Tại sao khơ me đỏ diệt chủng

THỨ HAI, 05/08/2019 19:03:07

Tại sao khơ me đỏ diệt chủng

Thủ lĩnh Khmer Đỏ Nuon Chea

Người gốc Hoa Nuon Chea có thời kỳ hoạt động chính trị dài lâu với tư cách là “Anh 2” trong phong trào Khmer Đỏ ở Campuchia. Y giám sát các cuộc thanh lọc các đối thủ tiềm tàng bên trong và bên ngoài đảng cầm quyền ở Campuchia giai đoạn đó. Hơn 300.000 người Campuchia đã bị hành quyết từ năm 1975 - 1979. Trong thời gian cầm quyền, Chea nổi danh vì tính thực dụng và sự tàn nhẫn. Y thực thi các chính sách liều lĩnh và hoang tưởng của Đảng Khmer Đỏ như làm trống các thành phố, đóng cửa trường học và chùa chiền, phá bỏ tài sản tư và trao quyền cho các tầng lớp nghèo nhất. Các chính sách này được thực thi với tốc độ nhanh rợn người, đã gây ra những tổn thất to lớn về sinh mạng. Ngoài các nạn nhân bị nhà nước Khmer Đỏ hành quyết, ước tính gần 1,5 triệu người dân Campuchia đã tử vong trong các năm tháng đó do đói khát, làm việc quá sức và bệnh tật không được chữa trị. Nuon Chea là bí danh của Lau Kim Korn, sinh ra trong một gia đình Khmer gốc Hoa giàu có ở Battambang (Campuchia) vào năm 1926. Lớn lên, Chea cùng người họ hàng Sieu Heng gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Khi ấy, Heng dẫn dắt phong trào cộng sản mật còn non yếu của Campuchia. Chea học trong 2 năm tại các trường đảng ở Việt Nam trước khi quay trở về Campuchia vào năm 1955. Y giúp đỡ một cựu sư tên Tou Samouth lãnh đạo nhánh đô thị của phong trào Cộng sản Campuchia. Y sát cánh với một thầy giáo trẻ tên Saloth Sar, về sau được biết đến với cái tên Pol Pot. Năm 1958, Heng đào tẩu khỏi phong trào Cộng sản Campuchia mà 2 năm sau được tái tổ chức thành Đảng Lao động Campuchia, với Samouth làm Tổng Bí thư và Chea làm cấp phó. Thời gian ngắn sau đó, Chea bí mật tới miền Bắc Việt Nam, nơi y giải thích các chính sách của đảng mới thành lập. Tổng Bí thư Samouth bị Cảnh sát của Hoàng thân Norodom Sihanouk ám sát vào năm 1962. Sar (tức Pol Pot) lên thay ông này, vượt qua cả Chea là người đứng ở vị trí thứ 2. Bút lục không lưu lại lý do hợp lý cho việc này cũng như phản ứng của Chea nhưng trong 35 năm kế tiếp, y phục vụ trung thành và hiệu quả với tư cách là nhân vật số 2 của cái gọi là “Đảng Cộng sản Campuchia”. Lo sợ bị bắt, Sar lẩn trốn ở vùng biên giới với Việt Nam vào năm 1963 cùng với một số tay chân của mình. Phó Tổng Bí thư Chea ở Phnom Penh nhưng không bị cảnh sát của Hoàng thân Sihanouk phát hiện. Sau khi Sar thăm Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam rồi trở về Campuchia, Chea lại đến ở bên Sar tại một căn cứ mới của Khmer Đỏ ở vùng đông bắc xa xôi của Campuchia vào năm 1968. Sau khi xảy ra cuộc đảo chính do Mỹ đứng đằng sau lật đổ Sihanouk vào năm 1970, Chea xây dựng một đội quân cách mạng nhằm chống lại chế độ do Mỹ dựng lên. Lực lượng Cộng sản Campuchia này giành thắng lợi vào tháng 4.1975 và Chea trở về Phnom Penh với tư cách là chỉ huy thứ 2 của chế độ Pol Pot.

Theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan

Chea nỗ lực bảo đảm cấu trúc lãnh đạo của đảng này, bao gồm y, Pol Pot và 100 kẻ khác nữa, luôn được che giấu an toàn. Theo biên bản của tòa án đặc biệt xét xử chế độ Khmer Đỏ (tòa này hoạt động vào năm 2006), cá nhân Chea đã phê chuẩn lệnh bắt và hành quyết hàng trăm nhân vật cấp cao và cấp trung trong Đảng Cộng sản Campuchia bị Pol Pot nghi ngờ là phản bội chế độ. Khi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ bị lật đổ vào năm 1979, Chea cùng với Pol Pot và một nhóm thủ lĩnh sống sót của chế độ này chạy sang Thái Lan - nơi lực lượng Khmer Đỏ giành được sự ủng hộ của chính quyền Thái Lan cũng như sự hậu thuẫn gián tiếp từ Trung Quốc và Mỹ. Phong trào Khmer Đỏ bắt đầu tan rã vào năm 1997. Khi ấy, Chea chuyển hướng sự trung thành của mình sang nhà lãnh đạo mới của phong trào này là Ta Mok. Vào tháng 12.1998, sau khi Pol Pot chết, Chea đào tẩu sang chính quyền mới của Campuchia để đổi lấy sự ân xá. Sau đó y định cư cùng vợ và các con ở thị trấn Pailin nằm ở biên giới Thái Lan-Campuchia, nơi y sống một cách kín đáo.

Khi tòa án do Liên hợp quốc bảo trợ nhằm xét xử các thủ lĩnh của nhà nước “Campuchia Dân chủ” khởi động ở Phnom Penh, Chea bị bắt lại vào năm 2007 và bị tống giam. Y bị truy tố về các tội ác chống lại nhân loại vào tháng 9.2010 và bị xét xử vào tháng 6.2011 cùng với các cựu đồng bọn Ieng Sary, Khieu Samphan và Khieu Thirith. Chea đã bị buộc tội đã thực hiện các tội ác chống lại loài người vào năm 2014 và phạm tội diệt chủng vào năm 2018. Y bị kết án tù chung thân cho các tội ác đó.

PHƯƠNG LINH (tổng hợp)

  • TAG
  • NUON CHEA
  • POL POT
  • KHMER ĐỎ
  • DIỆT CHỦNG
  • TỘI ÁC CHỐNG LẠI LOÀI NGƯỜI
  • CAMPUCHIA

Chính vì thế, cả Đảng cách mạng CPP, Hoàng gia và nhân dân Campuchia đều không ngừng củng cố quan hệ hữu nghị với Việt Nam. Họ nhận thức rõ, chỉ có thiết lập mối quan hệ hữu nghị với Việt Nam thì Campuchia mới phát triển. Vì thế trong 40 năm qua, mối quan hệ Việt Nam – Campuchia luôn được duy trì, vì lợi ích của cả Việt Nam và Campuchia, góp phần duy trì ổn định khu vực, xây dựng ASEAN thành trung tâm kết nối khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Tôi tin rằng, trong thời gian tới mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Campuchia tiếp tục được củng cố vì lợi ích của 2 dân tộc, 2 đất nước.

Nhưng đồng thời chúng ta cũng không bao giờ được quên, trong cộng đồng người Khơ me ở Campuchia, bất cứ thời gian nào cũng có một bộ phận, cho dù họ chiếm phần rất nhỏ, ít ỏi, nhưng lại mang nặng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, họ xuyên tạc lịch sử, vu cáo Việt Nam, tìm mọi cách phá hoại mối quan hệ hữu nghĩ Việt Nam – Campuchia do hai bên thiết lập.

Điều này đặt ra một vấn đề nhà nước, nhân dân Việt Nam và Capuchia phải vạch mặt những kẻ phá hoại mối quan hệ hữu nghị này, để người dân Campuchia, Việt Nam và cộng đồng thế giới thấy rõ được những kẻ “đổi trắng, thay đen”. Chúng ta không được lơ là, mất cảnh giác, mà phải xử lý kịp thời những kẻ đang có mưu đồ phá hoại mối quan hệ tốt đẹp của hai dân tộc, thắt chặt hơn mối quan hệ hợp tác toàn diện và bền vững lâu dài.

P.V: Xin cảm ơn Thiếu tướng!

