Tác phẩm văn học về tình yêu thiên nhiên

4. Sương và Nắng(Tác giả: Puskin)Em cần anh như biển xanh cần sóng.Có mặt biển nào yên lặng được đâu anh.Em yêu anh bởi vì anh là nắng.Có hạt sương nào thiếu nắng lại long lanh.Em là sương, sương chỉ tan trong nắng.Dẫu chẳng hình hài nắng vẫn đọng lại trong sương.Anh là nắng khi bình minh trở dậy.Mang lửa trời trong ánh sáng ban mai.Em là sương đọng muôn vàn nỗi nhớ.Để tan đi trong những giấc mơ dài.Nhưng vẫn nguyện làm giọt sương mãi mãi.Soi nắng mặt trời mãi mãi chẳng tàn phai.Dẫu bão tố chẳng ra ngoài lòng nắng.Nắng lên rồi xin lại được làm sương.Vũ trụ không gian biến đổi khôn lường.Những buổi sáng có bao giờ bất biến.Những tia nắng không ngừng hiển hiện.Như đêm ngày luân chuyển chẳng chia ly.Mặt trời ơi! Sức nắng diệu kỳ.Đầy sương sớm với tâm hồn nguyên thuỷ.Với năm tháng vẫn quay về bền bỉ.Soi nắng mặt trời như từ kỷ sơ sinh.Em là sương, sương chỉ tan trong nắng.Nắng vô cùng nhưng đọng lại trong sương.Từ mênh mông tia nắng nhỏ bình thường.Gặp sương sớm bỗng ngời lên lóng lánh.Nếu vì nắng mà lòng sương bớt lạnh.Thì nhờ sương tia nắng mới long lanh.Đáng yêu sao hạt sương nhỏ hiền lành.Từ trong suốt mà làm nên tha thiết.Anh là nắng với sắc tình bất diệt.Mang lửa trời từ những kỷ xa xôi.Về đọng lại trong hạt sương nhỏ em ơi!____________5.Tôi yêu emTác giả: puskinTôi yêu em: đến nay, chừng có thể, Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai; Nhưng không để em bận lòng thêm nữa; Hay hồn em phải gợn bóng u hoài. Tôi yêu em âm thầm, không hy vọng, Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen; Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm, Cầu em được người tình như tôi đã yêu em. _______________Nguồn: theo Cần Thơ IT

Và Giupban


Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi qua một số bài thơ đã học

Nguyễn Trãi là bậc đại thi hào đầu tiên của dân tộc. Ông là người có tâm hồn phóng khoáng, nhạy cảm với thiên nhiên. Thiên nhiên từ bao đời nay đã trở thành nguồn cảm hứng của nhiều tác giả. Những tác giả của những bài thơ thiên nhiên hay thường là những người có tâm hồn phóng khoáng thanh cao. Họ thường tìm đến với thiên nhiên, đối với họ thiên nhiên là bầu bạn, là nơi giãi bày tâm sự. Thiên nhiên, là một trong những nội dung chính trong các tác phẩm thơ văn của Nguyễn Trãi. Qua một số bài thơ đã học trong sách Văn học 10, tập một như Cây chuối; Bảo kính cảnh giới, 43; Tùng; Côn Sơn ca chúng ta cũng thấy rõ điều đó.

Trước hết ta thấy thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi luôn luôn tươi mới, sống động, tràn đầy sức xuân. Thiên nhiên trong bài thơ Cây chuối rút trong tập Môn hoa mộc của Nguyễn Trãi có một sức sông dồi dào: 

“Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm,


Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem” 

Trong bài thơ, chúng ta bắt gặp nhiều chi tiết, nhiều hình ảnh của cây chuối mà trong thực tế nó không thê xuất hiện cùng một lúc. Nhưng bài thơ không hề vô lí vì tác giả đã dựa vào quy luật đồng hiện của văn chương. “Hơi xuân” được cảm nhận được bằng giác quan tinh tế của mình. Phải chăng hơi xuân là cái gì cô đọng nhất, tinh tuý nhất, là cái hồn của mùa xuân. Hình như ở đây có sự giao cảm ý nhị giữa đất trời cỏ cây hoa lá. Cây chuối chủ động đón nhận sức sống tràn trề mà mùa xuân tặng cho mình. Sức sống ấy khi gặp hơi xuân như được nhân lên gấp bội. Câu thơ thứ hai gây cho người đọc ấn tượng đặc biệt. Buồng chuối quả thật không có gì lạ nhưng dưới con mắt của thi nhân thì sự lạ ấy lại xuất hiện trong một sự vật vốn rất quen. Con mắt nhà thơ dường như có một sự phát hiện, một khám phá độc đáo. Tâm hồn nhà thơ rất nhạy cảm với thiên nhiên. Từ những sự vật bình thường nhà thơ vẫn có cảm xúc rất mãnh liệt. Hai câu thơ miêu tả sức sống của cây chuối, của mùa xuân và cũng là của cuộc đời.

