Tại sao 1 try có thể dùng nhiều catch

Cho dù bạn giỏi lập trình đến đâu thì đôi khi các đoạn code của bạn vẫn có lỗi. Chúng có thể là do lỗi lập trình, do người dùng nhập dữ liệu không mong muốn, phản hồi sai từ máy chủ và rất nhiều lý do khác...

Thông thường, khi chương trình bị crash (dừng lại) do lỗi thì lỗi sẽ được in ra console ngay lập tức.

Tuy nhiên, JavaScript có một cấu trúc cú pháp là try...catch cho phép bạn bắt lỗi để làm điều gì đó hợp lý hơn thay vì để chương trình crash như:

  • Hiển thị thông báo lỗi.
  • Thay đổi giao diện để hiển thị lỗi.
  • ...vv

Cú pháp "try...catch"

Cú pháp try...catch có hai khối chính là try, và sau đó là catch:

try {
  // code...
} catch (err) {
  // xủ lý lỗi
}

Cách hoạt động của try-catch như sau:

  1. Đầu tiên, đoạn mã trong try {...} được thực thi.
  2. Nếu không có lỗi thì catch (err) bị bỏ qua, việc thực thi đến cuối try và tiếp tục, bỏ qua catch.
  3. Nếu có lỗi xảy ra thì quá trình thực thi try bị dừng và chương trình chuyển đến đầu catch (err). Trong đó, biến err (bạn có thể sử dụng bất kỳ tên nào tùy thích) sẽ chứa một đối tượng lỗi với thông tin chi tiết về lỗi đã xảy ra.

Vì vậy, lỗi xảy ra bên trong try {...} sẽ không làm chương trình bị crash - và sau đó bạn có thể làm gì đó trong catch.

Sau đây là một số ví dụ:

  • Ví dụ không có lỗi thì đoạn code console.log tại (1)(2) được thực thi:

    try {
      console.log("Start of try runs"); // (1) <--
    
      //...đoạn code không có lỗi
    
      console.log("End of try runs"); // (2) <--
    } catch (err) {
      console.log("Catch is ignored, because there are no errors"); // (3)
    }

  • Ví dụ có lỗi thì hiển thị (1)(3):

    try {
      console.log("Start of try runs"); // (1) <--
    
      aha; // lỗi xảy ra, vì biến aha chưa được định nghĩa
    
      console.log("End of try (never reached)"); // (2)
    } catch (err) {
      console.log(`Error has occurred!`); // (3) <--
    }

Chú ý:

► Cú pháp try...catch chỉ hoạt động ở runtime. Nói cách khác, đoạn code chứa trong try phải đúng cú pháp.

Ví dụ đoạn code sai cú pháp sau:

try {
  {{{{{{{{{{{{} catch (err) {
  console.log("The engine can't understand this code, it's invalid");
}

Đầu tiên, JavaScript engine đọc mã, và sau đó thực thi. Các lỗi xảy ra trong giai đoạn đọc mã được gọi là lỗi compile và không thể khôi phục được. Bởi vì JavaScript Engine không thể hiểu được đoạn mã đó.

Vì vậy, try...catch chỉ xử lý được các lỗi xảy ra trong đoạn mã hợp lệ. Những lỗi như vậy được gọi là lỗi runtime hoặc đôi khi là ngoại lệ hay exception.

► Cú pháp try-catch hoạt động đồng bộ.

Đó là bởi vì bản thân hàm được thực thi ngay sau đó, khi quá trình thực thi đã rời khỏi khối try...catch.

Để bắt một ngoại lệ bên trong một hàm với setTimeout, khối try...catch phải được đặt bên trong hàm đó như sau:

setTimeout(function () {
  try {
    abc; // lỗi xảy ra vì biến chưa định nghĩa
  } catch {
    console.log("error is caught here!");
  }
}, 1000);

Đối tượng Error

Khi có lỗi xảy ra, JavaScript tạo ra một đối tượng chứa thông tin chi tiết về lỗi. Đối tượng này được truyền dưới dạng tham số đến catch:

try {
  //...
} catch (err) {
  // đối tượng err - bạn có thể dùng tên bất kỳ
}

Đối với tất cả các lỗi có sẵn (built-in error), đối tượng Error có hai thuộc tính chính là:

  • name: tên lỗi, ví dụ: đối với một biến không xác định là "ReferenceError".
  • message: đoạn string thông báo chi tiết về lỗi.