Cuộc diệt chủng Campuchia là cuộc diệt chủng mà chế độ Khmer Đỏ (Khmer Rouge) do Pol Pot lãnh đạo, thực hiện tại Campuchia từ giữa năm 1975 đến 1979.

Đặc điểm kỳ dị của cuộc diệt chủng này là thế lực nắm quyền thực hiện đối với chính dân tộc mình theo lý do ý thức hệ. Các ước tính cho thấy có từ 500000 đến 3 triệu người đã chết trong cuộc diệt chủng này [1].

Khmer Đỏ đã dự kiến tạo ra một hình thức Chủ nghĩa Xã hội Nông nghiệp, xây dựng trên những lý tưởng của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao. Các chính sách buộc di dời dân cư từ các đô thị, việc tra tấn và hành quyết hàng loạt, buộc lao động cưỡng bức, sự suy dinh dưỡng và bệnh tật đã dẫn đến tử vong của khoảng 25% tổng dân số (khoảng 2 triệu người) [2][3]. Nạn diệt chủng kết thúc khi có Chiến tranh biên giới Tây Nam [4]. Cho đến nay đã phát hiện trên 20.000 ngôi mộ tập thể chôn lấp các nạn nhân, thường được gọi là Cánh đồng chết [5].

Ngày 02/01/2001, Chính phủ Hoàng gia Campuchia thông qua luật để truy tố một số lượng hạn chế các lãnh đạo Khmer Đỏ. Tòa án xét xử tội ác diệt chủng ở Campuchia (ECCC) được thành lập theo thỏa thuận của Chính phủ Hoàng gia Campuchia với Liên Hợp Quốc. Các phiên tòa bắt đầu ngày 17/02/2009 [6]. Tháng 7 năm 2010 Khang Khek Ieu (hay Kaing Guek Eav) bị kết tội và phạt tù giam 35 năm, và ngày 3/2/2012, trong phán quyết phúc thẩm cuối cùng ECCC đã nâng mức án thành tù chung thân[7]. Ngày 07/08/2014, Nuon Chea và Khieu Samphan đã bị kết tội và nhận án chung thân cho tội ác chống lại loài người trong nạn diệt chủng [8][9].

Ý thức hệ đóng vai trò quan trọng trong cuộc diệt chủng này. Mong muốn của Khmer Đỏ là đưa đất nước trở lại với "quá khứ huyền thoại", mong muốn ngăn chặn viện trợ từ nước ngoài xâm nhập vào nước này, điều mà trong mắt họ là một ảnh hưởng xấu, mong muốn khôi phục lại đất nước thành một xã hội nông nghiệp, và cách thức mà họ đã cố gắng để thực hiện mục tiêu này là tất cả các yếu tố của sự diệt chủng [10][11]. Một lãnh đạo Khmer Đỏ nói, phải "thanh lọc quần chúng"[12], và các vụ giết người bắt đầu.

Ben Kiernan đã so sánh ba nạn diệt chủng trong lịch sử, diệt chủng Armenia, Holocaust và diệt chủng Campuchia, các cuộc diệt chủng chia sẻ một số đặc điểm chung. Phân biệt chủng tộc là một và một phần quan trọng của hệ tư tưởng của cả ba chế độ. Nó nhắm mục tiêu vào thiểu số tôn giáo, cố gắng sử dụng vũ lực để mở rộng thành một "trung tâm tiếp giáp", "lý tưởng hóa dân tộc nông dân của họ như tầng lớp 'quốc gia' thật sự, mảnh đất chủng tộc để từ đó một quốc gia mới thành lập và phát triển" [13]. Chế độ Khmer Đỏ nhắm mục tiêu các nhóm dân tộc khác nhau trong cuộc diệt chủng, buộc phải chuyển nơi ở của họ, cấm sử dụng các ngôn ngữ thiểu số, cấm tôn giáo. Sự đàn áp các tín đồ Hồi giáo, Công giáo, Phật giáo diễn ra sâu rộng [14]. Điều này diễn ra cùng với thanh lọc xã hội Campuchia theo xã hội và chính trị, đã dẫn đến sự thanh lọc của quân đội và các nhà lãnh đạo chính trị của chế độ cũ, cùng với các nhà lãnh đạo ngành công nghiệp, các nhà báo, sinh viên, bác sĩ và luật sư cũng như các sắc tộc Chăm, Việt và Hoa [15].

