Tại sao nhà Trần lại duy trì chế độ quân chủ quý tộc

1. Khái quát chung về mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần?

Bộ máy chính quyền thời Lý – Trần được xây dựng trên hình thức chính thể quân chủ quý tộc. Dựa trên nguyên tắc “liên kết dòng họ”, hoàng thân quốc thích là hậu thuẫn chính trị hùng mạnh cho quyền lực của nhà vua. Biểu hiện của nó là hầu hết các trọng trách ở bộ máy trung ương đều do tầng lớp quý tộc nắm giữ. Vương hầu, tôn thất đều được trọng dụng và khuyến khích hôn nhân nội tộc vừa để củng cố sự vững chắc của vương triều vừa nhằm đảm bảo tính thuần nhất của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được bền vững.

Về bộ máy hành chính: Thời Lý – Trần cấu trúc theo 3 cấp: Cấp trung ương, cấp hành chính trung gian, cấp hành chính cơ sở.

– Thời Lý: Ở Kinh đô, nhà Lý giao cho một hoàng tử hay thân vương trông coi gọi là kinh sư lưu thủ. Ở các châu gần, đặt các chức tri châu, thông phán, tổng quản để trông coi. Ở các châu biên giới đặt chức châu mục đứng đầu. Đứng đầu phủ có chức tri phủ, tri phủ sự, phán phủ sự phụ trách. ở các địa phương, nhà Lý từ năm 1011 đổi 10 đạo thời Lê làm 24 lộ , đặt thêm một số đạo và trại, châu. Một số châu, trại đổi làm phủ, các vùng xa gọi là châu (như châu Vĩnh An, Đằng Châu, châu Lâm Tây, v.v.). Dưới lộ có huyện, hương.

– Thời Trần: Nhà Trần đổi 24 lộ thành 12 lộ. Dưới lộ, phủ là châu, huyện, xã. Đứng đầu các lộ là an phủ sử, ở các phủ là tri phủ, trấn phủ rồi đến các viên chức thông phán, thiên phán, tào, vận lệnh uý v.v.. Các châu do chuyển vận sứ, thông phán quản lý, ở huyện do lệnh uý, chủ bạ coi giữ. Chế độ xã quan được phổ biến ở các xã. Đứng đầu các xã là đại tư xã và tiểu tư xã. Các viên xã quan được tuyển chọn trong hàng ngũ những người có phẩm hàm, từ ngũ phẩm trở lên làm đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống giữ chức tiểu tư xã (xã nhỏ). Dưới đại, tiểu tư xã có các chức xã trưởng, xã giám giúp việc sổ sách.

Vể tổ chức bộ máy quan lại: Đứng đầu triều đình là Hoàng đế, dưới Hoàng đế có 3 chức đứng đầu các quan lại trong triều, đó là thái sư, thái phó, thái bảo (tam thái). Dưới đó là chức thái úy, nắm giữ việc chính trị, quân sự trong nước, về sau chức này được gọi là tể tướng. Tiếp đến là các chức tư không, thiếu phó, thiếu bảo, thiếu úy (phụ trách cấm quân), nội điện đô trị sự, ngoại điện đô trị sự, kiểm hiệu bình chuơng sự. Đây là những chức vụ trọng yếu nhất giúp việc nhà vua. Để giúp vua quản lý mọi mặt của đất nước, còn có các cơ quan chuyên trách như Trung thư sảnh, Khu mật sứ, Ngự sử đài, Hành khiển tượng thư sảnh, Nội thị sảnh, Đình uý, Hàn lâm học sĩ.

Tại sao nhà Trần lại duy trì chế độ quân chủ quý tộc

>>>Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài:1900.6568

Năm 1097, nhà Lý cho biên soạn và ban hành Hội điển , quy định các phép tắc chính trị, tổ chức bộ máy quan lại. Từ đó, quy chế tổ chức hành chính và quan lại được xác lập, thể hiện bước tiến bộ rõ rệt trong việc quản lý xã hội, đất nước. Các quan lại cao cấp có nhiều công lao được phong thực phong, thực ấp. Chỉ con cháu những người có quan tước, được tập ấm, mới được làm quan.

Sang thời Trần, tổ chức bộ máy quan lại ở trung ương có bước hoàn thiện hơn thời Lý. Khác với nhà Lý, nhà Trần đặt ra chế độ Thái thượng hoàng. Các vua sớm truyền ngôi cho con trai trưởng (hoàng thái tử) nhưng vẫn cùng với vua (con) trông coi chính sự, tự xưng là Thái thượng hoàng. Trong triều đình, đứng đầu các quan vẫn là ba chức thái (sư, phó, bảo) chỉ có điểm khác thời Lý ở chỗ nhà Trần đặt thêm hàm thống quốc, tá thánh, phụ quốc để gia phong thêm (như thống quốc thái sư, tá thánh thái sư phụ quốc thái bảo). Chức thái úy thời Lý (tướng quốc) đổi thành tả hữu tướng quốc bình chương sự. Giúp việc cho tể tướng (tướng quốc) thời Trần đặt thêm các chức hành khiển nằm trong cơ quan mật viện. Các hành khiển thường kiêm cả các chức thượng thư (đứng đầu bộ), tả hữu bộc xạ, tả hữu gián nghị đại phu . Dưới các chức vụ nói trên, các quan được chia thành hai ban văn và võ. Bên văn có các bộ, đứng đầu mỗi bộ là một viên thượng thư. Ngoài bộ, có các cơ quan chuyên trách như ở thời Lý, nhưng nhiều hơn, tổ chức chặt chẽ hơn như: các cục (Nội thư hoả cục, Chi hậu cục); các đài (Ngự sử đài với các chức tả hữu gián nghị đại phu, thị ngự sử, giám sát ngự sử v.v.); các viện (Khu mật viện với các chức tri mật viện sự, khu mật tham chính…v.v..)

Xem thêm: Tiền lương là gì? Cơ cấu, đơn giá và ý nghĩa của tiền lương?

Nhà Trần còn đặt thêm một tổ chức phụ trách về dòng họ nhà vua gọi là tông chính phủ. Nhà Trần cũng thực hiện chế độ ban phong thái ấp cho vương hầu, tôn thất và cho phép họ được xây dựng phủ đệ riêng.

Nhận xét: Thời Lý, các quan lại đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc; sang thời Trần, tất cả các chức vụ quan trọng trong triều đình cũng đều giao cho vương hầu quý tộc nhà Trần nắm giữ. Nguyên tắc “tôn quân quyền” được thể hiện nhưng không đậm nét bằng nguyên tắc “liên kết dòng họ”. Trong bộ máy chính quyền trung ương, Hoàng đế là người nắm giữ toàn bộ vương quyền và thần quyền nhưng mức độ tập trung quyền lực của vua chưa cao tới mức chuyên chế, mà quyền hành pháp được chuyển giao rộng rãi cho các chức vụ trung gian trong nhà nước, thường là các chức vị dưới vua như Tế tướng, Thừa tướng. Thời Trần để củng cố vương quyền, nhất là trong những thời kỳ đầu, nhà Trần đã thực hiện một nền chuyên chính – dân chủ dòng họ. Các chức vụ chủ chốt trong triều đình (nhất là về võ quan, như các tướng lĩnh trong cuộc kháng chiến chống Nguyên) đều do các người họ hàng thân cận với nhà vua nắm giữ. Cách sử dụng, bổ nhiệm quan lại của nhà nước Lý – Trần đã phản ánh rõ nét bản chất của nhà nước quân chủ quý tộc.

1. Cơ sở lí luận

a. Khái niệm hình thức chính thể nhà nước

Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối cao của nhà nước và xác lập các mối quan hệ cơ bản của các cơ quan nhà nước đó.

Hình thức chính thể quân chủ là hình thức mà trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế.

b. Khái niệm thể chế nhà nước quân chủ quý tộc

Thể chế nhà nước quân chủ quý tộc là thể chế mà trong đó quyền lực tối cao vẫn trong tay một người đứng đầu (vua, hoàng đế…) nhưng trong bộ máy nhà nước, tầng lớp quý tộc nắm giữ hầu hết các trọng trách ở triều đình và địa phương, hệ thống quan lại hầu hết là những người trong hoàng tộc.

Điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời kì LýTrần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.7 KB, 8 trang )

MỞ ĐẦU
Trong lĩnh vực lịch sử nhà nước Việt Nam thời phong kiến, thì việc nghiên cứu mô hình
nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì các mô hình nhà nước phong kiến lịch sử, chúng
ta lại thấy được cả một quá trình học tập thừa kế và sáng tạo của ông cha ta trong cách thức tổ
chức bộ máy nhà nước.Trong tiến trình lịch sử, mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý-Trần
là một trong những mô hình mang tính điển hình, có hệ thống và khá hoàn thiện. Vì vậy để
nghiên cứu rõ hơn nữa về mô hình nhà nước phong kiến quân chủ quý tộc thời Lý-Trần, em xin
chọn đề tài: “Điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời kì LýTrần”
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về mô hình nhà nước quân chủ quý tộc
1. Khái niệm hình thức chính thể nhà nước
Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối cao của nhà
nước và xác lập các mối quan hệ cơ bản của các cơ quan nhà nước đó. 1
Hình thức chính thể quân chủ là hình thức mà trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập
trung toàn bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế , có hai
loại; chính thể quân chủ tuyệt đối và chính thể quan chủ hạn chế. 2
2. Khái niệm thể chế nhà nước quân chủ quý tộc
Thể chế nhà nước quân chủ quý tộc là thể chế mà trong đó quyền lực tối cao vẫn trong tay
một người đứng đầu (vua, hoàng đế…) nhưng trong bộ máy nhà nước, tầng lớp quý tộc nắm giữ
hầu hết các trọng trách ở triều đình và địa phương, hệ thống quan lại hầu hết là những người
trong hoàng tộc.
II. Khái quát chung về mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý-Trần.
Bộ máy chính quyền thời Lý-Trần được xây dựng trên hình thức chính thể quân chủ quý
tộc. Dựa trên nguyên tắc” liên kết dòng họ”, hoàng thân quốc thích là hậu thuẫn chính trị hùng
mạnh cho quyền lực của nhà vua. Biểu hiện của nó là hầu hết các trọng trách của bộ máy trung
ương tập quyền đều do tầng lớp quý tộc nắm giữ. Vương hầu, tôn thất đều được trọng dùng và
khuyến khích hôn nhân nội tộc vừa để củng cố sự vững chắc của vương triều vừa nhằm đảm bảo
tính thuần nhất của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được bền vững.
-Về bộ máy hành chính: Thời Lý-Trần cấu trúc theo 3 cấp: cấp trung ương, cấp hành chính
trung gian, cấp hành chính cơ sở.
+Thời Lý: ở kinh đô, nhà Lý cho một hoàng tử hay vương thân trông coi gọi là kinh sư lưu thủ.