Ngoài ra, còn các thuộc tính khác cũng có sẵn trong hầu hết các môi trường. Một trong những thuộc tính được sử dụng và hỗ trợ rộng rãi nhất là: stack.

Thuộc tính stack hay ngăn xếp - call stack - thông tin về chuỗi các lời gọi hàm lồng nhau, được sử dụng cho mục đích gỡ lỗi (debug).

Ví dụ:

try {
  aha; // lỗi, biến chưa được định nghĩa
} catch (err) {
  console.log(err.name); //ReferenceError
  console.log(err.message); //aha is not defined
  console.log(err.stack); //ReferenceError: aha is not defined at (...call stack)

  // Ngoài ra, bạn có thể hiển thị toàn bộ lỗi `err`.
  // Khi đó, lỗi được convert sang string có dạng "name: message"
  console.log(err); // ReferenceError: aha is not defined
}

Cách sử dụng khác của catch

Nếu bạn không cần thông tin chi tiết về lỗi, catch có thể bỏ qua đối tượng err như sau:

try {
  //...
} catch {
  // <-- không có (err)
  //...
}

Chú ý: cách viết này mới có gần đây. Các trình duyệt cũ có thể không hỗ trợ.

Sử dụng "try...catch"

Sau đây, mình hãy cùng khám phá một trường hợp thực tế sử dụng try...catch.

Như bạn đã biết, JavaScript hỗ trợ JSON.parse(str) để đọc các giá trị được mã hóa dạng JSON.

Thông thường, JSON được sử dụng để giải mã dữ liệu nhận được qua mạng, từ server hoặc một nguồn khác.

Bạn có thể nhận được JSON string và gọi JSON.parse như sau:

// dữ liệu từ server
let json = '{"name":"Alex", "age": 29}';

// convert string thành JS object
let user = JSON.parse(json);

// bây giờ user là object với các thuộc tính là `name` và `age`
console.log(user.name); // Alex
console.log(user.age); // 29

Bây giờ, nếu jsonkhông đúng định dạng thì JSON.parse sẽ tạo ra lỗi dẫn đến đoạn code trên bị crash.

Dĩ nhiên là bạn không muốn điều này xảy ra phải không?

Với cách xử lý trên, nếu có lỗi với dữ liệu, người dùng sẽ không bao giờ biết được điều đó - trừ khi mở DevTool.

Và mọi người thực sự không thoải mái khi một cái gì đó "chỉ chết" - "không hoạt động" mà không có bất kỳ thông báo lỗi nào.

Để giải quyết vấn đề này, bạn hãy sử dụng try...catch để xử lý lỗi:

let json = "{ json lỗi }";

try {
  let user = JSON.parse(json); // <-- khi lỗi xảy ra

  console.log(user.name); // đoạn code này sẽ không được chạy
} catch (err) {
  // đoạn code sau đây sẽ được thực thi
  alert("The data has errors, we'll try to request it one more time.");
  console.log(err.name);
  console.log(err.message);
}

Ở đây, mình chỉ sử dụng catch để hiển thị thông báo lỗi. Tuy nhiên, bạn có thể làm được nhiều hơn thế, ví dụ:

  • Gửi request mới lên server.
  • Đề xuất phương án thay thế cho người dùng.
  • Gửi thông tin chi tiết về lỗi.
  • ...vv và nhiều cách xử lý khác nữa hơn là việc không có thông báo gì.

"Throw" lỗi tự định nghĩa

Điều gì xảy ra nếu json về mặt cú pháp là đúng, nhưng không có thông tin bắt buộc?

Ví dụ json thiếu thuộc tính name như sau:

let json = '{ "age": 30 }'; // thiếu trường `name`

try {
  let user = JSON.parse(json); // <-- không có lỗi khi parse JSON

  console.log(user.name); // không có thuộc tính `name` như mong muốn
} catch (err) {
  console.log("Đoạn code này không thực thi");
}

Trong đoạn code trên, JSON.parse chạy hoàn toàn bình thường, nhưng do không có name nên có thể gây ra lỗi phía sau. Để xử lý lỗi này, bạn có thể dùng toán tử throw.

Toán tử "throw"

Mỗi toán tử throw sẽ tạo ra một lỗi.

Cú pháp là:

Về cơ bản, bạn có thể dùng bất cứ thứ gì làm đối tượng lỗi. Đó có thể là một dữ liệu nguyên thủy, như một số hoặc một chuỗi. Nhưng tốt hơn là sử dụng các object, tốt nhất là đối tượng có thuộc tính namemessage (để tương thích với các lỗi định nghĩa sẵn).