 

Đầu lâu các nạn nhân của Khmer Đỏ.

 

Xương cốt các nạn nhân của Khmer Đỏ tại Hang Kampong Trach, Đồi Kiry Seila, Rung Tik (Hang Nước) hay Rung Khmao (Hang Chết).

Chính phủ Khmer Đỏ đã bắt giữ, tra tấn và sau đó hành quyết bất kỳ ai bị nghi ngờ thuộc một trong nhiều tiêu chí bị nghi ngờ là "kẻ thù":

  • Bất kỳ ai có quan hệ với chính phủ cũ hay các chính phủ nước ngoài.
  • Người chuyên nghiệp và trí thức – trên thực tế tiêu chí này bao gồm hầu hết mọi người có giáo dục, hay thậm chí những người đeo kính (mà, theo chế độ, có nghĩa là họ có học). Chính Pol Pot là một người có trình độ giáo dục đại học (dù bỏ ngang) với lòng yêu mến văn học Pháp và cũng là một người nói thạo tiếng Pháp. Nhiều nghệ sĩ, gồm cả các nhạc sĩ, tác gia và nhà làm phim đã bị hành quyết. Một số người như Ros Sereysothea, Pan Ron và Sinn Sisamouth đã có được danh tiếng nhờ tài năng và đến ngày nay vẫn được người Khmer biết đến.
  • Sắc tộc Việt Nam, sắc tộc Hoa, sắc tộc Thái và các sắc tộc thiểu số khác ở Cao nguyên miền Đông, người Campuchia theo Cơ đốc giáo (hầu hết là Công giáo), tín đồ Hồi giáo (người Chăm) và các tu sỹ Phật giáo. Thánh đường Công giáo ở Phnom Penh bị phá hủy hoàn toàn. Khmer Đỏ buộc các tín đồ Hồi giáo phải ăn thịt lợn. Nhiều người từ chối thực hiện bị giết hại. Giáo sĩ Công giáo và Hồi giáo bị hành quyết. Một trong những chỉ huy cũ của Khmer Đỏ, Comrade Duch, đã chuyển theo Tin Lành vài năm sau khi chế độ này sụp đổ[cần dẫn nguồn].
  • "Những kẻ phá hoại kinh tế": nhiều người dân thành thị cũ (những người chưa chết vì đói khát) được cho là có tội vì thiếu khả năng làm nông nghiệp.

 

Tháp tưởng niệm các nạn nhân của chế độ diệt chủng

Trong suốt những năm 1970, và đặc biệt sau nửa đầu năm 1975, đảng cũng rung chuyển bởi những cuộc đấu tranh phe nhóm. Đã có những âm mưu quân sự lật đổ Pol Pot. Những cuộc thanh trừng sau đó lên đến đỉnh điểm năm 1977 và 1978 khi hàng nghìn người, gồm cả một số lãnh đạo quan trọng của Đảng Cộng sản Campuchia bị hành quyết.

Ngày nay, các ví dụ về các phương pháp tra tấn được Khmer Đỏ sử dụng được trưng bày trong Bảo tàng diệt chủng Tuol Sleng. Bảo tàng được dựng trên nền đất cũ của một trường trung học bị biến thành trại tù được gọi là S-21 do Khang Khek Iew chỉ huy, thường được biết với cái tên "Đồng chí Duch". Khoảng 17.000 người đã bị chuyển qua trung tâm này trước khi họ bị đưa tới những địa điểm được gọi là những cánh đồng chết, bên ngoài Phnom Penh như Choeung Ek, nơi hầu hết bị hành quyết chủ yếu bằng cuốc chim để tiết kiệm đạn, và bị chôn trong những ngôi mộ tập thể. Trong hàng nghìn người phải vào trại Tuol Sleng, chỉ 12 người sống sót. Những người này được cho là đã còn sống bởi có kỹ năng, được những kẻ giam giữ coi là hữu ích.

Những tòa nhà tại Tuol Sleng đã được giữ nguyên như khi Khmer Đỏ rút khỏi đây năm 1979. Nhiều phòng hiện treo những bức ảnh đen trắng của hàng nghìn người do Khmer Đỏ chụp.[16]

Con số chính xác những người chết vì những chính sách của Khmer Đỏ đã bị tranh cãi, bởi nguyên nhân của cái chết của họ, và việc tiếp cận nước này bị hạn chế trong thời kỳ Khmer Đỏ cầm quyền và thời kỳ sau đó. Đầu những năm 1980, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Việt Nam hậu thuẫn đã tiến hành một cuộc điều tra hộ dân trên toàn quốc, với kết luận rằng hơn 4,8 triệu người đã chết, nhưng hầu hết các nhà sử học hiện đại coi con số trên là không chính xác.

Những cuộc khảo sát hiện đại đã định vị được hàng nghìn ngôi mộ tập thể từ thời Khmer Đỏ trên khắp Campuchia. Nhiều cuộc điều tra ước tính con số người chết trong khoảng 0,74 tới 3 triệu, hầu hết ước tính trong khoảng 1,4 triệu tới 2,2 triệu, với khoảng một nửa chết vì bị hành quyết, và số còn lại vì đói khát và bệnh tật.[17]

  • Điều tra của Liên Hợp Quốc báo cáo ước tính 2–3 triệu, UNICEF ước tính 3 triệu người [18].
  • Dự án Diệt chủng Campuchia của Đại học Yale được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tài trợ, ước tính xấp xỉ 1,7 triệu người, chiếm khoảng 21% dân số.[19]
  • Rudolph Joseph Rummel ở Đại học Hawaii, một nhà phân tích lịch sử những vụ giết hại chính trị, đưa ra con số 2 triệu người.[20]
  • Patrick Heuveline dựa trên phân tích nhân khẩu học ước tính khoảng 1,17 đến 3,42 triệu người [21].
  • Craig Etcheson ở Trung tâm Tài liệu Campuchia (DC-Cam, Documentation Center of Cambodia) ước tính giữa 2 và 2,5 triệu người, "nhiều khả năng" là 2,2 triệu người. Sau năm năm nghiên cứu các mộ tập thể, ông kết luận rằng "các mộ tập thể chứa hài cốt của 1.386.734 nạn nhân bị hành quyết" [17].

Từ 1979 đến 1980 có thêm 300.000 người chết do hậu quả của chính sách diệt chủng [22].

Năm 2013 Chính phủ Hoàng gia Campuchia đã thông qua luật coi sự chối bỏ nạn diệt chủng Campuchia và tội ác của Khmer Đỏ là bất hợp pháp. Tuy nhiên Chính phủ chỉ đồng ý truy tố một số lượng hạn chế các lãnh đạo Khmer Đỏ.[23][24]

Pol Pot, 1998

Thủ lĩnh Khmer Đỏ Pol Pot, một vài tháng trước khi qua đời vào ngày 15/04/1998 [25], đã nói trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Mỹ tự do Nate Thayer viết cho tờ Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (Far Eastern Economic Review), rằng ông đã có một lương tâm trong sáng và từ chối trách nhiệm về nạn diệt chủng.

Pol Pot khẳng định ông "đã thực hiện cuộc đấu tranh, không phải để giết người". Theo Alex Alvarez thì Pol Pot "khắc họa chân dung mình là một hình ảnh bị hiểu lầm và phỉ báng bất công" [26].

 

Bảo tàng Diệt chủng trưng bày hàng ngàn bức ảnh các nạn nhân được Khmer Đỏ chụp

Kem Sokha, 2013

Kem Sokha, phó chủ tịch Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP) năm 2013 bình luận rằng: "Triển lãm tại Bảo tàng Tuol Sleng đã được chế tạo và hiện vật đã được giả mạo bởi cuộc xâm lược của Việt Nam năm 1979."[27]

Tuyên bố này dẫn đến chính phủ của Thủ tướng Campuchia Hun Sen đã thông qua luật coi sự chối bỏ nạn diệt chủng Campuchia và tội ác chiến tranh của Khmer Đỏ, là bất hợp pháp. Sau đó đảng CNRP đã rút lui tuyên bố này [28].

Lý Hiển Long, 2019

Ngày 30/5/2019 Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long viết trên trang Facebook Lee Hsien Loong bài chia buồn về việc cựu Thủ tướng Thái Lan, Tướng Prem Tinsulanonda qua đời. Trong bài ông đã viết rằng thời gian ông Tinsulanonda làm thủ tướng thì "các thành viên ASEAN (5 nước) cùng nhau chống lại việc xâm lược Campuchia của Việt Nam và thay thế Khmer Đỏ bằng chính phủ Campuchia. Thái Lan là tuyến đầu, đối mặt với lực lượng của Việt Nam trên biên giới với Campuchia. Tướng Prem đã kiên quyết không chất nhận sự đã rồi và làm việc với các đối tác ASEAN để chống lại sự chiếm đóng của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế”.[29]

Dư luận Campuchia và Việt Nam bất bình với phát biểu này. Leap Chanthavy viết trên trang Khmer Times ngày 3/6/2019 rằng "Lee Hsien Loong Disrespectful of Khmer Rouge victims", và cho rằng "Singapore – một chính phủ tự nhận là đạo đức cao, chưa bao giờ lên án tội ác diệt chủng của Khmer Đỏ" [30], và ông Lý đã thể hiện "sự thiếu tôn trọng tới những nạn nhân Khmer Đỏ và những người đã hy sinh mạng sống để chấm dứt chế độ Khmer Đỏ". Youk Chhang, Giám đốc Trung tâm lưu trữ Campuchia, thì phát biểu "những bình luận của ông Lý Hiển Long cho thấy đã tới lúc ASEAN cần một chương trình giáo dục về hòa bình và nhân quyền cho khu vực. Một chương trình như vậy bây giờ nên bắt đầu từ Singapore" [31]

Rithy Panh, người được nhiều người coi là tiếng nói của điện ảnh Campuchia, từng là một nạn nhân của cánh đồng chết của Khmer Đỏ. Tài liệu của ông "S-21: The Khmer Rouge Killing Machine/S-21, la machine de mort Khmer rouge" (S-21: Cỗ máy giết chóc của Khmer Đỏ) được coi là tư liệu tốt nhất và ảnh hưởng nhất được biết đến. Với lo ngại của mình, ông cho rằng S-21 cho phép chúng ta quan sát ký ức và thời gian có thể sụp đổ để làm cho quá khứ như hiện nay và bằng cách làm để lộ khuôn mặt bình thường của cái ác."[32]

Nhà văn Loung Ung viết cuốn "Đầu tiên họ giết Cha tôi", xuất bản 2000.

Những cánh đồng chết, bộ phim tài liệu của Anh thực hiện năm 1984 tại Campuchia, dựa trên trải nghiệm của hai nhà báo Dith Pran người Campuchia và Sydney Schanberg người Mỹ.

  1. ^ Frey 2009, tr. 83.
  2. ^ Etcheson 2005, tr. 119.
  3. ^ Heuveline 1998, tr. 49-65.
  4. ^ Mayersan 2013, tr. 182.
  5. ^ Etcheson 2005, tr. 114.
  6. ^ Mendes 2011, tr. 13.
  7. ^ ECCC-Kaing 2012.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFECCC-Kaing2012 (trợ giúp)
  8. ^ “Cambodian court sentences two former Khmer Rouge leaders to life term”. The Cambodia News.Net. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2014.
  9. ^ “Top Khmer Rouge leaders guilty of crimes against humanity”. BBC. ngày 7 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2014.
  10. ^ Alvarez 2001, tr. 50.
  11. ^ Alvarez 2007, tr. 16.
  12. ^ Hannum 1989, tr. 88-89.
  13. ^ Kiernan 2003, tr. 29.
  14. ^ Kiernan 2003, tr. 30.
  15. ^ Alvarez 2001, tr. 12.
  16. ^ Tuol Sleng Museum
  17. ^ a b Sharp, Bruce (ngày 1 tháng 4 năm 2005). “Counting Hell: The Death Toll of the Khmer Rouge Regime in Cambodia”. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2006.
  18. ^ William Shawcross, The Quality of Mercy: Cambodia, Holocaust, and Modern Conscience (Touchstone, 1985), p115-6.
  19. ^ “Cambodian Genocide Program | Yale University”. Yale.edu. ngày 18 tháng 7 năm 2007. Truy cập 27 tháng 7 năm 2010.
  20. ^ “Rummel, RJ, "Statistics of Cambodian Democide: Estimates, Calculations, And Sources."”. Hawaii.edu. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2010.
  21. ^ Heuveline, Patrick (2001). "The Demographic Analysis of Mortality in Cambodia." In Forced Migration and Mortality, eds. Holly E. Reed and Charles B. Keely. Washington, D.C.: National Academy Press.
  22. ^ Heuveline, Patrick (2001). “The Demographic Analysis of Mortality Crises: The Case of Cambodia 1970-1979”. Forced Migration and Mortality. National Academies Press. tr. 124. ISBN 978-0-309-07334-9.
  23. ^ Campuchia không muốn tòa án Khmer Đỏ xét xử thêm ai. Người Lao động, 19/11/2018. Truy cập 1/06/2019.
  24. ^ Sự thật và dối trá trong xét xử Khmer Đỏ tại Campuchia. Nghiên cứu quốc tế, 13/03/2015. Truy cập 1/06/2019.
  25. ^ Chan 2004, tr. 256.
  26. ^ Alvarez 2001, tr. 56.
  27. ^ Eang Mengleng & Zsombor Peter. Kem Sokha Says S-21 Was Vietnamese Conspiracy. The Cambodia Daily, 27/05/2013. Truy cập 1/06/2019.
  28. ^ Buncombe 2013.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFBuncombe2013 (trợ giúp)
  29. ^ Thủ tướng Singapore nói Việt Nam xâm lược Campuchia. RFA, 4/6/2019. Truy cập 5/06/2019.
  30. ^ Leap Chanthavy. Lee Hsien Loong Disrespectful of Khmer Rouge victims. Khmer Times, 3/6/2019. Truy cập 5/06/2019.
  31. ^ Diplomatic rift mounting between Cambodia and SG over PM Lee’s remark on FB Lưu trữ 2019-06-05 tại Wayback Machine. The Online Citizen, 5/6/2019. Truy cập 5/06/2019.
  32. ^ Boyle 2009, tr. 95.

Trích dẫn

  • Alvarez, Alex (2001). Governments, Citizens, and Genocide: A Comparative and Interdisciplinary Approach. Indiana University Press. ISBN 978-0253338495.
  • Alvarez, Alex (2007). “The Prevention and Intervention of Genocide During the Cold War Years”. Trong Samuel Totten (biên tập). The Prevention and Intervention of Genocide. Transaction. tr. 7–30. ISBN 978-0765803849.
  • Barron, John; Anthony Paul (1977). Murder of a gentle land: the untold story of a Communist genocide in Cambodia. Reader's Digest Press. ISBN 978-0883491294.
  • Bartrop, Paul R. (2012). A Biographical Encyclopedia of Contemporary Genocide. ABC-CLIO. ISBN 978-0313386787.
  • “Khmer Rouge trial ends with defendants denying charges”. BBC. ngày 31 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2014.
  • Beachler, Donald W. (2011). The Genocide Debate: Politicians, Academics, and Victims. Palgrave Macmillan. ISBN 978-0230114142.
  • Boyle, Deirdre (2009). “Shattering Silence: Traumatic Memory and Reenactment in Rithy Panh's S-21: The Khmer Rouge Killing Machine”. Framework: The Journal of Cinema and Media. Wayne State University Press. 50 (1/2): 95–106. doi:10.1353/frm.0.0049. JSTOR 41552541.
  • Buncombe, Andrew (ngày 7 tháng 6 năm 2013). “Cambodia passes law making denial of Khmer Rouge genocide illegal”. The Independent. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2014.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Chan, Sucheng (2004). Survivors: Cambodian Refugees in the United States. University of Illinois Press. ISBN 978-0252071799.
  • Corfield, Justin J. (2011). “Nuon Chea”. Trong Spencer C. Tucker (biên tập). The Encyclopedia of the Vietnam War A Political, Social, and Military History. ABC-CLIO. ISBN 978-1-85109-961-0.
  • de los Reyes, Faith Suzzette; Mattes, Daniel; Lee, Samantha B.; Van Tuyl, Penelope (2012). KRT TRIAL MONITOR (PDF). Asian International Justice Initiative. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2016.
  • DeMello, Margo (2013). Body Studies: An Introduction. Routledge. ISBN 978-0415699303.
  • Donlon, Fidelma (2012). “Hybrid Tribunals”. Trong William A. Schabas, Nadia Bernaz (biên tập). Routledge Handbook of International Criminal Law. Routledge. tr. 85–106. ISBN 978-0415524506.
  • Dutton, Donald G. (2007). The Psychology of Genocide, Massacres, and Extreme Violence: Why Normal People Come to Commit Atrocities. Praeger. ISBN 978-0275990008.
  • Etcheson, Craig (2005). After the Killing Fields: Lessons from the Cambodian Genocide. Greenwood. ISBN 978-0275985134.
  • Frey, Rebecca Joyce (2009). Genocide and International Justice. Facts On File. ISBN 978-0816073108.
  • Hannum, Hurst (1989). “International Law and Cambodian Genocide: The Sounds of Silence”. Human Rights Quarterly. The Johns Hopkins University Press. 11 (1): 82–138. doi:10.2307/761936. JSTOR 761936.
  • Heuveline, Patrick (1998). “'Between One and Three Million': Towards the Demographic Reconstruction of a Decade of Cambodian History (1970-79)”. Population Studies. Taylor & Francis. 52 (1): 49–65. doi:10.1080/0032472031000150176. JSTOR 2584763.
  • Hinton, Alexander Laban; Lifton, Robert Jay (2004). “In the Shadow of Genocide”. Why Did They Kill?: Cambodia in the Shadow of Genocide. University of California Press. ISBN 978-0520241794.
  • “KAING Guek Eav”. Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia (ECCC). Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2015.
  • Kiernan, Ben (2003). “Twentieth-Century Genocides Underlying Ideological Themes from Armenia to East Timor”. Trong Robert Gellately, Ben Kiernan (biên tập). The Specter of Genocide: Mass Murder in Historical Perspective. Cambridge University Press. ISBN 978-0521527507.
  • MacKinnon, Ian (ngày 12 tháng 11 năm 2007). “Leading Khmer Rouge figures arrested”. The Guardian. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2014.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Mayersan, Deborah (2013). “"Never Again" or Again and Again”. Trong Deborah Mayersen, Annie Pohlman (biên tập). Genocide and Mass Atrocities in Asia: Legacies and Prevention. Routledge. ISBN 978-0415645119.
  • Mendes, Errol (2011). Peace and Justice at the International Criminal Court: A Court of Last Resort. Edward Elgar. ISBN 978-1849803823.
  • Munthit, Ker (ngày 19 tháng 11 năm 2007). “Ex-Khmer Rouge Head of State Charged”. Associated Press. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2014.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • PoKempner, Dinah (1995). Cambodia at War. Human Rights Watch. ISBN 978-1564321503.
  • Power, Samantha (2002). A Problem from Hell: America and the Age of Genocide. Basic Books. ISBN 0-465-06150-8.
  • Roett, Riordan (2008). China's Expansion Into the Western Hemisphere: Implications for Latin America and the United States. Brookings Institution Press. ISBN 978-0815775546.
  • SarDesai, D.R. (1998). Vietnam, Past and Present. Westview. ISBN 978-0813343082.
  • Stanton, Gregory H. (2013). “The Call”. Trong Samuel Totten, Steven Leonard Jacobs (biên tập). Pioneers of Genocide Studies. Transaction. tr. 401–428. ISBN 978-1412849746.
  • “Cambodia sentence two top Khmer Rouge leaders to life in prison”. The Telegraph. Associated Press. ngày 7 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2014.
  • Terry, Fiona (2002). Condemned to Repeat?: The Paradox of Humanitarian Action. Cornell University Press. ISBN 978-0801487965.
  • Tyner, James A. (2012). Genocide and the Geographical Imagination: Life and Death in Germany, China, and Cambodia. Rowman & Littlefield. ISBN 978-1442208988.
  • Verkoren, Willemijn (2008). The Owl and the Dove: Knowledge Strategies to Improve the Peacebuilding. Amsterdam University Press. ISBN 978-9056295066.
  • Waller, James. "Communist Mass Killings: Cambodia (1975-1979)". Keene State College. Cohen Center, Keene, NH. ngày 17 tháng 2 năm 2015. Powerpoint Lecture.

  • Trung tâm Tài liệu Campuchia (DC-Cam, Documentation Center of Cambodia)

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Diệt_chủng_Campuchia&oldid=68420332”