  •  Chiến thắng Mtao Mxây (Trích Sử thi Đăm Săn)
  •  Văn bản (tiếp theo)

Hai câu cuối, tác giả lại phát hiện một nét đẹp mới của cây chuối. Nhà thơ sử dụng tói so sánh ngầm độc đáo đến bất ngờ Lá chuối non cuộn lại như một bức thư tình, còn gió như một người khách lạ được mời gọi tới gượng mở bức thư. Ẩn trong câu thơ ta thấy Nguyễn Trãi có cái nhìn thật tinh tế, có tình cảm say đắm, tế nhị. Nếu không phải là người yêu thiên nhiên thì Nguyễn Trãi khó có thể miêu tả được cảnh thiên nhiên đẹp và giàu sức sống như vậy! Bài thơ cũng cho ta thấy nhà thơ đã phát hiện ra những gì tinh tuý nhất của đất trời. Chính tâm hồn của nhà thơ làm cho cảnh thiên nhiên đẹp hơn, đáng yêu hơn gấp ngàn lần. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi không chỉ là những hình ảnh mang tính quy phạm, ước lệ. Ông đã đưa vào thơ của mình những hình ảnh về cuộc sống dân dã, giản dị của người dân lao động. Ông không chỉ miêu tả trong thơ mình những tùng cúc, trúc, mai mà còn mạnh dạn miêu tả cây chuối. Vì thể thơ của Nguyễn Trãi rất dễ được quần chúng tiếp nhận. Hình tượng thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi là hình ảnh trữ tình, đầm ấm, chan hoà tình cảm giữa con người với thiên nhiên: 

“Côn Sơn núi chảy rì rầm,


Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”(Côn Sơn ca) Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong tám câu thơ thật tuyệt vời. Nhà thơ cảm nhận thiên nhiên bằn tất cả các giác quan và tấm lòng của mình. Tiếng suối chảy làm cho Nguyễn Trãi liên tưởng đến tiếng đàn. Đá và rêu, khi ngồi lên Nguyễn Trãi tưởng như ngồi trên chiếu êm. Tất cả sự vật đều được Nguyễn Trãi thổi vào một linh hồn, một sức sống. Cả một chút bụi bặm của cuộc đời để cho tâm hồn mình được thư thái trong cảnh an nhàn. Cảnh làm cho người đẹp thêm và người làm cho cảnh hoà với nhau dường như không có ranh giới. Sự sống động của nhiên thiên còn được Nguyễn Trãi miêu tả trong bài Bảo Kính cảnh giới, 43: 

“Rồi hóng mát thuở ngày trường,


Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương” 

Tác giả đã gạt bỏ mọi nỗi ưu tư để hoà tâm hồn mình vào cảnh vật. Có được những giây phút thư nhàn như thế đối với Nguyễn Trãi quả là hiếm hoi. Những giây phút như vậy chất nghệ sĩ trong tâm hồn Nguyễn trãi dược bộc lộ rất sâu sắc. Bức tranh thiên nhiên mà tác giả dựng nên trong bài thơ này là bức tranh sống động tiêu biểu, với sự hài hoà về màu sắc, cảnh vật. Đó là màu xanh của cây hoè bao phủ, choán ngợp không gian. Hai chữ “đùn đùn” làm hiện lên trước mắt người đọc màu xanh tầng tầng lớp lớp xuất hiện đan xen vào nhau. Tác giả đã sử dụng hai gam màu đậm, gắt mà không đối lập. Từ “phun” ở câu thơ thứ ba không chỉ cho ta thấy màu đỏ mà còn thấy được hình dáng của bông hoa. Bằng những từ nghe rất dân dã đó, tác giả đã phát hiện được cái hồn của cảnh vật. Đến câu thơ thứ tư, tác giả cho chúng ta thấy cảnh vật ở tầng thấp hơn. Đó là hình ảnh của ao sen mùa hạ. Dường như câu thơ mang một chút gì nuối tiếc về một thời đã qua.