Ngoài ra, JavaScript có sẵn nhiều hàm khởi tạo lỗi như: Error, SyntaxError, ReferenceError, TypeError,... Do đó, bạn có thể sử dụng chúng để tạo ra các đối tượng lỗi như sau:

let error = new Error(message);

// hoặc

let error = new SyntaxError(message);
let error = new ReferenceError(message);
// ...vv

Đối với những lỗi có sẵn, thuộc tính name chính xác là tên của hàm khởi tạo. Và message được lấy từ đối số truyền vào hàm, ví dụ:

let error = new Error("Things happen o_O");

console.log(error.name); // Error
console.log(error.message); // Things happen o_O

Hãy xem loại lỗi nào JSON.parse tạo ra:

try {
  JSON.parse("{ json lỗi o_O }");
} catch (err) {
  console.log(err.name); // SyntaxError
  console.log(err.message); // Unexpected token j in JSON at position 2
}

Như bạn có thể thấy, đó là một SyntaxError.

Quay lại ví dụ lúc trước, việc thiếu thuộc tính name là một lỗi, vì người dùng bắt buộc phải có name.

Vì vậy, bạn hãy throw lỗi:

let json = '{ "age": 30 }'; // thiếu dữ liệu

try {
  let user = JSON.parse(json); // <-- không có lỗi

  if (!user.name) {
    throw new SyntaxError("Incomplete data: no name"); // (*)
  }

  console.log(user.name);
} catch (err) {
  console.log("JSON Error: " + err.message);
  // JSON Error: Incomplete data: no name
}

Tại dòng (*), toán tử throw tạo ra một lỗi dạng SyntaxError với thông báo chi tiết message, giống như cách JavaScript tự tạo ra lỗi đó. Đoạn code thực hiện try ngay lập tức dừng lại và luồng điều khiển chuyển sang catch.

Bây giờ, catch đã trở thành một nơi duy nhất để xử lý tất cả các lỗi: cả hai cho JSON.parse và các trường hợp khác.

Kĩ thuật "rethrowing"

Trong ví dụ trên, mình sử dụng try...catch để xử lý khi dữ liệu không chính xác. Nhưng liệu có thể một lỗi không mong muốn khác xảy ra trong khối try {...}?

Giống như một lỗi lập trình (biến không được xác định) hoặc một lỗi nào khác, không chỉ là lỗi dữ liệu không chính xác như trên.

Ví dụ:

let json = '{ "age": 30 }'; // dữ liệu không đầy đủ

try {
  user = JSON.parse(json); // <-- quên đặt `let` trước biến user

  //...
} catch (err) {
  console.log("JSON Error: " + err);
  // JSON Error: ReferenceError: user is not defined
  // (có lỗi xảy ra nhưng không thực sự là lỗi do định dạng JSON)
}

Tất nhiên, mọi thứ đều có thể xảy ra! Và bạn hoàn toàn có thể mắc sai lầm.

Trong trường hợp trên, try...catch được đặt để bắt lỗi dữ liệu không chính xác. Nhưng bản chất, catch bắt được tất cả các lỗi từ khối try.

Ở đây, mình gặp lỗi không mong muốn nhưng vẫn hiển thị như cũ với nội dung "JSON Error". Điều đó sai và cũng làm cho mình khó gỡ lỗi hơn (vì mình không biết bản chất lỗi thật sự là gì).

Để tránh những vấn đề như trên, bạn có thể sử dụng kỹ thuật rethrowing với quy tắc đơn giản là: catch chỉ nên xử lý các lỗi biết trước và rethrowing tất cả các lỗi khác.

Kỹ thuật rethrowing có thể được giải thích chi tiết hơn như sau:

  1. Bắt được tất cả các lỗi.
  2. Bên trong khối catch (err) {...}, bạn phân tích đối tượng lỗi err.
  3. Nếu bạn không biết cách xử lý lỗi đó, bạn hãy throw err.

Thông thường, bạn có thể kiểm tra loại lỗi bằng cách sử dụng toán tử instanceof:

try {
  user = {
    /*...*/
  };
} catch (err) {
  // "ReferenceError" để xử lý trường hợp biến chưa được định nghĩa
  if (err instanceof ReferenceError) {
    console.log("ReferenceError");
  }
}

Mình cũng có thể lấy tên class lỗi từ thuộc tính err.name. Tất cả các lỗi built-in đều có thuộc tính name. Ngoài ra, một lựa chọn khác là bạn truy cập err.constructor.name.

