có khả năng chống nhiễm sán.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Sán dây trưởng thành rất dễ thích nghi với đường tiêu hóa của vật chủ nơi chúng thường gây ra các triệu chứng tối thiểu. Có một số ngoại lệ. Nhiễm trùng nặng với Hymenolepis nana có thể gây khó chịu ở bụng, tiêu chảy và giảm cân; Diphyllobothrium latum có thể gây ra thiếu vitamin B12 và thiếu máu cục bộ.

Trái ngược với sán dây trưởng thành, ấu trùng có thể gây ra bệnh nghiêm trọng và thậm chí tử vong khi chúng phát triển ở các vùng ngoài da, quan trọng nhất trong não, nhưng cũng ở gan, phổi, mắt, cơ, và mô dưới da. Ở người, T. solium gây ra chứng sán màng phổi, và Echinococcus granulosus và E. multilocularis gây ra bệnh hydatid. Ấu trùng của Spirometra spp, Sparganum proliferum, T. multiceps, và T. serialis cũng có thể lây nhiễm cho người.

Chẩn đoán

  • Đối với nhiễm trùng sán dây trưởng thành, soi mẫu phân dưới kính hiển vi

  • Đối với bệnh ấu trùng, chẩn đoán hình ảnh

Nhiễm trùng sán dây trưởng thành được chẩn đoán bằng cách xác định trứng hoặc phân đoạn proglottid ở trong mẫu phân. Bệnh ấu trùng được nhận dạng tốt nhất bằng chẩn đoán hình ảnh (ví dụ, CT não và / hoặc MRI). Xét nghiệm huyết thanh học cũng có thể hữu ích.

Điều trị

  • Thuốc trị giun sán

Thuốc giun sán praziquantel có hiệu quả đối với nhiễm trùng sán dây trong ruột. Niclosamide là một thuốc thay thế không có ở Mỹ. Nitazoxanide có thể được sử dụng cho nhiễm trùng H. nana.

Một số trường hợp nhiễm trùng đường tiêu hóa đáp ứng với điều trị bằng thuốc giun sán với albendazole và / hoặc praziquantel; một số khác khác cần can thiệp phẫu thuật.

Phòng ngừa

Phòng ngừa và kiểm soát bao gồm:

  • Nấu chín (đến nhiệt độ > 57° C [>135° F]) thịt lợn, thịt bò, thịt cừu, thịt thú ăn thịt và cá

  • Thịt đông lạnh kéo dài đối với một số sán dây (ví dụ, sán dây cá)

  • Thường xuyên tẩy giun cho chó và mèo

  • Ngăn ngừa việc tái chế thông qua các vật chủ (ví dụ như chó ăn phải các vật xác chết động vật)

  • Giảm và tránh các vật chủ trung gian như loài gặm nhấm, bọ chét và bọ cánh cứng

  • Kiểm tra thịt

  • Xử lý vệ sinh chất thải của con người

Hun khói và làm khô thịt không hiệu quả trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Nhiễm trùng đường ruột

Người bị nhiễm sán T. solium trưởng thành không có triệu chứng hoặc có triệu chứng nhẹ về tiêu hoá. Có thể thấy proglottids trong phân của họ.

Cysticercosis

Cysticerci (dạng ấu trùng) ở hầu hết các cơ quan gây ra phản ứng mô nhỏ hoặc không, nhưng sự chết của nang trong hệ thần kinh trung ương có thể gây ra đáp ứng mô dữ dội. Do đó, các triệu chứng thường không xuất hiện trong nhiều năm sau khi bị nhiễm trùng.

Nhiễm trùng trong não (bệnh cysticercosis não) có thể gây ra các triệu chứng nặng do tác dụng của khối u và viêm do thoái hóa cysticerci và giải phóng kháng nguyên.

Tùy thuộc vào vị trí và số lượng u nang, bệnh nhân bị neurocysticercosis có thể xuất hiện cơn co giật, dấu hiệu tăng áp lực nội sọ, não úng thủy, các dấu hiệu thần kinh khu trú, tình trạng tinh thần thay đổi, hoặc viêm màng não vô trùng.

Cysticerci cũng có thể nhiễm vào tủy sống, cơ, mô dưới da và mắt.

Miễn dịch thứ phát hình thành sau khi nhiễm ấu trùng.

Chẩn đoán

  • Xét nghiệm phân tìm trứng và proglottids

  • CT và / hoặc MRI và xét nghiệm huyết thanh học cho các bệnh nhân có các triệu chứng thần kinh trung ương

Nhiễm trùng đường ruột với sán dây T. solium trưởng thành thường có thể được chẩn đoán bằng kiểm tra bằng kính hiển vi các mẫu phân và tìm thấy trứng và / hoặc proglottids. Tuy nhiên, không thể phân biệt được trứng của T. saginata và T. asiatica. trứng của T. solium có mặt trong 50% mẫu phân từ bệnh nhân bị cysticercosis.

Cysticercosis thường được chẩn đoán khi CT hoặc MRI được thực hiện để đánh giá các triệu chứng thần kinh. Phim chụp có thể cho thấy nốt rắn, cysticerci, u nang vôi hóa, tổn thương nhẫn, hoặc não úng thủy. Các thử nghiệm immunoblot của Trung tâm Kiểm soát và Kiểm soát Bệnh của CDC (sử dụng mẫu huyết thanh) rất cụ thể và nhạy hơn các xét nghiệm miễn dịch khác của enzyme (đặc biệt khi > 2 tổn thương CNS có mặt; độ nhạy thấp hơn khi chỉ có một u nang đơn).

Kinh nghiệm và những sai lầm

  • Trứng T. solium có mặt trong 50% mẫu phân từ bệnh nhân bị cysticercosis.

Điều trị

  • Đối với nhiễm trùng đường ruột: Praziquantel hoặc niclosamide (bên ngoài Hoa Kỳ)

  • Đối với neurocysticercosis: Corticosteroid, thuốc chống co giật, và đôi khi albendazole hoặc praziquantel và / hoặc phẫu thuật

Điều trị nhiễm khuẩn đường ruột

Nhiễm trùng đường ruột được điều trị với praziquantel 5 đến 10 mg / kg đường uống một liều duy nhất để loại bỏ giun trưởng thành. Praziquantel nên được sử dụng cẩn thận ở những bệnh nhân bị neurocysticercosis vì bằng cách tiêu diệt nang, praziquantel có thể gây ra phản ứng viêm kết hợp với cơn co giật hoặc các triệu chứng khác.

Ngoài ra, một liều niclosamide đơn liều 2g (không có ở Mỹ) 4 viên (mỗi viên 500 mg) được nhai một lần và nuốt với một ít nước. Đối với trẻ em, liều này là 50 mg / kg (tối đa 2 g) một lần.

Điều trị neurocysticercosis

Các mục tiêu điều trị ban đầu cho neurocysticercosis có triệu chứng là

  • Giảm viêm kết hợp với thoái hóa cysticerci do MRI ghi lại

  • Để ngăn ngừa co giật nếu có hoặc nếu nguy cơ cao

  • Để làm giảm áp lực nội sọ nếu có

Corticosteroids (prednisone 60 mg ngày một lần / ngày hoặc dexamethasone 6 mg uống một lần / ngày) được sử dụng để giảm viêm và tăng áp lực nội sọ.

Thuốc chống động kinh thông thường Thuốc điều trị động kinh Không có thuốc duy nhất kiểm soát tất cả các loại cơn động kinh, và các bệnh nhân khác nhau đòi hỏi các loại thuốc khác nhau. Một số bệnh nhân cần nhiều thuốc. (Xem thêm hướng dẫn thực hành... đọc thêm được cho những bệnh nhân bị co giật. Những loại thuốc này có thể được sử dụng dự phòng ở những bệnh nhân có nguy cơ cao bị co giật, đặc biệt là những người có nhiều thương tổn thoái hoá với viêm kết hợp.

Can thiệp phẫu thuật có thể là cần thiết cho những bệnh nhân tăng áp lực nội sọ hoặc cysticerium trong não.

Điều trị triệu chứng neurocysticercosis là phức tạp và nên được tư vấn bởi chuyên gia. Lựa chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào vị trí, số lượng và kích cỡ của cysticerci; giai đoạn của bệnh; và biểu hiện lâm sàng.

Không phải tất cả bệnh nhân đều đáp ứng với điều trị, và không phải tất cả bệnh nhân đều phải được điều trị (u nang có thể đã chết và can xi hóa, hoặc phản ứng viêm với điều trị có thể tồi tệ hơn bệnh).

Khi điều trị bằng thuốc chống giun sán được sử dụng, albendazole 7,5 mg / kg sau 2 lần / ngày trong 15 ngày có vẻ hiệu quả hơn phương pháp thay thế, praziquantel 16,6 mg / kg sau 15 ngày, nhưng một số bệnh nhân chưa đáp ứng với albendazole có đáp ứng với praziquantel. Albendazole dùng ≥ 30 ngày đã được sử dụng để điều trị bệnh và u nang trong khoang dưới nhện (racemose cysticercosis), ít đáp ứng với thuốc giun sán. Thỉnh thoảng, albendazole và praziquantel được sử dụng cùng nhau.

Hoặc prednisone hoặc là dexamethasone được cho đồng thời với thuốc giun sán để giảm viêm xảy ra để đáp ứng với u nang trong não. Corticosteroid làm tăng mức trong dịch não tủy của hoạt chất chuyển hóa của albendazole nhưng làm giảm mức độ trong DNT của praziquantel.

Không nên dùng albendazole hay praziquantel ở những bệnh nhân bị cysticerci mắt hoặc tủy sống.

Sự có mặt của cysticerci trong não là một chống chỉ định cho các thuốc giun sán vì kết quả phản ứng viêm gây ra bởi u nang chết có thể gây ra não úng thủy tắc nghẽn.

Phẫu thuật có thể là cần thiết cho não úng thủy tắc nghẽn (do cysticerci trong hệ thống não thất bao gồm cả não thất 4) hoặc cysticercosis tủy sống hoặc mắt. Cysticerci trong não thất được nội soi loại bỏ khi có thể. Có thể cần đến các shunt não thất để giảm áp lực nội sọ.

Bệnh sán dây lợn, bò (Taeniasolium, Taenia saginata)

Cập nhật: 21/04/2019 Lượt xem: 2871

Bệnh sán dây lợn, bò

PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm, BV103, HVQY

Bệnh sán dây ở người bao gồm 2 loại là sán dây lợn(Taeniasolium) và sán dây bò (Taenia saginata). Sán dây có thể ký sinh ở người dưới hình thức là sán trưởng thành và ấu trùng.

So sánh sán dây lợn và sán dây bò

Hình 1. Sán dây trưởng thành.

Sán dây ký sinh ở bò hoặc lợn: Trâu, bò, lợn ăn phải trứng sán hoặc đốt sán trong môi trường hoặc phân người có sán, vào dạ dày, ruột chúng nở ra thành ấu trùng. Ấu trùng sán chui qua thành ống tiêu hóa vào máu và tới các cơ vân tạo kén ở đó tạo thành các nang màu trắng nổi lên như hạt gạo gọi là bò gạo hoặc lợn gạo.

Người ăn phải thịt của bò gạo hoặc lợn gạo chưa nấu chín, ấu trùng sán vào ruột sẽ nở ra con sán trưởng thành. Sán trưởng thành ký sinh trong ruột non. Sán dây bò, đầu có 4 giác bám, không có vòng móc, dài từ 4-12m, gồm từ 1200-2000 đốt. Sán dây lợn, đầu có 4 giác bám, có 2 vòng móc, dài từ 2-4m và có từ 700-1000 đốt). Trứng sán nằm trong đốt sán theo phân ra ngoài môi trường.

Người ăn phải trứng sán khi vào dạ dày và ruột, trứng nở ra ấu trùng, ấu trùng xuyên qua thành ống tiêu hóa vào máu và di chuyển đến ký sinh tại các cơ vân, não, mắt… nổi lên các nang màu trắng như hạt gạo. Người bị nhiễm ấu trùng sán dây gọi là người gạo.

Trứng sán dây nằm trong đốt sán nên khó bị phá vỡ, chỉ khi nào đốt sán thối rữa mới giải phóng trứng. Trứng sán dây tồn tại trong môi trường, chỉ khi nhiệt độ trên 700C mới có khả năng diệt được trứng sán. Ấu trùng sán dây lợn bị giết chết ở nhiệt độ dưới -20C trong 4 ngày, nhưng ở 00C đến -20C nó sống được gần 2 tháng và nhiệt độ trong phòng cũng sống được 26 ngày. Ấu trùng bị giết chết ở nhiệt độ 45-500C, để đảm bảo an toàn phải đun sôi trên 1 giờ.

Nguồn lây nhiễm: Người có sán dây trưởng thành sống ở ruột noni. Một số động vật có vú như người, lợn, lợn rừng, trâu, bò, lạc đà, cừu, dê, ngựa, thỏ, chó, mèo có ấu trùng sán dây lợn sống ký sinh ở trong tổ chức. Thời gian ủ bệnh: sán dây trưởng thành khoảng 8-10 tuần, ấu trùng khoảng 9-10 tuần. Thời kỳ lây truyền: sau khoảng 10 tuần, sán trưởng thành sống trong ruột non của người, những đốt sán già tự rụng ra ngoài hậu môn hoặc theo phân bài tiết ra ngoài. Trong đốt sán có trứng sán, khi đốt rữa ra trứng sẽ được giải phóng. Nếu người ăn phải trứng sán dây lợn sẽ gây bệnh ấu trùng sán dây lợn (người gạo). Nếu người ăn phải thịt lợn, thịt bò có ấu trùng sán (lợn gạo, bò gạo) chưa được nấu chín sẽ phát triển thành sán dây lợn hoặc bò trưởng thành ký sinh ở ruột non của người.

Biểu hiện lâm sàng:

- Bệnh sán dây trưởng thành: Sán trưởng thành ký sinh ở ruột non, chủ yếu gây triệu chứng đau bụng, rối loạn tiêu hóa nhẹ, kém ăn, gầy. Trẻ bị bệnh thường xuyên có cảm giác khó chịu, bứt rứt do những đốt sán tự rụng và bò ra ngoài ống tiêu hóa bất cứ lúc nào. Bệnh sán dây trưởng thành thường liên quan đến tập quán ăn thịt lợn hoặc bò tái hoặc chưa nấu chín. Chẩn đoán: xét nghiệm phân tìm thấy đốt sán hoặc trứng sán dây.

So sánh sán dây lợn và sán dây bò

Hình 2. Một con sán trưởng thành trong phân người.

- Bệnh ấu trùng sán dây: tùy thuộc vào vị trí ký sinh của nang sán mà có những biểu hiện khác nhau: Nang sán ở cơ vân thấy các nốt ở dưới da bằng hạt đỗ, hạt lạc, di động dễ, không ngứa, không đau, nằm ở vị trí cơ vân, không ở trên đường đi của hạch bạch huyết. Nếu nang sán ở não có thể bị động kinh, liệt tay, chân, hay liệt nửa người, nói ngọng, rối loạn trí nhớ hoặc đau đầu. Nếu nang sán ở mắt có thể tăng nhãn áp, giảm thị lực hoặc mù. Bệnh ấu trùng sán dây lợn thường gặp ở những vùng có sử dụng phân tươi để bón cây trồng. Chẩn đoán xác định khi có một trong các tiêu chuẩn sau: sinh thiết các nốt (nang) sán dưới da, ép, soi kính hiển vi thấy vòng móc của đầu sán hoặc chụp cắt lớp não (CT scanner) có nang sán trong não là những nốt dịch có chấm mờ lệch tâm, kích thước 3-5mm, có nốt to hơn, có thể có nốt vôi hóa. Chụp cộng hưởng từ (MRI) có độ chính xác cao hơn. Xét nghiệm máu tìm kháng thể kháng ấu trùng sán dây lợn bằng phương pháp ELISA. Tuy nhiên xét nghiệm máu dương tính chỉ cho biết bệnh nhi đã từng nhiễm sán, còn hiện tại có sán hay không thì không xác định được.

So sánh sán dây lợn và sán dây bò
So sánh sán dây lợn và sán dây bò

Hình 3. Người gạo (hình trái) và sán dây trong não trên phim MRI (hình phải)

Điều trị: Thuốc điều trị sán dây trưởng thành có thể dùng một trong hai loại thuốc sau: Praziquantel hoặc Niclosamide liều duy nhất uống lúc đói, sau 2 giờ tẩy bằng Magie sulphat kèm theo uống nhiều nước. Điều trị nang sán: áp dụng tại các bệnh viện, có thể dùng Praziquantel mỗi đợt 10 ngày, 2-3 đợt, mỗi đợt cách nhau 10-20 ngày hoặc Albendazole mỗi đợt 30 ngày, 2-3 đợt, mỗi đợt cách nhau 10-20 ngày. Trước khi dùng phác đồ này, cần tẩy sán trưởng thành bằng Praziquantel.

Dự phòng: Người dân cần hiểu về tác hại và đường lây của bệnh sán dây và bệnh ấu trùng sán để chủ động phòng chống bệnh. Quản lý và xử lý nguồn phân tươi hợp lý, tránh reo rắc mầm bệnh ra môi trường. Phát hiện và tẩy sán trưởng thành sớm nếu bị nhiễm bệnh. Thực hiện vệ sinh cá nhân, không ăn thịt bò hoặc lợn tái hoặc chưa nấu chín. Khi phát hiện thịt lợn gạo hoặc thịt bò gạo không được ăn và phải tiêu hủy, Thực hiện ăn chín, uống chín, ăn rau sống phải rửa sạch dưới vòi nước.


CHIA SẺ BÀI VIẾT