 Phải tinh tế lắm, phải nhạy cảm lắm tác giả mới phát hiện được nhưng nét độc đáo như vậy. Nhờ thế, cảnh vật dường như có hồn, vô cùng sống động, tươi mới. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi gợi mở về hình ảnh một con người có chí lớn vượt khỏi gió bụi của cuộc đời giúp ích cho dân. Hình ảnh cây tùng trong bài thơ Tùng là hình ảnh tượng trưng về một con người lí tưởng mà Nguyễn Trãi mong ước. Thông qua việc miêu tả hình dáng bên ngoài và phẩm chất bên trong của cây tùng: Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời tiết khắc nghiệt, cây tùng vẫn trụ vững, vẫn hiên ngang bất khuất trước bão táp của cuộc đời, tác giả muốn nói đến phẩm chất của người quân tử. Và cái quý ở hình tượng được xây dựng theo truyền thống nghệ

thuật cổ có tính tượng trưng này là ở câu thơ cuối cùng mang chất trữ tình vì dân của Nguyễn Trãi: “Dành còn để trợ dân này”.

 

Tóm lại, thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Trãi luôn mới lạ và hấp dẫn bởi tâm hồn ông luôn trong sáng, tươi xanh. Nguyễn Trãi luôn mở rộng tâm hồn minh để đón nhận thiên nhiên, giao cảm với thiên nhiên. Chính vì thế, những bức tranh thiên nhiên hiện lên trong thơ Nguyễn Trãi như có hồn và tràn đầy sức sống.

Những bài văn mẫu hay lớp 11

Văn mẫu lớp 11: Nghị luận văn học về tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và niềm băn khoăn của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết Nghị luận văn học về tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và niềm băn khoăn của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng để bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết dưới đây cho thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và niềm văn khoăn của Xuân Diệu qua bài thơ Vội vàng. Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết tại đây.

  • Nghị luận bày tỏ ý kiến của mình về phương châm Học đi đôi với hành
  • Nghị luận văn học về bức tranh thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn của tác giả trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

Nghị luận văn học về tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và niềm băn khoăn của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng

Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và bằng việc "hăm hở" làm thơ tình! Nhắc đến Xuân Diệu, sẽ thật là thiếu sót nếu không kể tên "Vội vàng", "Đây mùa thu tới", và "Thơ duyên" trong tuyển tập "Thơ thơ" - đứa con đầu lòng mà "ông hoàng thơ tình" đã ban tặng cho nhân gian. Như một cái chạm tay khẽ nhẹ vào tâm hồn những người yêu thơ, thơ Xuân Diệu nhẹ nhàng và tinh tế như chính tác giả của nó, để lại trong tâm hồn người đọc một ấn tượng đậm nết và thật khó phôi pha về sự phóng túng, giàu có mà hết sức tinh tế trong đời sống nội tâm, tâm của hồn của cái "TÔI" trữ tình Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu như một khúc tình si say đắm ngọt ngào...thật đến từng hơi thở!

Những vẻ đẹp của mùa xuân đâu chỉ của riêng Xuân Diệu. Từ nghìn năm tước, các bậc tiền bối đã có những vần thơ tràn trề về tình yêu đói với mùa xuân và cuộc sống. Nhưng yêu đến mức có những ham muốn táo bạo và khác thường như Xuân Diệu, đó là điều thật mới mẻ, thật mãnh liệt. Đặc biệt là cái cách nói của nhà thơ. Trong thơ ca trung đại, nét nổi bật là tính phi ngã, cái tôi trữ tình thường ẩn náu sau những hình tượng thiên nhiên. Trong khi đó, Xuân Diệu bộc lộ ý thức về cái tôi trữ tình thật táo bạo:

"Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất,

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi."

Nói Xuân Diệu là một nhà thơ mới, quả không sai! Nếu như trong thơ ca của những thi sĩ lãng mạn ngày xưa, thiên đường là chốn bồng lai tiên cảnh, là nơi mây gió trăng hoa, thì trong quan niệm thơ của Xuân Diệu, cuộc sống trần gian mới thực là nơi hạnh phúc nhất, là nơi xinh đẹp và căng mọng nhựa sống nhất! Thơ lãng mạn của ông luôn có một niềm say mê ngoại giới, khác giới, một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mãnh liệt đến tràn đầy. Dường như lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông đã biến cái ham muốn "tắt nắng", "buộc gió" trở nên quá táo bạo, đến độ lo âu trước sự thay đổi của đất trời, cảnh vật… muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả thiên nhiên với vẻ đẹp vốn có của nó. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ,đảo ngược quy luật tự nhiên, phải chăng là ông đang muốn đoạt quyền tạo hóa. Nhưng trong cái phi lí đó, vẫn có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn yêu cuộc sống. Với ông, sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kỳ diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận như một thiên đường trên mặt đất, một bữa tiệc lớn của trần gian. Nhà thơ đã cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong "Vột vàng" vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khêu gợi.

Tác phẩm văn học về tình yêu thiên nhiên

Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”:

"Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si."

Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra 1 thiên dường trên mặt đất.Nếu thơ xưa, các nhà thơ chỉ sử dung thính giác và thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các thi sĩ thời Thơ mới lại huy động tất cả các giác quan từ nhiều góc độ để cảm nhân vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời lúc xuân sang. Trong đoạn thơ, điệp ngữ "này đây" được sử dụng 5 lần kết hợp với lối kiệt kê khiến nhịp thơ trở nên dồn dập, là một sự chỉ trỏ ngơ ngác, ngạc nhiên, lạ lẫm, như một tiếng reo vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say trước trùng trùng điệp: Của ong bướm tuần tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất”, của yến anh là khúc tình “si”; thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn ngột đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến lạ kì, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những "món ăn" có sẵn. Những vẻ đẹp được liệt kê bằng những tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử dụng từ ngữ của Xuân Diệu - cảnh vật trong thơ ông đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Sự vật bình thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện, được trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở nên lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa cuộc đời! Thi pháp hiện đại đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng thái hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài. Cách ngắt nhịp trong đoạn thơ đầy linh hoạt, biến hoá (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình ảnh, những khung cảnh được miêu tả thật cụ thể, in đậm phong cách Xuân Diệu: tuần tháng mật, đồng nội xanh rì ... tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say!

“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân."

Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời - vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng, tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh "thần vui hằng gõ cửa" gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại hy lạp xưa. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về thời gian "tháng giêng" so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính nhục cảm. Nhưng sao câu thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế. Cái mới trong thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sư kết hợp hài hoà giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến những suy tư và quan niệm nhân sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra cái quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian: "tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn ..." Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa". Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành 2 câu chứa đựng 2 tâm trạng, 2 cảm xúc trái ngược nhau: sung sướng-vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là "vội vàng một nửa". Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội càng "Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân." Vì sao vậy? Bởi với Xuân Diệu:

"Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hòan,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,"

Nhưng quan niệm của Xuân Diệu vừa phi lí, vừa hợp lí, vừa quen lại vừa lạ. Quen vì người xưa đã từng thở dài "xuất thì bất tái lai". Và là bởi đó là tiếng nói của một cái tôi ham sống, coi mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là tất cả sự sống của mình. Biết rằng mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, thi sĩ bâng khuâng, tiếc nuối ... Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng mang theo nỗi buồn “chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”. Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian: "Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?" Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn... Trái tim Xuân Diệu đa cảm quá và tâm hồn nhà thơ quá đỗi tinh tế trước bước đi của thời gian. Con người ấy lúc nào cũng "chẳng bao giờ nữa..." Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

Trong đoạn thơ này, cái giọng điệu sôi nổi, bồng bột, đắm say của Xuân Diệu thời "thơ thơ" thể hiện đầy đủ nhất. Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một cách chân thành. "Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ - mà vạn vật là muôn đá nam châm." Từng làn sóng ngôn từ lúc đan chéo nhau, lúc lại song song thành những đợt sóng ào ạt vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. So với đoạn thơ trên, cách tự xưng của nhân vật trữ tình thay đổi. Phần đầu bài thơ, thi sĩ xưng "tôi" - cái tôi đơn lẻ đang đối thoại với đồng loại. Đến đây, thi sĩ xưng ta một cách đầy tự tin nhưng đã có thêm rất nhiều đồng minh cùng đứng lên đối diện với sự sống: "Chẳng bao giờ, ôi!

“Chẳng bao giờ nữa. -

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,"

"Ta muốn ôm.

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"

Hình thức trình bày đoạn thơ rất đặc biệt, thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ba chữ "Ta muốn ôm" được đặt ở giữa dòng thơ mô phỏng hình ảnh nhân vật trữ tình đang dang rộng vòng tay để ôm tất cả sự sống lúc xuân thì - sự sống giữa thời tươi vào lòng. Đó là chân dung của một cái tôi đầy tham lam, ham hố đang đứng giữa trần gian, cuộc đời, dòng đời để ôm cho hết, riết cho chặt, cho say, cho chếnh choáng, thâu cho đã đầy, cho no nê, cho tới tận cùng những hương sắc của đất trời giữa mùa xuân... Tất thảy đều vồ vập, khát khao đến cháy bỏng với các mong muốn được giao hoà, giao cảm mãnh liệt với vạn vật, với cuộc đời. Đây quả là một khát khao vô biên, tuyệt đích, rất tiêu biểu cho cảm xúc thơ Xuân Diệu. Điệp từ, điệp ngữ được sử dụng bới tần số dày đặc trong cả đoạn thơ tiêu biểu cho nhịp điệu dồn dập, đầy bồng bột, đắm say. Chính những câu thơ đó lưu lại trong ta ấn tượng về một dòng sông cảm xúc cứ dâng trào, ào ạt từ câu mở đầu cho đến câu cuối cùng bài thơ. Chỉ riêng điệp ngữ ta muốn được điệp tới bốn lần, mỗi lần điệp đi điệp lại liền với một động từ diễn tả một trạng trái yêu thương mỗi lúc một nồng nàn, say đắm: ôm, riết, say, thâu. Đó chính là đỉnh điểm của cảm xúc bồng bột, sôi nổi và đắm say khiến nhà thơ phá tung những quan niệm của thi pháp trung đại để biểu lộ tâm hồn mình trong một cách nói tưởng như vô nghĩa mà hoá ra rất sáng tạo "Và non nước, và cây, và cỏ rạng." Một trạng thái tham lam, ham hố không có điểm tận cùng trong tâm hồn nhà thơ. Tròn cảm nhận của thi nhân, cuộc đời trần thế như bày ra cả một bàn tiệc với tất cả hình ảnh của cuộc sống tươi non, đầy hương sắc. Nhà thơ diễn tả thiên nhiên bằng các mĩ từ, lại nhân hoá khiến nó hiện ra như con người có hình hài và mang dang dấp của tuổi xuân. Câu cuối cùng kết thúc cả bài thơ:" Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi." Đây là lời gọi thiết tha với sự cuồng nhiệt cao độ của 1 trái tim khao khát tình yêu và cuộc sống. Trong hồn thơ Xuân Diệu, mùa xuân - tuổi xuân ngon lành và quyến rũ như một trái chín ửng hồng, như mời mọc. Trong câu thơ này, hình ảnh xuân hồng với từ "cắn" khiến câu thơ thật gợi cảm xen chút giật mình trước tứ thơ thật độc đáo, diễn tả niềm khao khát giao cảm mãnh liệt, sự ham hố cuồng nhiệt của Xuân Diệu mãi mãi là khát vọng, là ham muốn không có giới hạn.

Với bài thơ "Vội vàng", Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu "Thơ mới". Mới lạ nhưng táo bạo, độc đáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là cách cảm nhận cuộc sống bằng tất cả các giác quan, với một trái tim chan chứa tình yêu. "Vội vàng" đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ... Và là ham muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh sắc đất trời "tươi non mơn mởn". Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si?! Thơ Xuân Diệu - vội vã với nhịp đập của thời gian.

Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 11: Nghị luận văn học về tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và niềm băn khoăn của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 11 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 11.

Các bài liên quan đến tác phẩm:

  • Soạn bài lớp 11: Vội vàng
  • Phân tích 13 câu thơ đầu bài Vội vàng
  • Phải chăng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu chỉ là sự thể hiện quan niệm sống gấp gáp bồng bột của tuổi trẻ

Bài tiếp theo: Nghị luận về cách chăm sóc con của bố mẹ mình