Trong đoạn code dưới đây, mình sử dụng kĩ thuật rethrowing để catch chỉ xử lý lỗi SyntaxError:

let json = '{ "age": 30 }'; // dữ liệu thiếu

try {
  let user = JSON.parse(json);

  if (!user.name) {
    throw new SyntaxError("Incomplete data: no name");
  }

  hi(); // lỗi không mong muốn
  console.log(user.name);
} catch (err) {
  if (err instanceof SyntaxError) {    console.log("JSON Error: " + err.message);  } else {    throw err; // rethrow (*)  }}

Câu lệnh throw error tại (*) từ bên trong khối catch đẩy lỗi ra khỏi try...catch và có thể bắt bởi một cấu trúc try...catch khác bên ngoài (nếu tồn tại), hoặc làm đoạn lệnh bị dừng lại.

Tóm lại, khối catch thực sự chỉ nên xử lý các lỗi biết cách xử lý và bỏ qua tất cả các lỗi khác.

Ví dụ dưới đây minh họa cách các lỗi như vậy có thể được phát hiện bởi một cấp try...catch nữa:

function readData() {
  let json = '{ "age": 30 }';

  try {
    //...

    blabla(); // error!
  } catch (err) {
    //...
    if (!(err instanceof SyntaxError)) {
      throw err; // rethrow (vì không biết cách xử lý)
    }
  }
}

try {
  readData();
} catch (err) {
  console.log("External catch got: " + err); // bắt lỗi
}

Ở đây, hàm readData chỉ biết cách xử lý lỗi SyntaxError, trong khi cấu trúc try...catch bên ngoài biết cách làm thế nào để xử lý những lỗi khác.

Cấu trúc "try...catch...finally"

Cấu trúc try...catch có thể có thêm một mệnh đề nữa là: finally.

Nếu finally tồn tại, đoạn code đó sẽ chạy trong mọi trường hợp:

  • Sau try, nếu không có lỗi,
  • Sau catch, nếu có sai sót.

Cú pháp mở rộng có dạng như sau:

try {
  //...code xử lý
} catch (err) {
  //...xử lý lỗi
} finally {
  //...luôn luôn được thực thi
}

Ví dụ đoạn code sau:

try {
  console.log("try");
  if (confirm("Make an error?")) BAD_CODE();
} catch (err) {
  console.log("catch");
} finally {
  console.log("finally");
}

Đoạn code trên có hai cách thực thi như sau:

  1. Nếu bạn trả lời OK, thì kết quả là try -> catch -> finally.
  2. Nếu bạn trả lời Cancel, thì kết quả là try -> finally.

Mệnh đề finally thường được sử dụng khi bạn bắt đầu làm điều gì đó và muốn hoàn thành với bất kỳ kết quả nào xảy ra.

Ví dụ, mình muốn đo thời gian mà hàm Fibonacci fib(n) hoạt động. Đương nhiên, bạn có thể bắt đầu đo trước khi hàm chạy và kết thúc sau đó. Nhưng nếu có lỗi trong khi gọi hàm thì sao?

Đặc biệt, việc thực hiện fib(n) trong đoạn code dưới đây trả về lỗi với các số nâm hoặc không phải số nguyên.

Khi đó, mệnh đề finally là một vị trí phù hợp để hoàn thành các phép đo.

Ở đây, finally đảm bảo rằng thời gian sẽ được đo chính xác trong cả hai tình huống - trong trường hợp thực hiện thành công fib(n) cũng như trường hợp có lỗi xảy ra:

let num = +prompt("Enter a positive integer number?", 35);

let diff, result;

function fib(n) {
  if (n < 0 || Math.trunc(n) != n) {
    throw new Error("Must not be negative, and also an integer.");
  }
  return n <= 1 ? n : fib(n - 1) + fib(n - 2);
}

let start = Date.now();

try {
  result = fib(num);
} catch (err) {
  result = 0;
} finally {  diff = Date.now() - start;}
console.log(result || "error occurred");

console.log(`execution took ${diff}ms`);

Bạn có thể kiểm tra lại bằng cách chạy chương trình với việc nhập n bằng 35 vào trong hàm prompt - trường hợp này hoạt động bình thường, finally sau try.

Và sau đó bạn thử nhập -1 - sẽ có lỗi ngay lập tức và quá trình thực thi sẽ diễn ra sau 0ms. Cả hai phép đo đều được thực hiện một cách chính xác.

Nói cách khác, hàm có thể kết thúc với return hoặc throw, điều đó không quan trọng. Mệnh đề finally luôn được thực hiện trong cả hai trường hợp.