Ở các châu gần, đặt các chức tri châu, thông phán, tổng quân để trong coi. ở các châu biên giới
đặc chức châu mục đứng đầu. Đứng đầu phủ có chức tri phù, tri phủ sự, phán phỉ sự phụ trách. Ở
1
2

http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh_th%E1%BB%A9c_ch%C3%ADnh_th%E1%BB%83
http://up.hanhchinh.com.vn/tailieucuaan/Nha%20nuoc%20&%20Phap%20luat/LL_NN/Bai6_Hinh_thuc_nha_nuoc.

1


các địa phương, Nhà lý từ năm 1011 đổi 10 đạo thời Lê thành 24 bộ, đặt thêm một số đạo và trại,
châu. Một số châu, trại đổi làm ohur, các vùng xã gọi là châu. Dưới lộ có huyện, hương.
+Thời Trần: đổi 24 lộ thành 12 lộ. Dưới lộ, phủ là châu, huyện, xã. Đứng đầu các lộ là an phủ sử,
ở các phủ là tri phủ, trấn phủ rồi đến các viên chức thông phán, tiên phán, tào, vấn lệnh úy..Các
châu do chuyển vận sứ, thông phán quản lý, ở các huyện do lệnh úy, chủ bạ coi giữ. Chế độ xã
qquan được phổ biến ở các xã. Đứng đầu các xã là đại tư xã và tiểu tư xã. Các viên quan được
tuyển chọn trong hàng ngũ những người có phẩm hàm. Dưới đại tư xã có chức xã trưởng, xã
giám giúp việc sổ sách.
-Về tổ chức bộ máy quan lại: đứng đầu triều đình là Hoàng đế, dưới Hoàng đế có 3 chức đứng
đầu các quan lại trong triều, đó là thái sư, thái phó, thái bảo (tam thái). Dưới đó là chức thái úy,
nắm giữ việc chính trị, quân sự trong nước, về sau chức này được gọi là tể tướng. Tiếp đến là các
chức tư không, thiếu phó, thiếu bảo, thiếu úy (phụ trách cấm quân), nội điện đô trị sự, ngoại điện
đô trị sự, kiểm hiệu bình chuơng sự. Đây là những chức vụ trọng yếu nhất giúp việc nhà vua. Để
giúp vua quản lý mọi mặt của đất nước, còn có các cơ quan chuyên trách như Trung thư sảnh,
Khu mật sứ, Ngự sử đài, Hành khiển tượng thư sảnh, Nội thị sảnh, Đình uý, Hàn lâm học sĩ.
Sang thời Trần, tổ chức bộ máy quan lại ở trung ương có bước hoàn thiện hơn thời Lý.
Khác với nhà Lý, nhà Trần đặt ra chế độ Thái thượng hoàng. Các vua sớm truyền ngôi cho con
trai trưởng (hoàng thái tử) nhưng vẫn cùng với vua (con) trông coi chính sự, tự xưng là Thái
thượng hoàng. Trong triều đình, đứng đầu các quan vẫn là ba chức thái (sư, phó, bảo) chỉ có


điểm khác thời Lý ở chỗ nhà Trần đặt thêm hàm thống quốc, tá thánh, phụ quốc để gia phong
thêm (như thống quốc thái sư, tá thánh thái sư phụ quốc thái bảo). Chức thái úy thời Lý (tướng
quốc) đổi thành tả hữu tướng quốc bình chương sự. Giúp việc cho tể tướng (tướng quốc) thời
Trần đặt thêm các chức hành khiển nằm trong cơ quan mật viện. Các hành khiển thường kiêm cả
các chức thượng thư (đứng đầu bộ), tả hữu bộc xạ, tả hữu gián nghị đại phu . Dưới các chức vụ
nói trên, các quan được chia thành hai ban văn và võ. Bên văn có các bộ, đứng đầu mỗi bộ là một
viên thượng thư. Ngoài bộ, có các cơ quan chuyên trách như ở thời Lý, nhưng nhiều hơn, tổ chức
chặt chẽ hơn như: các cục (Nội thư hoả cục, Chi hậu cục...). Nhà Trần còn đặt thêm một tổ chức
phụ trách về dòng họ nhà vua gọi là tông chính phủ. Nhà Trần cũng thực hiện chế độ ban phong
thái ấp cho vương hầu, tôn thất và cho phép họ được xây dựng phủ đệ riêng. 3
Nhận xét: Thời Lý, các quan lại đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc; sang thời Trần, tất cả
các chức vụ quan trọng trong triều đình cũng đều giao cho vương hầu quý tộc nhà Trần nắm giữ.
Nguyên tắc “tôn quân quyền” được thể hiện nhưng không đậm nét bằng nguyên tắc “liên kết
dòng họ”. Trong bộ máy chính quyền trung ương, Hoàng đế là người nắm giữ toàn bộ vương
quyền và thần quyền nhưng mức độ tập trung quyền lực của vua chưa cao tới mức chuyên chế,
mà quyền hành pháp được chuyển giao rộng rãi cho các chức vụ trung gian trong nhà nước,
thường là các chức vị dưới vua như Tế tướng, Thừa tướng. Thời Trần để củng cố vương quyền,
nhất là trong những thời kỳ đầu, nhà Trần đã thực hiện một nền chuyên chính - dân chủ dòng họ.
Các chức vụ chủ chốt trong triều đình (nhất là về võ quan, như các tướng lĩnh trong cuộc kháng
chiến chống Nguyên) đều do các người họ hàng thân cận với nhà vua nắm giữ. Cách sử dụng, bổ
nhiệm quan lại của nhà nước Lý - Trần đã phản ánh rõ nét bản chất của nhà nước quân chủ quý
tộc.
3

“Nhà nước thời Lý – Trần” – www.lichsuvietnam.vn

2


III. Biểu hiện cụ thể của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần


1. Nhà nước quân chủ quí tộc là nhà nước chỉ có vua nhưng quyền lực tập trung vào tay vua
chưa cao độ
Cũng như những quân vương ở triều đại khác, các Hoàng đế Lý - Trần là vị trí độc tôn
trong xã hội, là người nắm trọn vương quyền và thần quyền, nhưng việc thực hiện quyền lực đó
còn chưa tới mức độ chuyên quyền. Trước khi ra một quyết định quan trọng vua thường phải hỏi
ý kiến của các quan đại thần. Đáng chú ý là chức danh Tể tướng thời kì này thường được giao
cho các quan đại thần như Thái Phó Tô Hiến Thành...nhưng thực chất các công thần này đều giữ
chức vụ Tể tướng, là người có rất nhiều quyền hành, thực hiện nhiệm vụ giúp vua điều hành toàn
bộ hoạt động của các quan chức trong triều, thực sự là “dưới một người trên vạn người”. Chính
vì vậy có thể nói mặc dù bộ máy nhà nước thời kì này được tổ chức theo chính thể quân chủ
chuyên chế nhưng quyền lực tập trung vào tay nhà vua chưa cao, giữa vua và các quan lại, các
bộ, các cơ quan chuyên môn còn có một chức danh trung gian là Tể tướng và chức danh này chỉ
giao cho một người. Sau này trong cải cách Lê Thánh Tông đã đặt ra chế độ “đồng tể tướng” (Tả,
Hữu) nhằm phân quyền và cũng đồng thời hạn chế sự độc đoán, tiếm quyền của Tể tướng, bộ
máy nhà nước thể hiện rõ tính chất quân chủ quan liêu chuyên chế. Sở dĩ có sự đặc biệt trên bởi
các vua Lý - Trần trong buổi ban đầu thường là những người xuất thân từ tầng lớp bình dân,
đồng thời họ cũng được chính triều đình của dòng họ vua trước suy tôn lên làm vua, từ đó nên họ
vừa là Hoàng đế của nhà nước quân chủ vừa là thủ lĩnh của cả cộng đồng dân tộc, vừa là người
đại diện cao nhất của giai cấp thống trị và bóc lột nhưng vẫn còn dáng dấp “người cha của số
đông các công xã”.4
2. Trong nhà nước quân chủ quý tộc, bên cạnh nhà vua còn có đội ngũ quý tộc là hậu thuẫn,
bệ đỡ cho vương triều.
Trong chế độ phong kiến nói chung, hoàng tộc luôn là hậu thuẫn chính trị của vương triều.
Dưới các triều Ngô - Đinh – Tiền Lê trước đây cũng vậy nhưng các triều đại này trị vì trong hoàn
cảnh lịch sử đặc biệt, ngoài hoàng tộc thì việc thu phục các thế lực chính trị - quân sự khác cũng
không kém phần quan trọng. Bởi vậy tính quí tộc của nhà nước chưa nổi trội hẳn lên. Tuy nhiên
từ đời Lý đặc biệt là đời Trần, thể chế chính trị quân chủ quý tộc càng phát triển, hoàng tộc càng
là hậu thuẫn chính trị vững chắc của vương triều. Để củng cố vương quyền, nhất là trong những
thời kỳ đầu, nhà Lý - Trần đã thực hiện một nền chuyên chính - dân chủ dòng họ. Tầng lớp quý
tộc nắm độc quyền lãnh đạo quốc gia. Các chức vụ chủ chốt trong triều đình đều do các người họ


hàng thân cận với nhà vua nắm giữ. Thời Lý lấy tước vương, tước công phong cho thân thích
hoàng tộc và người có công lớn như Thái Tổ phong cho anh là Vũ Uy vương, chú làm Vũ Đạo
vương, Lý Thường Kiệt được phong tước làm Việt Quốc công. Thứ đến là tước hầu như Đào
Cam Mộc được phong nghĩa hầu. Thời Trần “người tôn thất được phong tước vương hoặc tước
quận vương (cũng có người là cựu thần có công được phong tước vương như Trần Tá Chu được
phong Hưng Nhân vương). Năm 1267 vua Trần Thánh Tông định “ Hoàng đế ngọc điệp” theo
tiêu chuẩn ngũ phục để ấn định quan hệ họ hàng xa gần của nhà vua để ban tước, bổ chức, phong
đất.

4

http://www.dhluathn.com/2014/09/nhung-bieu-hien-cua-mo-hinh-nha-nuoc.html

3


Nhà Lý - Trần coi đội ngũ quý tộc là bệ đỡ cho vương triều thể hiện rõ trong cách thức
tuyển chọn quan lại. Vào thời nhà Trần, quan lại được tuyển dụng qua các phương thức : nhiệm
tử (tập ấm), tuyển cử (giới thiệu và bảo lãnh), khoa cử (qua các kỳ thi). Cách sử dụng, bổ nhiệm
quan lại của nhà nước Lý - Trần đã phản ánh rõ nét tính đẳng cấp sâu sắc, nhất là dưới thời Trần.
Năm 1228 Trần Thái Tông quy định “ người có quan tước con cháu mới được thừa ấm làm quan,
người giàu khỏe mạnh mà không có quan tước thì sung quân đời đời làm lính”, đến cuối đời nhà
Trần tuyển cử và bổ nhiệm vẫn là 2 phương thức tuyển dụng quan lại chủ yếu của các vương
triều.
Trong bộ máy quan lại của triều Lý và Trần chủ yếu là quý tộc. Đây là thể hiện rõ nét của
bộ máy quân chủ quý tộc. Tuy nhiên mỗi triều đại lại sử dụng người để phong quan khác nhau.
Nhà Lý sử dụng cả đội ngũ quý tộc, đồng tộc và ngoại thích: Các chức tướng công, thái phó
được hoàng đế nhà Lý ban cho những người có nhiệm vụ trực tiếp điều khiển toàn bộ chính
quyền.
Biểu hiện của bộ máy quân chủ quý tộc thời Lý – Trần còn thể hiện ở sự trọng đãi các


quan chức ở trung ương và địa phương. Tầng lớp quý tộc nắm giữ vị trí quan trọng trong tổ chức
bộ máy nhà nước, nắm giữ hầu hết các trọng trách ở triểu đình, địa phương, trấn trị các vùng
quan trọng, chỉ huy quân đội. Các hoàng tử được phong vương và được cử đi trấn trị ở các nơi
trọng yếu, vương hầu tôn thất được phong cấp thực ấp, thực hộ, cho lập điền trang phủ để.
3. Trong nhà nước quân chủ quý tộc, nhà vua được thế tộc.
Nhà Trần lấy ngôi nhà Lý bằng biện pháp hôn nhân - từ vai trò là ngoại thích của nhà Lý
đã giành ngôi. Do đó, để tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương chỉ kết hôn với người trong
họ. Nhà Trần khuyến khích hôn nhân nội tộc để củng cố sự vững chắc của vương triều. Theo tập
quán dân gian và quan niệm Nho giáo, giữa những người trong cùng họ đều không được kết hôn
với nhau nhưng dòng họ Trần lại khuyến khích nội tộc hôn nhân nhắm đảm bảo tính “thuần
nhất” của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được vững bền, ngăn ngừa ngôi vua để lọt vào tay dòng họ
khác. Chúng ta có thể điểm qua một số cuộc hôn nhân nội tộc này: Năm 1225, Trần Cảnh, tức
Trần Thái Tông, lấy Lý Chiêu Hoàng, em Thuận Thiên; trường hợp này cũng là con cô lấy con
cậu....
IV.Điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời kì Lý-Trần
1.Điểm tích cực mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần
Thứ nhất, mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần giúp quyền lực tập trung trong tay
nhà nước trung ương; chế độ quân chủ trung ương tập quyền được tiến thêm một bước, củng cố
sự vững chắc của vương triều và đảm bảo tính thuần nhất của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được bền
vững, giúp cho nhà Lý-Trần quản lí tốt đất nước.
Thứ hai, bộ máy hành chính, nhà nước thời Lý – Trần đã thể hiện tính chất thân dân. Nhà Lý tôn
trọng quyền sở hữu ruộng đất của cộng đồng làng xã. Theo đó, nhà nước không thu thuế theo
từng hộ dân mà coi mỗi cộng đồng làng xã là một tập thể lớn (hoặc nhỏ) để thu thuế lúa gạo theo
hộ dân. Người được ban thái ấp sẽ thu thuế các làng, rồi nộp một phần cho nhà nước nên họ thực
sự là chủ của dân chứ không phải là chủ ruộng đất. Dân chúng chủ yếu cày ruộng theo quy mô
làng xã. Nó góp phần xây dựng một triều đình thống nhất, đoàn kết nội bộ, đoàn kết toàn dân,
4


giữ vững nền độc lập dân tộc. Thực tế đã chứng minh rằng những chủ nhân của các thái ấp đã


hoàn thành tốt vai trò của mình là những trụ cột trợ giúp triều đình và không bao giờ trở thành
lãnh chúa địa phương như ở châu Âu cùng thời. Quan trọng hơn, đất phân phong cho các vương
hầu quý tộc vẫn gắn với ruộng đất công làng xã, với nông dân. Các quý tộc vẫn nằm trong làng,
không tách khỏi làng xã. Nhờ đó, nhà nước luôn duy trì được mối quan hệ mật thiết với nhân
dân. Thế cân bằng ổn định về kinh tế cũng được xác lập và duy trì giữa công hữu và tư hữu; giữa
quyền lực, lợi ích của nhà nước với các đẳng cấp quý tộc quan liêu và khối bình dân làng xã. 5
Thứ ba, tồn tại hình thức nhà nước quân chủ quý tộc làm cho nhà nước quân chủ phong kiến
Việt Nam không phát triển đến mức độ chuyên chế cực đoan. Khi nhà nước quân chủ quý tộc
đang phát triển sẽ phát huy trí tuệ, sức mạnh của cả hoàng tộc và triều đình, kết cấu với hoàng
tộc thành một khối chặt chẽ làm bệ đỡ chính trị cho nhà vua. Có sự hòa hợp giữa nhà vua và
hoàng tộc, hoàng tộc với nhân dân, làng với nước làm nên sức mạnh của nhà nước thời kỳ này,
phản ánh sự đoàn kết của vua tôi. Bên cạnh đó nó góp phần làm cho mô hình nhà nước phong
kiến Việt Nam không hoàn toàn rập khuôn theo mô hình nhà nước nho giáo của Trung Quốc.
Thứ tư, hình thức quan chủ quý tộc thời kỳ Lý-Trần hoàn toàn phù hợp hoàn cảnh lịch sử thời kì
hậu bắc thuộc, khi quý tộc là bệ đỡ cho vương tạo chỗ dựa vững chắc cho Hoàng đế, biểu hiện rõ
nhấy là thời kì chống quân Nguyên-Mông.
Như vậy, có thể thấy, bộ máy quân chủ quý tộc thời Lý - Trần là một mô hình coi trọng ý dân,
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân là điểm đặc sắc thể hiện rõ nét tính dân tộc, tính nhân dân của
nhà nước phong kiến Việt Nam.
2. Điểm hạn chế mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần:
Thứ nhất, việc trao quyền lực cho một tầng lớp vương hầu quý tộc tiềm ẩn nguy cơ phân quyền,
cát cứ, tranh vương đoạt vị, như vậy nhà vua sẽ khó điều hành đất nước, Cụ thể: Khoảng từ giữa
thế kỷ XII, triều chính nhà Lý bắt đầu suy đồi. Các nhà vua khi lên ngôi còn quá non trẻ, lớn lên
lại hay ham chơi. Trong triều, các gian thần, nịnh thần lộng hành nhiễu loạn. Ngoài xã hội, nhiều
năm mất mùa đói kém, loạn lạc nổi dậy khắp nơi. Những cuộc nổi dậy này biểu hiện sự trỗi dậy
của những yếu tố cát cứ, làm suy yếu chính quyền trung ương. Đầu thế kỷ XIII, lại xảy ra nạn
hỗn chiến giữa các phe phái phong kiến. Các hào trưởng địa phương, các tướng lĩnh triều đình
đem quân đánh lẫn nhau, uy hiếp triều đình Lý trong một tình hình hết sức rối ren, phức tạp. Đến
thời Dụ Tông, Triều Trần lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Mâu thuẫn nội tại của chế
độ điền trang, thái ấp phát triển. Quý tộc Trần ngày càng thoái hoá biến chất với cuộc sống xa


hoa. Nông nô và nô tỳ bị áp bức và bóc lột tàn khốc nổi dậy chống đối, thiên tai xảy ra liên tiếp,
sản xuất đình đốn, dân tình đói khổ. Mâu thuẫn xã hội gia tăng làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa
của nông dân, nông nô, nô tì để trở thành nông dân tự do. Đây có thể coi là nguyên nhân quan
trọng dẫn tới sự sụp đổ của mô hình nhà nước quân chủ thân dân Lý – Trần.
Thứ hai, về chế độ hôn nhân đồng tộc. Triều đại nhà Trần, tới các đời sau, Trần Nghệ
Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u tối của người cầm
quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Lê Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại hàng loạt con
cháu, người thân tộc họ Trần. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của
sự "thoái hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán
5

Những căn cứ để khẳng định nhà nước Lý – Trần là nhà nước quân chủ thân dân” – www.nhantainhanluc.com

5


ngôi khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh, Trần
đoạt Lý, Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Việc dung túng cho cấp dưới,
những kẻ trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các
vua Trần quả là hiếm có. Thể chế quân chủ quý tộc lúc bấy giờ đã khủng hoảng nặng nề, kìm
hãm sự phát triển của quốc gia. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và hành chính mang
tính phân tán, quyền lực của nhà nước quân chủ quan liêu trung ương tập quyền bị hạn chế. Cuộc
cải cách của Hồ Quý Ly nhằm thay thế thiết chế quân chủ quý tộc bằng một thiết chế mới quân
chủ quan liêu là đúng đắn, cần thiết, nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nó đã
thất bại nhanh chóng.
Thứ ba, việc trao quyền lực cho các bậc quý tộc, làm cho quyền lực của vua bị hạn chế, việc
quản lí điều hành đất nước sẽ gặp khó khăn, đặc biệt là công việc chống trọ thủy và nội xâm rất
khó để thực hiện khi quyền lực bị phân tán như vậy, động thời cũng tiềm ẩn nguy cư tạo phản
cao. Ví dụ: các tướng quân được đi trấn ở các nơi hiểm yếu, quan trọng, thường xa với kinh đô,
vì vậy việc tập hợp lực lượng quân đội để tạo phản, tranh quyền đoạt vị là việc rất dễ xảy ra...


Thứ tư, trình độ quan chức không cao khi bổ nhiệm nhiều chức quan làm cho thừa chức quan
trong triều nhưng lại thiếu năng lực, đội ngũ quý tộc tha hóa, trình độ, năng lực trị nước an dân
không cao nhưng vẫn được trọng dụng. Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không
biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan lại đều kém tài.
KẾT LUẬN
Như vậy, dưới thời Lý –Trần, nhất là triều Trần mô hình nhà nước quân chủ quý tộc đã rất phát
triển, mặc dù về cơ bản mô hình nhà nước này đã tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi để nhà vua
quản lí điều hành đất nước, nhưng nó cũng có những điểm hạn chế nhất. Việc nắm vững những
điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý-Trần là cơ sở để nắm
vững các hình thức nhà nước trong thời phong kiến của nước ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội 2011.
6


2. Những căn cứ để khẳng định nhà nước Lý – Trần là nhà nước quân chủ thân dân” –
www.nhantainhanluc.com
3. “Nhà nước thời Lý – Trần” – www.lichsuvietnam.vn
4.http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh_th%E1%BB%A9c_ch%C3%ADnh_th%E1%BB
%83
5.http://up.hanhchinh.com.vn/tailieucuaan/Nha%20nuoc%20&%20Phap
%20luat/LL_NN/Bai6_Hinh_thuc_nha_nuoc
6.http://www.dhluathn.com/2014/09/nhung-bieu-hien-cua-mo-hinh-nha-nuoc.html

MỤC LỤC

7



MỞ ĐẦU............................................................................................................................................................................ 1
I. Khái quát chung về mô hình nhà nước quân chủ quý tộc..................................................................................1
1. Khái niệm hình thức chính thể nhà nước...........................................................................................................1
2. Khái niệm thể chế nhà nước quân chủ quý tộc..................................................................................................1
II. Khái quát chung về mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý-Trần..............................................................1
III. Biểu hiện cụ thể của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần.........................................................3
1. Nhà nước quân chủ quí tộc là nhà nước chỉ có vua nhưng quyền lực tập trung vào tay vua chưa cao độ......3
2. Trong nhà nước quân chủ quý tộc, bên cạnh nhà vua còn có đội ngũ quý tộc là hậu thuẫn, bệ đỡ cho vương
triều..........................................................................................................................................................................3
3. Trong nhà nước quân chủ quý tộc, nhà vua được thế tộc..................................................................................4
IV.Điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời kì Lý-Trần...........................................4
1.Điểm tích cực mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần...................................................................4
2. Điểm hạn chế mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần:.................................................................5
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................................................... 6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................................................6
.......................................................................................................................................................................................... 7

8



Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Nguồn gốc
    • 1.2 Thay ngôi nhà Lý
    • 1.3 Dẹp nội loạn
    • 1.4 Thời kỳ thống trị
      • 1.4.1 Thái Tông
      • 1.4.2 Thánh Tông – Nhân Tông
      • 1.4.3 Anh Tông – Minh Tông
    • 1.5 Thời kỳ suy tàn
      • 1.5.1 Dụ Tông suy trị
      • 1.5.2 Loạn Dương Nhật Lễ
      • 1.5.3 Hồ Quý Ly chiếm ngôi
      • 1.5.4 Nhà Hậu Trần chống quân Minh
    • 1.6 Nhận định
      • 1.6.1 Về chiến thắng Mông - Nguyên
      • 1.6.2 Về hậu kỳ nhà Trần
  • 2 Quan hệ đối ngoại
    • 2.1 Chiêm Thành
    • 2.2 Ai Lao
  • 3 Tổ chức quân đội
  • 4 Chiến tranh chống Mông Nguyên
  • 5 Hành chính
  • 6 Luật pháp
  • 7 Kinh tế
  • 8 Giáo dục, thi cử
  • 9 Tôn giáo
  • 10 Văn hóa nghệ thuật
  • 11 Chính sách hôn nhân
  • 12 Những nhân vật có ảnh hưởng nhất triều Trần
  • 13 Các Hoàng đế nhà Trần
  • 14 Thế phả nhà Trần
  • 15 Đền thờ, lăng mộ
  • 16 Xem thêm
  • 17 Chú thích
  • 18 Tham khảo
  • 19 Liên kết ngoài

Lịch sửSửa đổi

Nguồn gốcSửa đổi

Tổ tiên nhà Trần vốn làm nghề chài lưới, có gốc là người đất Mân ở tỉnh Phúc Kiến di cư đến đất Đại Việt đầu tiên ở xã Yên Sinh, huyện Đông Triều (Quảng Ninh) sau dời đến Tức Mặc, Nam Định. Những hậu duệ của nhà Trần là con cháu lai giữa dòng dõi nhà Trần và dòng dõi nhà Lý trừ trường hợp của Trần Lý, Trần Thừa, và con của Trần Thừa là Trần Cảnh vị vua đầu tiên của nhà Trần. Căn cứ vào gia phả họ Trần ở Lạc Dương do thống tôn đời 27 Trần Đình Nhân (con cháu Trần Ích Tắc) còn lưu giữ được thì gốc tích xa xưa thời chiến quốc, họ Trần thuộc nhóm tộc người Bách Việt sống ở đất Mân (tỉnh Phúc Kiến - Trung Quốc ngày nay)[1]

Người họ Trần đầu tiên đến Đại Việt là Trần Kinh (陳京), đến định cư tại làng Tức Mặc (nay là phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định) sống bằng nghề ngư sinh vào đầu thế kỷ XII. Cụ Trần Kinh sinh ra cụ Trần Hấp, cụ Trần Hấp sau sinh ra cụ Trần Lý. Gia đình cụ Trần Hấp có gia sản lớn, kẻ ở người làm đông đến vài trăm, anh em Trần Lý cũng bỏ hẳn nghề chài lưới để chuyển sang quản lý điền trang, tuyển mộ người ở. Gia tộc họ Trần dần có địa vị, trở thành tầng lớp trên của xã hội bấy giờ.

Sau ba đời con cháu sống ở Đại Việt, họ Trần trở nên giàu có và hùng mạnh dưới đời cụ Trần Lý. Cụ Trần Lý đến tuổi trưởng thành lấy bà Tô Thị Hiền (bà này có người em ruột là Tô Trung Từ, giữ chức Thái úy Phụ chính, tước Thuận Lưu bá, dưới triều Lý Huệ Tông). Họ sinh được bốn người con: Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung, Trần Thị Tam Nương.

Trần Thừa lấy bà họ Lê (con gái ông Lê Điện, quan Thái phó triều Lý), sau này sinh ra 3 con trai là Trần Liễu, Trần Cảnh, Trần Nhật Hiệu và 2 con gái. Trần Cảnh là con thứ của Thừa, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, tức Kiến Gia năm thứ 8 triều Lý (9/7/1218).[2] Như vậy Trần Cảnh (vua đầu tiên của nhà Trần) là cháu 4 đời của Trần Kinh (tổ họ Trần).

Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất thân chài lưới của họ Trần. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, được dịch sang tiếng Hán là 鯉, phiên âm là "Lý", nghĩa là cá chép. Con ông là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (cha của Trần Quốc Tuấn), người con thứ hai có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang chữ Cảnh. Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ".

Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường biết tới.

Thay ngôi nhà LýSửa đổi

Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển, đến đời Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải Ấp.

Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Quy Hóa, Thái tử Lý Sảm (sau là vua Lý Huệ Tông) chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị Dung - con gái của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt trừ Quách Bốc, đưa vua Lý trở lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị Dung là Tô Trung Từ được làm Điện tiền chỉ huy sứ. Trung Từ lại đang tâm muốn nắm quyền riêng, lạnh nhạt với người đứng đầu chỉ huy họ Trần lúc bấy giờ là Trần Tự Khánh.

Năm 1211, Thái tử Lý Sảm lên ngôi, sử gọi là Lý Huệ Tông. Ông cho đón vợ là Trần Thị Dung về cung lập làm Nguyên phi (元妃). Lúc này, Tô Trung Từ được phong Thái úy phụ chính, còn Tự Khánh được phong Chương Thành hầu (章成侯).

Huệ Tông là người yếu đuối, lại bị Đàm thái hậu (譚太后) điều khiển chính sự, nên mọi việc đều phó thác cho Đàm Dĩ Mông (譚以蒙), người chức cao, quyền lớn nhưng không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát.

Lợi dụng tình hình đó, Đoàn Thượng (段尚) làm phản, tụ tập bè đảng ở Hồng Châu thả sức cướp bóc, khiến triều đình không chế ngự nổi. Năm 1216, trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý Huệ Tông đã bí mật rời bỏ hoàng cung, cùng với Trần Thị Dung trốn đến nơi đóng quân của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn phụ thuộc vào thế lực anh em họ Trần. Tháng 12 năm Bính Tý 1216, Lý Huệ Tông phong Trần Thị Dung làm Hoàng hậu, Trần Tự Khánh làm Thái úy Phụ chính, anh cả của Hoàng hậu là Trần Thừa làm Nội thị Phán thủ.

Hoàng hậu Trần Thị Dung sinh được hai công chúa: Thuận Thiên và Chiêu Thánh. Thuận Thiên sau là Lý Thuận Thánh, lấy Trần Liễu; Chiêu Thánh sau là Lý Chiêu Hoàng, lấy Trần Cảnh. Vậy là hai chị em công chúa con vua Lý Huệ Tông đều lấy hai anh em ruột con của Trần Thừa (tức là anh em họ con cô con bác lấy nhau).

Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ quyền cho Trần Thủ Độ, em họ của Trần Thừa (陳承) và Tự Khánh, khi ấy là Chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân. Vua Lý Huệ Tông phong Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy, khi vào chầu miễn cần xưng tên.

Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ Độ đã sắp xếp để ép vua Huệ Tông nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Liền sau đó, Trần Thủ Độ lại thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng lên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh (陳煚) lên 8 tuổi. Một năm sau, vào tháng 12 âm lịch năm 1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần bắt đầu nắm quyền cai trị.

Khi lên ngôi, Trần Cảnh còn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư Trần Thủ Độ và cha là Thái thượng hoàng Trần Thừa (Trần Thái Tổ).

Dẹp nội loạnSửa đổi

Từ năm 1211, trong nước Đại Việt đã hình thành ba thế lực lớn là:

  • Họ Đoàn, Đoàn Thượng (Hải Dương và Hải Phòng).
  • Họ Trần, Trần Tự Khánh (Thái Bình, Nam Định và nam Hưng Yên).
  • Họ Nguyễn, Nguyễn Nộn (Quốc Oai, Hà Tây)

Triều đình nhà Lý chỉ kiểm soát vùng xung quanh Thăng Long. Trong thời gian nắm quyền bính trong triều cho tới khi thay ngôi nhà Lý, nhà Trần tiếp tục phải đối phó với các lực lượng cát cứ từ thời Lý. Do thế lực chưa đủ mạnh để trấn áp tất cả các lực lượng nổi dậy, họ Trần phải dùng chiến thuật khi đánh khi hoà, thậm chí cả biện pháp hôn nhân; và tận dụng sự xung đột của chính các thế lực này tự làm yếu nhau.

Sau khi nhà Trần thành lập, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng năm 1228. Nhưng không lâu sau, cuối năm 1229, Nguyễn Nộn ốm chết, lực lượng của Nộn tự tan rã. Nhà Trần chấm dứt được cục diện chia cắt, tập trung củng cố nội chính sau nhiều năm nghiêng ngả dưới thời Lý.

Thời kỳ thống trịSửa đổi

Thái TôngSửa đổi

Cuju, môn thể thao được cho là thịnh hành của giới cung cấm quý tộc ở nhà Tống lẫn nhà Lý, Trần thời bấy giờ.

Trần Cảnh khi lên ngôi vua chỉ mới 8 tuổi. Thái sư Trần Thủ Độ và Thái thượng hoàng Trần Thừa nhiếp chính và thực sự nắm quyền hành.

Trần Thủ Độ tuy bị đánh giá là người không có lễ giáo, thất học nhưng mưu lược hơn người, trị việc trong nước đều cẩn thận và chu toàn. Về mọi mặt, thời Thái Tông củng cố các vấn đề chính nhất là:

  • Mở khoa thi Tam giáo (Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo) sau nhiều năm bị gián đoạn do loạn lạc cuối thời Lý. Định đặt luật pháp, soạn ra bộ Quốc triều hình luật gồm 20 quyển để định tội danh trong nước. Đáng tiếc bộ sách này đã bị thất truyền.
  • Lại mở rộng phía ngoài thành Đại La, bốn cửa thành giao cho quân Tứ sương thay phiên nhau canh giữ. Sửa đổi quan chức các phủ lộ. Đặt 2 viên An phủ sứ và An phủ phó sứ. Trong thành dựng cung, điện, lầu, các và nhà lang vũ ở hai bên phía đông và tây. Bên tả là cung Thánh Từ (nơi Thái thượng hoàng ở), bên hữu là cung Quan Triều (nơi Hoàng đế ở). Chép công việc của quốc triều làm bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển.
  • Thủy lợi cũng được coi trọng. Năm 1231, sai hoạn quan Nguyễn Bang Cốc chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào[3] từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu. Việc xong, thăng Bang Cốc làm Phụ Quốc thượng hầu.
  • Bắt đầu định luật hành chính. Chia đất nước làm 12 lộ. Đặt các chức quan cai trị. Làm đơn sổ hộ khẩu, con trai lớn gọi là đại hoàng nam, con trai nhỏ gọi là tiểu hoàng nam, 60 tuổi gọi là lão, già lắm thì gọi là long lão. Nhân đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả. Có 1, 2 mẫu ruộng thì nộp một quan tiền, có 3, 4 mẫu thì nộp 2 quan tiền, có từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3 quan tiền. Tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc.
  • Bắt đầu thông thương nơi biên giới, để có thể giao thương với nhà Tống ở Giang Nam. Khi Nguyên Thái Tông mất, thì cửa ải thường không thông. Nếu có sứ mệnh thì chỉ có hai viên chánh phó sứ và hai bọn người đi theo, còn sản vật tiến cống có bao nhiêu thì gói bọc đưa đến địa đầu biên giới, quan địa phương nhận giữ và chuyển nộp. Sứ thần đến kinh, chỉ dâng biểu tâu thôi, các vật tiến cống không đến nơi cả được. Đến bây giờ, sai tướng chống giữ, đánh chiếm mới thông hiếu được với nước Tống.

Mỗi khi có dịp hạn hán, triều đình thường ban hành luật miễn thuế khóa, mở lương thóc rồi đại xá. Cho nên quốc lực mau chóng khôi phục, Đại Việt lại trở nên phồn thịnh như thời nhà Lý. Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi chép:..Bấy giờ quốc gia vô sự, nhân dân yên vui, người làm quan giữ mãi một chức, người ở quán, cách 10 năm mới được xuất thân, người ở sảnh, cục 15 năm mới được xuất thân, chức tể tướng thì chọn người hiền năng trong tôn thất, có đạo đức, tài nghệ, thông hiểu thi thư thì cho làm.

Năm 1252, Thái Tông đổi niên hiệu là Nguyên Phong (元豐). Sau đó ông lập tức dẫn binh đi đánh Chiêm Thành. Trước đó khi nhà Lý suy, Chiêm Thành thường hay xua binh công phá ở vùng Nghệ An, dân chết vô số, nay vua lên ngôi mà không sang thông hiếu nên rất giận, dẫn quân đi đánh và bắt được nhiều thần thiếp, cướp được nhiều của cải. Uy danh Đại Việt đối với Chiêm Thành lại được thiết lập. Giai đoạn này gọi là Nguyên Phong chi trị (元豐之治).

Năm 1258, sau khi đánh bại đại quân của Ngột Lương Hợp Thai của người Mông Cổ, Thái Tông truyền ngôi cho Hoàng thái tử Trần Hoảng (陳晃), tự xưng là Thái thượng hoàng. Từ đấy, nhà Trần theo lệ truyền ngôi sớm cho thái tử, Thượng hoàng tuy nhường ngôi nhưng vẫn quán xuyến mọi việc, giúp vị vua trẻ quen dần chính sự.

Trần Hoảng lên ngôi, sử gọi là Trần Thánh Tông.

Thánh Tông – Nhân TôngSửa đổi

Dưới thời của Thánh Tông hoàng đế, mọi việc chính sự vẫn đều chu toàn, nhà Trần tiếp tục thịnh trị. Ông xưng là Nhân Hoàng (仁皇), niên hiệu cải thành Thiệu Long (紹隆).

Trần Nhân Tông (陳仁宗)

Năm 1264, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, thọ 71 tuổi. Thái sư công chính nghiêm minh, nhà Trần có được ngôi báu và sự thịnh trị đời Thái Tông phần nhiều là công sức của ông. Đến đây, truy phong làm Thượng phụ Thái sư Trung Vũ đại vương (上父太師忠武大王).

Nhân sự cũng được thay đổi trong thời Thánh Tông. Bấy giờ Đặng Kế (鄧薊) làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá (杜國佐) làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học. Theo chế độ cũ, không phải là nội nhân (hoạn quan) thì không được làm hành khiển, chưa bao giờ dùng nho sĩ văn học. Bắt đầu từ đây, nho sĩ văn học mới giữ được quyền bính, cũng là dấu hiệu của Nho giáo đang bắt đầu có ảnh hưởng mạnh trong bộ máy nhà nước.

Đối với anh em trong hoàng tộc, nhà vua luôn coi là thân thiết. Ông xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau. Còn như trong các lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân biệt rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vì thế, các vương hầu thời ấy không ai là không hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng.

Năm 1277, Thượng hoàng Thái Tông băng hà, hưởng thọ 60 tuổi, làm Thượng hoàng được 19 năm. Cùng năm đó, Thánh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Khâm (陳欽), sử gọi là Trần Nhân Tông. Nhân Tông xưng làm Hiếu Hoàng (孝皇), đổi niên hiệu thành Thiệu Bảo (紹寶).

Khi Nhân Tông lên ngôi, họa giặc giã từ quân Nguyên ở phía Bắc đang kéo đến. Năm đó, quân Nguyên đánh diệt nhà Tống, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng Tống đế nhảy xuống biển chết. Hậu cung và các quan chết theo rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 10 vạn xác chết nổi lên mặt biển. Xác Tống đế cũng ở trong số đó.

Để chuẩn bị cho chiến tranh chống quân xâm lược, nhà Trần cho tiến hành xét duyệt sổ đinh, chuẩn bị lương thảo lực lượng. Phong cho Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (興道王陳國峻) làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc, sai chọn các quân hiệu có tài chỉ huy, chia đi nắm giữ các đơn vị. Cuối cùng, quân đội nhà Trần toàn thắng vào năm 1285 và năm 1288. Đến đây, nhà Trần bắt đầu bước vào thời thịnh trị lâu dài tiếp theo.

Năm 1290, Thượng hoàng Thánh Tông băng hà, hưởng dương 50 tuổi. Trị vì được 21 năm, thượng hoàng được 11 năm. Ông là người thiên tư, nhân ái, kế nghiệp Thái Tông khiến quốc gia hưng thịnh, lại giúp Nhân Tông chống giặc ngoại xâm, thực là công lao to lớn. Miếu hiệu Thánh Tông hoàng đế cũng là rất tôn xứng.

Trong nước sau thời kỳ chiến tranh, mất mùa thất bát. Ngay năm Thánh Tông băng hà, trong triều lục đục chuẩn bị tang lễ thì nhân dân ngoài kinh thành lại đói to, 3 thăng gạo giá một quan tiền, dân nhiều người bán ruộng đất, và bán con trai con gái làm nô tỳ cho người, mỗi người giá một quan tiền. Ngay lập tức, xuống chiếu phát thóc công chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh. Năm sau, tiếp tục chết đói, 2 năm này liên tiếp nạn đói hoành hành, Nhân Tông ban chiếu cho nô dịch, nô lệ có thể mua chuộc lại ruộng đất để tăng cường cải thiện tình hình lương thực. Tình hình dần dần cải thiện.

Năm 1293, Nhân Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Thuyên (陳烇), sử gọi là Trần Anh Tông. Anh Tông tự xưng làm Anh Hoàng (英皇).

Anh Tông – Minh TôngSửa đổi

Anh Tông hoàng đế là một vị Hoàng đế có tính trưởng thành cao trong các vị hoàng đế nhà Trần. Khi mới lên nối ngôi, Anh Tông hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có lần bị đồ vô lại ném trúng đầu. Một hôm uống rượu say đến nỗi Thượng hoàng Nhân Tông ở Thiên Trường về kinh đô, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị định truất ngôi Anh Tông.

Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh đô, sợ hãi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài (段汝諧), mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa.

Trần Anh Tông (陳英宗)

Anh Tông từ sau việc ấy siêng năng hơn, tối hôm tấu duyệt sớ của chính sự. Và từ sau vụ ấy, vua cũng đâm ra ghét người nghiện rượu và không dùng những người ấy vào việc quan. Ông cũng là người rất ghét nạn đánh bạc, đã sai đánh chết Thượng phẩm Nguyễn Hưng vì tội ấy. Dưới thời Anh Tông luật pháp rất nghiêm, vì thế trong nước có trật tự, quốc gia đi lên nhanh chóng.

Dưới thời ông, Ai Lao và các động biên giới thường xuyên quấy nhiễu, dù Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn đều đã qua đời nhưng các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Tảng đều là các danh tướng nên biên giới được an lành. Đối với văn hóa, thời Anh Tông xuất hiện các danh nhân như Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn (阮忠彥), Trần Thì Kiến (陳時見), Bùi Mộc Đạc (裴木鐸).

Về lễ phục quan lại, Anh Tông quy định áo mũ, kiệu ngồi cũng rất chặt chẽ, rõ ràng. Năm 1300, quy định quan văn thì đội mũ Đinh tự màu đen, tụng quan thì đội mũ Toàn hoa màu xanh vẫn như quy chế cũ. Ống tay áo của các quan văn võ rộng 9 tấc đến một thước 2 tấc, không cho dùng từ 8 tấc trở xuống. Các quan văn võ không được mặc xiêm, tụng quan không được mặc thường (mũ toàn hoa xanh có hai vòng vàng đính vào hai bên). Nhưng đến năm sau, đổi lại thành các quan văn võ đều đội mũ Đinh tự, thêm miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc. Các kiểu mũ của vương hầu: người tóc dài đội mũ Triều thiên, người tóc ngắn đội mũ Bao.

Một sự kiện đánh dấu sự mở rộng cương vực Đại Việt là việc Anh Tông gả em gái là Huyền Trân công chúa (玄珍公主) cho Chế Mân (Jaya Sinhavarman III), để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay). Nhưng cuộc hôn nhân chỉ được một năm thì Chế Mân băng hà, Anh Tông lo sợ Huyền Trân ở đấy không hay nên cử Trần Khắc Chung (陳克終) cướp công chúa về, từ đấy người Chiêm Thành oán hận Đại Việt. Năm 1311, chúa Chiêm là Chế Chí (Jaya Sinhavarman IV) đánh trả nhưng bị đại bại. Năm 1318, Chế Năng tiếp tục đem quân đánh phá nhưng vẫn không kết quả.

Năm 1314, Anh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Mạnh, sử gọi là Trần Minh Tông. Minh Tông tự xưng làm Ninh Hoàng (宁皇). Thượng hoàng Anh Tông vẫn giúp đỡ ông trông coi chính sự. Triều đại nhà Trần dưới thời Minh Tông tiếp tục duy trì sự thịnh vượng của các đời Anh Tông đã tạo nên. Sự thịnh thế này gọi là Anh Minh thịnh thế (英明晟世), kéo dài hơn 60 năm hưng thịnh.

Dưới thời Minh Tông, trong huyết thống hoàng gia đã bắt đầu có ngoại thích xen vào. Đó là việc ông sủng ái Anh Tư phu nhân (英思夫人), con gái một quan viên họ Lê, và em phu nhân là Sung viên Lê thị (充媛黎氏). Cả hai bà đều sinh ra các Hoàng tử đều là những người sẽ kế thừa ngôi vị Hoàng đế Đại Việt tương lai. Anh Tư phu nhân sinh ra Hoàng trưởng tử Trần Vượng (陳旺), Trần Phủ (陳暊) còn Lê sung viên sinh ra hoàng tử út Trần Kính (陳曔).

Minh Tông do sủng ái Anh Tư phu nhân nên muốn lập con của phu nhân là Trần Vượng làm Thái tử, nhưng gặp phải sự phản đối từ cha của Lệ Thánh hoàng hậu (麗聖皇后) là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn (陳國瑱), một đại thần trụ cột đương thời, con trai của Nhân Tông hoàng đế, người mà Minh Tông phải gọi bằng chú. Khi Anh Tông hấp hối, ông đã giao Quốc Chẩn chăm nom Minh Tông nên có thể nói địa vị của Quốc Chẩn rất cao. Khi Quốc Chẩn phản đối việc ông lập Trần Vượng làm Thái tử, Minh Tông bèn thôi nhưng rất bực mình. Sau đó, dưới sự xúi giục của Trần Khắc Chung (陳克終), Văn Hiến hầu (文獻侯) là con trai của Trần Nhật Duật, cùng sự ngấm ngầm của Anh Tư phu nhân, Minh Tông đã bắt giam Quốc Chẩn vào một ngôi chùa và khiến Quốc Chẩn thiệt mạng.

Minh Tông sau đó truyền ngôi cho Thái tử Trần Vượng, gọi là Trần Hiến Tông. Hiến Tông chết khi còn trẻ, Minh Tông lập con của Lệ Thánh hoàng hậu là Trần Hạo (陳暭), tức Trần Dụ Tông. Năm 1358, Thượng hoàng Minh Tông băng hà, hưởng dương 59 tuổi. Dụ Tông tự mình điều hành chính sự, thời kỳ suy vong của nhà Trần bắt đầu.

Thời kỳ suy tànSửa đổi

Dụ Tông suy trịSửa đổi

Trần Dụ Tông tuy được đánh giá thông minh, hiểu rộng, sách vở đều thông nhưng đến khi Thượng hoàng Minh Tông băng hà, ông trở nên bỏ bê chính sự. Ông ham mê tửu sắc, ra lệnh cho xây cung điện, tạo sưu cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ca thán. Trong nước, giặc giã nổi lên khắp nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên lộng hành vô cùng.

Chu Văn An (朱文安), một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng Thất trảm sớ (七斬疏) đề nghị trị tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên Chu Văn An đã từ quan về nhà dạy học.

Dụ Tông ham chơi bời, mê đàn hát, thường sai các vương hầu và công chúa bày tiệc đóng trò hát tuồng cho vui, ai diễn hay thì được thưởng. Mặc dù phép tắc nhà Trần rất nghiêm khắc với tội đánh bạc nhưng Trần Dụ Tông lại thích trò này, chiêu tập các nhà giàu vào cung đánh bạc cùng vua. Có người đã xàm tấu với ông rằng Thái úy Cung Tĩnh Đại vương Trần Nguyên Trác (陳元卓) đã yểm bùa hại ông. Dụ Tông chút nữa là sát hại Nguyên Trác, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu đã can ngăn.

Ông sai phu xây cất nhiều cung điện, đào hồ ở vườn trong hậu cung, trong hồ xây đá làm núi, trồng nhiều cây cỏ lạ và nuôi chim thú quý; sau đó ông lại sai làm hồ con, lệnh cho dân ra biển chở nước mặn đổ vào hồ và thả cá biển, đồi mồi vào nuôi.

Vua thích chơi bời, các quý tộc cũng hưởng ứng theo vua khiến triều đình rối nát. Bên ngoài xảy ra mất mùa trong nhiều năm. Trần Dụ Tông chỉ có các biện pháp khắc phục tạm thời như sai các nhà hào phú bỏ thóc lúa chu cấp cho người nghèo để chống đói và thưởng chức tước cho họ để trả công; ông không chú trọng việc đắp đê và làm thủy lợi để phát triển nông nghiệp lâu dài.

Loạn Dương Nhật LễSửa đổi

Năm 1369, Trần Dụ Tông băng hà, hưởng dương 34 tuổi, cai trị được 28 năm.

Trần Nhật Lễ, con của Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Dục (陳元育) được chọn làm người kế thừa đại thống. Nhật Lễ không phải là con của Nguyên Dục mà mẹ Nhật Lễ vốn là cô đào, vợ của kép hát Dương Khương (楊姜). Bà múa vở Vương mẫu hiến bàn đào, thân người rất đẹp nên Nguyên Dục si mê, buộc bà phải bỏ Dương Khương mà về làm vợ mình, nhưng lúc đó bà đã mang thai Lễ. Sau khi Nhật Lễ sinh ra, Nguyên Dục tự nhận làm con mình. Đến khi Dụ Tông bệnh nặng, truyền ngôi cho Nhật Lễ để kế thừa. Thật ra, lúc đó triều thần không muốn thế mà muốn lập Cung Định vương Trần Phủ lên thay, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu lại nghĩ đó là cháu mình, khăng khăng lập Nhật Lễ nên quần thần đều nghe theo. Nhật Lễ lên ngôi, tôn Thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, Trần Nguyên Trác làm Thượng tướng quốc thái tể. Sau này, Thái hoàng thái hậu biết chuyện của Nhật Lễ, hết sức thất vọng mà muốn phế truất Lễ nên Lễ ra tay trước, cho người ngầm bỏ độc giết chết Thái hậu.

Nhật Lễ ở ngôi bỏ bễ chính sự, ham tửu sắc, hằng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ là Dương, việc này làm bất bình trong giới hoàng tộc nhà Trần trong đó có Thái tể Trần Nguyên Trác. Ông ngầm lập mưu bắt Lễ trong cung, cùng con trai là Trần Nguyên Tiết với 2 cháu trai là con của Thiên Ninh công chúa (天寧公主) xâm nhập vào cung nhưng kế hoạch thất bại, Nguyên Trác cùng đồng đảng đều bị Nhật Lễ giết hết.

Mùa đông, tháng 10 năm 1370, Cung Định vương Trần Phủ vì có con gái làm hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên Vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán (陳元旦) cùng với Thiên Ninh công chúa hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Lật đổ được Nhật Lễ, giáng xuống làm Hôn Đức công (昏德公).

Cùng năm ấy, Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi, tức là Trần Nghệ Tông.

Hồ Quý Ly chiếm ngôiSửa đổi

Nghệ Hoàng giữ ngai vị được 2 năm, lên làm Thái thượng hoàng và nhường ngôi cho em là Trần Kính lên thay, tức là Trần Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, Nghệ Hoàng lập con Duệ Tông là Trần Hiện (陳晛) lên thay, sử gọi là Trần Phế Đế. Thượng hoàng Nghệ Tông nắm quyền bính trong tay quyết định mọi việc nhưng lại quá tin dùng một mình Hồ Quý Ly (黎季犛), là cháu của Minh Từ thái phi, mẹ của Nghệ Hoàng.

Hồ Quý Ly muốn nắm đại quyền, nên xúi giục Nghệ Hoàng giết hại các trung thần, các hoàng tử, các thân vương và ngay cả Phế Đế cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ. Con út của Nghệ Hoàng là Trần Ngung (陳顒), tức Trần Thuận Tông được lập lên ngôi nhưng cũng không có thực quyền. Con gái lớn của Quý Ly là Khâm Thánh hoàng hậu của Thuận Tông, nên mọi việc của Thuận Tông càng bị Quý Ly siết chặt hơn bởi lẽ Hồ Quý Ly rất gian xảo.

Do sự suy yếu chính quyền, các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Cụ thể là khởi nghĩa của:

  1. Ngô Bệ.
  2. Nguyễn Thanh cùng với cậu hai là Nguyễn Kỵ và em út là Nguyễn Bổ.
  3. Nguyễn Nhữ Cái.
  4. Phạm Sư Ôn - tăng sư nổi tiếng.

Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vị mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ Quý Ly đã tạo được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý Ly càng ngày càng lộng quyền không coi ai ra gì.

Năm 1394, Nghệ Hoàng băng hà, hưởng thọ 74 tuổi. Hồ Quý Ly nắm lấy cả quyền hành rồi sai người vào đất Thanh Hoá xây thành Tây Đô. Sau khi công việc xong xuôi, Quý Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi lập mưu ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần An, khi đó mới có 3 tuổi lên ngôi, tức Trần Thiếu Đế. Quý Ly lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tông, tự xưng làm Quốc Tổ Chương Hoàng (國祖章皇).

Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Đại tướng quân Trần Khát Chân (陳渴真) cùng các tông thất lập hội với mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất cả đều bị bắt và bị giết vào khoảng hơn 370 người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi sang họ Hồ (胡), lập ra triều đại nhà Hồ.

Nhà Trần chấm dứt, kéo dài 175 năm với 13 đời hoàng đế.

Nhà Hậu Trần chống quân MinhSửa đổi

Hồ Quý Ly làm vua được 7 năm thì mất nước vào tay quân Minh. Tôn thất nhà Trần khởi nghĩa chống quân Minh, nhà Trần được tái lập bởi Giản Định đế - Trần Ngỗi vào tháng 10 âm lịch năm 1407 tại Ninh Bình.

Bị quân Minh truy sát, Giản Định đế chạy vào Nghệ An, viên Đại tri châu châu Hóa là Đặng Tất giết quan nhà Minh, dẫn quân từ Hóa châu ra theo phò, nhà Hậu Trần làm chủ từ Nghệ An vào Thanh Hóa. Năm 1408, quân Hậu Trần tiến quân ra Bắc, đánh bại quân Minh do Chinh Di tướng quân Mộc Thạnh chỉ huy ở trận Bô Cô, bao vây các thành, cơ hội khôi phục nhà Trần, giành lại đất nước trở nên rõ ràng. Nhưng năm 1409, Giản Định đế nghe lời gièm pha, giết 2 tướng trụ cột là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, khiến cho 2 người con của họ là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị kéo quân trở về Nghệ An lập Trần Quý Khoáng lên làm vua, hiệu là Trùng Quang đế. Trùng Quang đế bắt Giản Định đế và tôn làm Thượng hoàng, cả hai cùng nhau đánh quân Minh. Hoàng đế Vĩnh Lạc nhà Minh sai Trương Phụ đem quân tiếp viện cho Mộc Thạnh. Giản Định đế thua trận bị xử tử. Trùng Quang đế núng thế, lui dần về phía Nam và thất bại hoàn toàn trong trận đánh đẫm máu ở Thuận Hóa năm 1414. Trùng Quang đế tự sát. Như vậy nhà Hậu Trần gồm 2 vua, kéo dài được 7 năm (1407-1414).

Do Trùng Quang đế và Giản Định đế đều là thành viên hoàng tộc nhà Trần, có công lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm nên dù thất bại trong việc khôi phục nhà Trần và nước Đại Việt, họ vẫn được người dân coi là 2 vị vua chính thống của nhà Trần và nước Đại Việt. Do vậy các đền thờ nhà Trần thường có tượng thờ và bài vị 14 vị vua (gồm 12 vua nhà Trần và 2 vua nhà Hậu Trần).

Nhận địnhSửa đổi

Về chiến thắng Mông - NguyênSửa đổi

Theo đánh giá của các sử gia, việc nhà Trần lên thay nhà Lý vào đầu thế kỷ 13 là cần thiết và kịp thời cho sự phục hưng nước Đại Việt bị suy yếu nghiêm trọng cuối thời nhà Lý. Nếu không có sự xuất hiện của nhà Trần, nước Đại Việt sẽ khó tồn tại trong cảnh cát cứ (Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng) bên trong và họa Mông - Nguyên bên ngoài như các nước Đại Lý, Nam Tống láng giềng. Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành công của nhà Trần là chính sách đoàn kết nội bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hoàng tộc nhà Trần có những người phản bội theo nhà Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.[4]

Còn một nguyên nhân nữa phải kể tới trong thành công của nhà Trần là đội ngũ tướng lĩnh xuất sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc nhà Trần, ngoài lòng yêu nước - và bảo vệ quyền lợi dòng tộc - số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công như nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản...[5]

Mông - Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông bại trận lúc đó như Ai Cập quá xa xôi, Nhật Bản và Indonesia đều có biển cả ngăn cách và quân Mông cũng không có sở trường đánh thủy quân nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Trung Hoa, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm cả đại lục Á-Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi Mông - Nguyên của nhà Trần.

Về hậu kỳ nhà TrầnSửa đổi

Nhìn chung, triều Trần có thể chia ba thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông là thời xây dựng và chống Mông-Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tông đến Hiến Tông (có thượng hoàng Minh Tông) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Minh Tông mất) tới khi kết thúc là thời suy tàn.

Để tránh "họa ngoại thích", nhà Trần chủ trương chính sách "hôn nhân nội tộc". Chính sự nhà Trần bắt đầu suy từ đời vua Trần Dụ Tông thích xa hoa hưởng lạc, xa lánh lương thần, tin dùng gian thần. Nhưng đó đơn giản chỉ là sự hưởng thụ như Lý Cao Tông trước đây mà thôi. Tới các đời sau, đặc biệt là Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u tối của người cầm quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Hồ Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại hàng loạt con cháu, người thân tộc họ Trần. Nhiều hành động của Nghệ Tông như thể để "dọn đường" cho Quý Ly cướp ngôi nhà Trần sau này. Thời kỳ Nghệ Tông trở về sau, vấn đề chống Chiêm Thành là lớn nhất, vậy mà một Quý Ly luôn chạy dài trước những đợt tấn công của địch, không hề lập được công bao giờ, lại vẫn được tin dùng đến như vậy. Còn Nghệ Tông đối với Đỗ Tử Bình, gian thần xảo trá gây ra cái chết của Trần Duệ Tông, không những không trừng trị đích đáng mà còn nhiều lần thăng lên làm đại thần cấp cao hơn trước, khi chết (1382) còn được truy tặng gia phong. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của sự "thoái hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán ngôi khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh, Trần đoạt Lý, Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Quan hệ giữa Quý Ly với Nghệ Tông, Tử Bình với Đế Hiện không thể như Trần Thủ Độ với Lý Huệ Tông, Mạc Đăng Dung với Lê Cung Hoàng... Việc dung túng cho cấp dưới, những kẻ trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các vua Trần quả là hiếm có.[6]

Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan lại đều kém tài. Nếu thế hệ trước thắng Mông-Nguyên khổng lồ một cách oai hùng bao nhiêu thì đời con cháu lại thất bại và phải chạy trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình trong chiến tranh chống Nguyên Mông xưa kia. Tới lúc bị Chiêm Thành xâm lấn, không hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ Lê). Nếu trong tông thất nhà Trần thời kỳ sau có những nhân tài như giai đoạn đầu thì dù Quý Ly có manh tâm cũng không thể tính chuyện cướp ngôi. Nhà Trần trượt dốc từ Trần Dụ Tông, sau sự kiện Dương Nhật Lễ và cái chết của Duệ Tông đã không gượng dậy được nữa. Đó chính là thời cơ cho Hồ Quý Ly làm việc chuyên quyền và chiếm lấy ngôi nhà Trần.[7]

Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Trang sử về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những trang sáng nhất và để lại nhiều bài học cho đời sau.

Mục lục

  • 1 Quân chủ trên thế giới
  • 2 Xem thêm
  • 3 Chú thích
  • 4 Liên kết ngoài

Quân chủ trên thế giớiSửa đổi

Hiện nay, trên thế giới có 44 quốc gia còn tồn tại hình thức nhà nước quân chủ với 25 vị vua và nữ hoàng, trong đó Nữ hoàng Anh Elizabeth II là nữ hoàng của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và đồng thời cũng là nữ hoàng của 15 quốc gia độc lập khác (tức Khối thịnh vượng chung Anh). Có thể chia ra 2 hình thức là Quân chủ hạn chế và Quân chủ tuyệt đối (Quân chủ tập trung).

chế độ quân chủ tuyệt đối

Chế độ quân chủ bán lập hiến (phân nửa)

Chế độ quân chủ lập hiến

Khối thịnh vượng chung Anh

Chế độ quân chủ địa phương (truyền thống)

Quân chủ hạn chế

Hầu hết các quốc gia Quân chủ hiện nay đều theo chế độ Quân chủ lập hiến hay Quân chủ đại nghị, Quân chủ Cộng hòa. Vua (hay Nữ hoàng) là nguyên thủ quốc gia nhưng chỉ mang tính tượng trưng hơn là thực quyền. Còn hoạt động lập pháp do nghị viện nắm giữ, hoạt động hành pháp do thủ tướng nắm giữ, và hoạt động tư pháp do tòa án đảm nhiệm (Tam quyền phân lập).

Các quốc gia Vương quốc Khối thịnh vượng chung không có vua hay nữ hoàng riêng, mà xem Vua Anh hay là Nữ vương Anh như quốc vương chung của họ và ở mỗi quốc gia này đều có 1 Toàn quyền thay mặt cho vương quyền từ Anh Quốc.

Tại các công quốc như Luxembourg, Monaco, Andorra, Liechtenstein, người đứng đầu là Đại công tước hay là Hoàng thân, Vương công. Tại Mã Lai Á và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất còn tồn tại hình thức các tiểu vương.

Hiện nay không chỉ nước Anh mà nhiều quốc gia khác trên thế giới, mặc dù tên gọi là quân chủ nhưng lại được đánh giá là nhà nước dân chủ, ví dụ như nhà nước Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Luxembourg, Thụy Điển ở châu Âu hay Nhật Bản ở châu Á.

Quân chủ tập trung

Ngoại trừ vài quốc gia còn theo chế độ quân chủ tuyệt đối, là Oman, Brunei, Ả Rập Xê Út, Eswatini và Qatar, trong số đó, hầu hết là các nền Quân chủ Hồi giáo. Quân chủ tập trung khi nhà vua hay nữ hoàng có quyền hạn lớn với 3 công cụ của pháp luật (lập pháp, hành pháp và tư pháp thay vì tam quyền phân lập).

[Thông điệp từ lịch sử] Quý tộc nhà Trần với vương triều

Vĩnh Khánh10:03 19/09/2020

Chia sẻ

Tại sao nhà Trần lại duy trì chế độ quân chủ quý tộc
Ảnh: L.G.

Ví dụ, gần như chúng ta không tìm thấy ở triều đại phong kiến nào khác có chuyện sau khi thiết triều thì tổ chức ăn uống ngay tại cung điện, rồi các vương hầu cùng ngủ với nhau. Thế mà vua Trần Thánh Tông từng bảo người tôn thất rằng: “Ta cùng các khanh là đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui, các khanh nên lấy câu nói ấy mà truyền cho con cháu để nhớ lâu đừng quên, thế là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc vậy”. Rồi vua xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, xong buổi chầu thì vào trong điện và lan đình, cùng nhau ăn uống; hoặc có khi trời tối không về thì đặt gối dài chăn rộng cùng ngủ liền giường với nhau, để tỏ hết lòng yêu nhau. Chỉ khi lễ lớn chầu mừng, tân khách, yến tiệc, mới phân biệt ngôi thứ cao thấp. Vì thế, các vương hầu bấy giờ không ai là không hòa thuận kính sợ, mà không có lỗi lệch vì sự nhờn mặt kiêu căng.

Có lẽ, trừ triều tiền Lê, khi phong tục thuần phác còn có những yến tiệc mở ven sông mà Vua Lê Hoàn vui vẻ ca hát, còn từ triều Lý về sau, ta không thấy cảnh tượng triều đình nào mà lúc liên hoan thì vua tôi cùng gõ chén ca hát, đến cả sử quan là Ngự sử trung tướng Trần Chu Phổ, người chịu trách nhiệm quan sát các hoạt động của vua và triều đình để ghi lại mà cũng cầm dùi gõ hát nghêu ngao “sử quan ca rằng, sử quan ca rằng...”.

Cũng chỉ ở thời Trần mới có chuyện nửa đêm chị vua, công chúa Thụy Bà có thể đến gấp gõ cửa điện vua để bày tỏ việc riêng, khi biết chuyện Trần Quốc Tuấn vào phòng công chúa Thiên Thành ngay trong phủ của Trung Thành vương.

Có triều đình nào mà vua đêm lang thang phố phường đi chơi, đến mức bị bọn vô lại ném cho vỡ đầu? Đó là Vua Trần Anh Tông, tính thích lẻn đi chơi đêm với hơn mười người thị vệ khiêng kiệu đi khắp trong kinh kỳ, đến gà gáy mới về cung. Lần đó đi đến quân phường, bọn vô lại ném gạch trúng đầu vua. Người theo hầu thét rằng: “Kiệu vua đấy!”, bọn đấy biết là vua, mới bỏ chạy. Đến khi Thượng hoàng Nhân Tông thấy đầu vua có vết thương, hỏi chuyện, vua cứ thực trả lời, Thượng hoàng giận nói hồi lâu.

Các thời đại sau, ta thấy chuyện các vương hầu, công tử nhà quyền quý cậy quyền làm càn làm bậy ngoài dân gian thì nhiều. Nhưng, ở triều Trần thì mới có chuyện bọn vương hầu quyền quý ra chợ đánh nhau với người dân hoặc ăn cướp để nhận là dũng cảm. Vũ Uy vương (con Vua Trần Thái Tông) cũng làm thế. Một hôm Vũ Uy vương đánh nhau tay không ở bến Đông, vua vi hành đi chơi trông thấy, hỏi rằng: “Người béo trắng ấy là ai, bắt lại đây để sai bảo”, khiến Vũ Uy vương nghe thấy chạy trốn.

Pháp luật thời Trần tuy chặt khi thi hành ngoài dân chúng nhưng vẫn lỏng với vương tôn, nên mới có chuyện một vị hoàng thân giữ trọng trách lớn (Hiển Hoàng Trần Liễu) chèo thuyền vào chầu mùa nước lụt, rồi hiếp dâm cung nữ triều trước ở trong cung. Thế mà nhà vua chỉ trách phạt nhẹ, lại cho đổi tên cung điện ấy thành cung Thưởng Xuân như một sự ủng hộ vậy.

Cũng chỉ ở triều Trần, ta mới thấy nhà vua công khai nhận con ngoài giá thú ngay trước dân chúng như Vua Trần Thái Tông nhận Trần Bà Liệt trong cuộc đấu vật.

Gần dân

Cũng hiếm có triều đại nào mà vua cất công ra xem chữa cháy ở ngoài khu nhà dân, như Vua Trần Thái Tông. Nhà vua còn bỏ công tìm hiểu xem người nào đến chữa cháy trước, người nào đến sau.

Ta cũng không đọc được chuyện có triều đại nào mà khi đám ma vua, dân chúng tràn hết cả vào cung điện để xem di quan, khiến tể tướng đích thân cầm roi dẹp cũng không được, tướng quân phải cho quân lính sang chỗ khác hát bài đưa ma để thu hút dân chúng sang xem, mới di quan được. Đó là chuyện khi Trần Nhân Tông qua đời, linh cữu tạm quàn ở điện Diên Hiền, khi sắp phát dẫn, đã đến giờ rồi mà quan liêu dân chúng đứng đầy khắp cung điện, tể tướng cầm roi xua đuổi, cũng không thể giãn ra được. Vua phải cho gọi Chi hậu chánh chưởng Trịnh Trọng Từ đến bảo tìm cách. Trọng Tử mới gọi các quân mình trông coi là quân Hải khẩu và quân Hổ dực đến thềm Thiên Trì, ngồi la liệt ở thềm, hát mấy câu Long ngâm, mọi người kéo sang xem, cung điện mới giãn người, mới rước quan tài về lăng Quy Đức được.

Viết về chuyện này, Ngô Sĩ Liên bình luận: Triều đình cốt phải nghiêm, khi linh cữu phát dẫn, cần gì phải đến tể tướng đi dẹp người và hữu ti phải dùng mưu kế mới di quan ra được? Là bởi nhà Trần khoan hậu thì có thừa mà về nghiêm trọng thì không đủ.

Có triều đình nào mà khi quyết vấn đề quan trọng của đất nước lại tổ chức mời các bô lão về kinh họp, hỏi ý kiến? Đó là sự kiện tháng 12-1284, Thượng hoàng cho gọi các phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, cho ăn và hỏi kế sách đánh giặc. Các phụ lão đều nói là nên đánh, muôn người cùng lời như một. Ngô Sĩ Liên bàn rằng: “Giặc Nguyên xâm lấn là tai nạn lớn của nước, hai vua hiệp mưu, bầy tôi họp bàn, há không có kế sách gì chống giặc mà phải ban yến hỏi kế các phụ lão ư? Là vì Thánh Tông muốn làm thế để xét lòng yêu nước của nhân dân và để nhân dân nghe lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thôi. Đó là giữ ý người xưa nuôi người già mà xin lời hay vậy”.

Cũng chỉ ở triều Trần mới có chuyện mỗi khi vua ra đường gặp gia đồng của các vương hầu thì “gọi rõ tên mà hỏi và dặn vệ sĩ không được thét đuổi”, như vua Trần Nhân Tông, vì cảm tình với bọn họ luôn phò giúp khi có giặc.

Hòa thuận

Chuyện anh em, họ hàng trong hoàng tộc nhà Trần hòa thuận, thân ái ở trên cũng đã đề cập. Nhưng, còn nhiều chi tiết khác thể hiện cái văn hóa giao tiếp đặc biệt của triều đại này. Điển hình như chuyện Trần Quang Khải và Trần Quốc Tuấn vì có thù nhà (vụ Trần Thái Tông cướp vợ của Trần Liễu), trước vốn không ưa nhau nhưng sau đó Quang Khải vẫn xuống thuyền đánh cờ với Quốc Tuấn cả ngày mới về, Quốc Tuấn lại đích thân lấy nước thơm tắm cho Quang Khải, từ đấy, vui chơi với nhau, tình thân càng mặn.

Hay như vụ Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư thông dâm với công chúa Thiên Thụy, là vợ Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con dâu Hưng Đạo vương. Vua sợ phật ý Hưng Đạo vương, đã sai đánh chết Khánh Dư nhưng lại hạ lệnh chúc đầu gông đánh để cho sống, rồi đuổi về Chí Linh làm nghề bán than. Đến khi quân Nguyên sang xâm lược, sau hội nghị Bình Than, vua Trần thấy Trần Khánh Dư chèo thuyền qua, lại cho gọi đến, phong làm phó tướng dưới quyền Hưng Đạo vương. Trần Khánh Dư chỉ huy quân dân ở vùng cửa biển, có công đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ khiến quân Nguyên nhanh chóng thất bại trong lần xâm lược thứ ba. Đến khi Hưng Đạo vương soạn cuốn “Vạn kiếp tông bí truyền thư”, rõ ràng những hiềm khích trước đó đều được Hưng Đạo vương xóa bỏ hết.

Chế độ nhà Trần cho các vương hầu lập thái ấp ở địa phương, tự xây dựng hương binh cũng được đời sau nhận là có lợi khi chiến tranh. Đó là khi giặc đến, triều đình kêu gọi thì các vương hầu đem người nhà và hương binh làm quân giúp vua. Khi triều đình có biến loạn, như lúc Dương Nhật Lễ muốn đổi sang họ Dương, các vương hầu đem người trong thôn trang đánh đuổi quân triều đình, đưa Vua Nghệ Tông lên ngôi, cũng là làm cho thế nước vững mạnh.

Không chỉ đoàn kết các vương hầu tôn thất cùng họ, các vua Trần cũng nỗ lực gắn kết những bề tôi, thuộc hạ quanh mình. Thế nên Hành khiển Trần Khắc Chung mới giao du với khắp hạng quan lại. Vua Trần Nhân Tông cũng từng bảo Tả phụ Lê Tòng Giáo giao hảo với Hàn lâm phụng chỉ Đinh Củng Viên, việc này được Ngô Sĩ Liên khen là thể hiện sự trung hậu của nhà Trần nhưng có nguy cơ gây ra mối tệ là bề tôi tư giao với nhau.

Sự hòa thuận giữa anh em, giữa bề tôi cũng là nhờ các vua Trần luôn giữ lượng khoan dung. Như khi có viên Tiểu hiệu là Hoàng Cự Đà buông lời trách cứ về chuyện mình không được ăn muỗm khi chia thưởng, Vua Trần Thánh Tông muốn đem giết nhưng Thượng hoàng Trần Thái Tông tự nhận là do lỗi của mình chia quà không đều, cho hắn đi đánh giặc để chuộc tội. Khi quân giặc đến, nhiều bậc tôn thất, quan lại từng gửi thư xin hàng giặc, đến khi giặc tan, dù bắt được cả hòm thư, Vua Trần Thánh Tông cho đem đốt hết để yên lòng những người từng lung lay tinh thần dưới sức mạnh của quân giặc.

Mặc dù vậy, sự bao dung này đã dẫn đến một chuyện đặc biệt trong lịch sử nước ta là ở triều Trần, số vương tôn hàng giặc, mong được làm vua rất nhiều, từ Trần Ích Tắc, Trần Kiện, Trần Di Ái, Trần Lộng, rồi con cháu, thuộc hạ của họ nữa...

Nói gì thì nói, sự đoàn kết, hòa thuận và khoan dung là những vũ khí đặc biệt giúp nhà Trần 3 lần liên tiếp đánh bại quân Nguyên Mông hùng mạnh.

# Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn quân Nguyên Mông sử gia Ngô Sĩ Liên vua Trần Anh Tông

Facebook Twitter Link gốc

06(49)/2008

Tại sao nhà Trần lại duy trì chế độ quân chủ quý tộc

Mục lục

  • 0.Dẫn nhập
  • 1.Chính sách đãi ngộ quan lại về phương diện tinh thần
  • 2. Chính sách đãi ngộ quan lại về phương diện vật chất
  • 3. Một số nhận xét về chính sách đãi ngộ đối với quan lại thời phong kiến
  • 4.Tài liệu tham khảo