Chú ý:

  • Trong ví dụ trên, các biến resultdiff được khai báo bên ngoài cấu trúc try...catch...finally. Ngược lại, nếu bạn khai báo các biến này với let trong khối try thì chúng chỉ được nhìn thấy trong đó.
  • Mệnh đề finally được gọi trong mọi trường hợp, kể cả việc bạn sử dụng return trong try...catch.
  • Cú pháp try...finally với việc bỏ qua catch đôi khi là hữu ích khi bạn không muốn handle lỗi nhưng lại muốn đảm bảo rằng đoạn code trong finally luôn được thực thi.

Xử lý "catch" toàn cục

Giả sử, bạn gặp một lỗi nghiêm trọng bên ngoài try...catch khiến chương trình crash.

Và bạn có thể muốn ghi lại lỗi, hiển thị một điều gì đó cho người dùng (thông thường họ không thấy thông báo lỗi), v.v.

Không có một cách thức chung nào, nhưng các môi trường khác nhau (trình duyệt, Node.js,...) thường cung cấp công cụ cho việc đó, bởi vì điều này thực sự hữu ích.

Ví dụ, Node.js có process.on("uncaughtException"). Và trên trình duyệt, bạn có thể gán một hàm cho thuộc tính đặc biệt là window.onerror - hàm đó sẽ chạy trong trường hợp có lỗi không giải quyết được.

Cú pháp của window.onerrror như sau:

window.onerror = function (message, url, line, col, error) {
  //...
};

Trong đó:

  • message: thông báo lỗi.
  • url: URL của tập lệnh đã xảy ra lỗi.
  • line,col: số dòng và số cột đã xảy ra lỗi.
  • error: đối tượng lỗi.

Ví dụ:

window.onerror = function (message, url, line, col, error) {
  console.log(`${message}\n At ${line}:${col} of ${url}`);
};

function readData() {
  badFunc(); // <- có lỗi xảy ra
}

readData();

Vai trò của window.onerror thường không phải để khôi phục việc thực thi tập lệnh - điều đó là không thể trong trường hợp lỗi do lập trình, mà là để gửi thông báo lỗi đến lập trình viên.

Tổng kết

Cấu trúc try...catch cho phép xử lý các lỗi runtime. Theo nghĩa đen, cấu trúc này cho phép thử chạy đoạn mã và bắt các lỗi có thể xảy ra trong đó.

Cú pháp đầy đủ của try...catch như sau:

try {
  // code thực hiện
} catch (err) {
  // nhảy vào đây nếu có lỗi,
  // thông tin lỗi lấy từ đối tượng error
} finally {
  // khối lệnh được thực thi trong mọi trường hợp
  // sau try/catch
}

Cấu trúc trên có thể không có catch hoặc không có finally. Do đó, các cấu trúc ngắn hơn như try...catchtry...finally cũng hợp lệ.

Các đối tượng lỗi bao gồm các thuộc tính sau:

  • message - thông báo lỗi cụ thể - dễ dàng đọc hiểu được.
  • name - đoạn string thể hiện tên lỗi (hoặc tên hàm tạo lỗi).
  • stack (không chuẩn, nhưng được hỗ trợ tốt) - ngăn xếp (call stack) tại thời điểm tạo lỗi.

Nếu một đối tượng lỗi không cần thiết, bạn có thể bỏ qua nó bằng cách sử dụng catch { thay vì catch (err) {.

Ngoài ra, bạn cũng có thể tạo ra lỗi của riêng mình bằng cách sử dụng toán tử throw. Về cơ bản, tham số của throw có thể là bất cứ thứ gì, nhưng thường thì đó là một đối tượng lỗi kế thừa từ class Error có sẵn.

Rethrowing là một cách xử lý lỗi rất quan trọng: khối catch thường chỉ xử lý các lỗi biết trước. Vì vậy, nếu bạn gặp các lỗi không mong đợi thì có thể throw error để khối try...catch bên ngoài bắt và xử lý.

Ngay cả khi bạn không có try...catch, hầu hết các môi trường (trình duyệt, Node.js,...) đều cho phép bạn thiết lập một hàm toàn cục để bắt các lỗi xảy ra. Với trình duyệt, đó là window.onerror.

Tham khảo: Error handling, "try...catch"

★ Nếu bạn thấy bài viết này hay thì hãy theo dõi mình trên Facebook để nhận được thông báo khi có bài viết mới nhất nhé: