Tại sao nói hiv gây suy giảm miễn dịch

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

Câu 4: Tại sao lại nói HIV gây hội chứng suy giảm miễn dịch?

Các câu hỏi tương tự

  • Toán lớp 10
  • Ngữ văn lớp 10
  • Tiếng Anh lớp 10

Nhiễm virus gây hội chứng suy giảm miễn dịch ở người làm phá hủy tế bào lympho CD4+, dẫn đến giảm khả năng miễn dịch qua trung gian tế bào, cuối cùng khiến cho cơ thể mất đi khả năng miễn dịch và tử vong do các bệnh nhiễm trùng cơ hội.

Căn nguyên gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch ở người là virus Human immunodeficiency virus [gọi tắt là virus HIV]. Kích thước của virus HIV vô cùng nhỏ, đầu mũi kim có thể chứa được khoảng 16000 con. Tuy nhiên, sức ảnh hưởng của nó đối với hệ thống miễn dịch của con người là rất lớn, cuối cùng sẽ dẫn đến bất hoạt hệ thống miễn dịch.

Virus HIV chỉ có thể phát triển và sinh sản bên trong tế bào sống. Tính chất đặc trưng của HIV là có men sao chép ngược và có khả năng ái tính cao với các tế bào của hệ miễn dịch, bao gồm lympho T helper [T-CD4], các đại thực bào, tế bào đơn nhân và một số tế bào có thụ thể với cấu trúc tương tự T-CD4 như tế bào thần kinh, da và niêm mạc, hạch lympho toàn thân,... Do đó, khi xâm nhập cơ thể, virus HIV liền bám dính vào màng tế bào miễn dịch rồi bắt đầu tấn công bên trong.

Đầu tiên, chúng dùng men sao chép ngược để tổng hợp ra các vật liệu trung gian, sau đó tận dụng những cấu trúc sẵn có của tế bào sống làm phương tiện để tổng hợp ra nhiều virus HIV khác qua quá trình phân bào. Điều này khiến tế bào ngày càng bị hỏng cấu trúc và chết đi, lúc đó sẽ phóng thích những siêu vi mới sinh sản. Các virus HIV mới lại chui vào các tế bào khác, tiếp tục quá trình sinh sản và phá hủy tế bào. Theo thời gian, biểu hiện suy giảm hệ miễn dịch ngày càng rõ do các tế bào T-CD4 bị tiêu diệt, cuối cùng dẫn đến suy kiệt, hệ miễn dịch không còn đủ khả năng chống lại tác nhân gây bệnh xâm nhập, cũng là giai đoạn cuối của bệnh, gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải [gọi tắt là AIDS - Acquired Immuno Deficiency Syndrom].

HIV là virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch ở người

Việc lây truyền virus HIV đòi hỏi phải có sự tiếp xúc với chất dịch cơ thể, đặc biệt là máu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo, sữa mẹ, nước bọt và dịch tiết ra từ vết thương, da hay niêm mạc có chứa virus HIV hoặc tế bào bị nhiễm. Khả năng bệnh HIV lây truyền thường xảy ra hơn đối với trường hợp nồng độ virus cao, ngay cả khi không có triệu chứng. Sự lây truyền qua nước bọt, giọt bắn do ho hoặc hắt hơi, mặc dù có khả năng, nhưng rất hiếm khi xảy ra. Hội chứng suy giảm miễn dịch ở người không lây truyền qua tiếp xúc thông thường tại nơi làm việc, trường học hay sinh hoạt tại nhà.

Những tình huống lây nhiễm virus HIV thường xảy ra:

  • Lây qua đường tình dục: Lây truyền trực tiếp từ dịch tiết của cơ quan sinh dục, dịch trực tràng hoặc miệng qua quan hệ tình dục.
  • Lây qua kim tiêm hoặc dụng cụ liên quan: Lây nhiễm khi dùng chung kim tiêm có máu hoặc tiếp xúc với dụng cụ bị nhiễm virus HIV.
  • Lây nhiễm từ mẹ sang con: Sinh con hoặc cho con bú.
  • Lây nhiễm khi truyền máu hoặc phẫu thuật liên quan đến ghép tạng.

Trong vài tuần đầu tiên khi nhiễm trùng nguyên phát, cơ thể xảy ra phản ứng miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào:

  • Miễn dịch dịch thể: Trong vòng vài tuần sau khi phơi nhiễm, cơ thể sản xuất ra kháng thể chống lại virus HIV. Tuy nhiên, các kháng thể không thể kiểm soát hoàn toàn khả năng nhiễm bệnh vì các dạng của virus HIV biến đổi liên tục.
  • Miễn dịch tế bào: Khả năng miễn dịch qua trung gian qua tế bào đóng vai trò quan trọng hơn giúp kiểm soát mức độ cao phơi nhiễm HIV [thường là trên 106 bản sao/mL] lúc đầu. Trong khi đó, những đột biến xảy ra trong quá trình sao chép ngược tạo điều kiện cho việc tạo ra virus HIV mới có khả năng chống lại sự kiểm soát của hệ thống miễn dịch cũng như thuốc kháng virus.

Nồng độ virus HIV trong huyết tương, thể hiện bằng số bản sao của ARN HIV/mL thường ổn định sau khoảng 6 tháng lây nhiễm, dao động trung bình trong khoảng 30.000 đến 100.000 bản sao/mL. Giá trị này càng cao thì số lượng tế bào T-CD4 càng giảm xuống mức nghiêm trọng, dẫn đến suy giảm hệ miễn dịch [khi T-CD4 < 200/μL] và kết quả là gây ra AIDS.

Nguy cơ và độ nghiêm trọng của hội chứng suy giảm miễn dịch ở người được xác định bởi 2 yếu tố:

  • Số lượng T-CD4
  • Nguy cơ tiếp xúc với mầm bệnh cơ hội

Nguy cơ nhiễm trùng cơ hội đặc biệt tăng cao khi T-CD4 dưới ngưỡng 200/μL đối với một số bệnh nhiễm trùng và dưới 50 /μL với các bệnh khác, cụ thể như sau:

  • Lượng T-CD4 < 200/μL: Nguy cơ mắc Viêm phổi do Pneumocystis jirovecii, viêm não do toxoplasma, và viêm màng não mô cầu do cryptococcus.
  • Lượng T-CD4 < 50/μL: Nguy cơ mắc cytomegalovirus [CMV] và Nhiễm trùng phức tạp Mycobacterium avium [MAC]

Nếu tính trung bình, cứ mỗi khi số lượng ARN virus tăng lên gấp 3 lần trong huyết thanh ở những bệnh nhân chưa được điều trị, thì nguy cơ tiến triển đến AIDS hoặc tử vong trong vòng 2 - 3 năm tiếp theo sẽ tăng khoảng 50%.

Nếu không được điều trị, nguy cơ tiến triển đến giai đoạn AIDS là khoảng 1-2% mỗi năm trong 2 - 3 năm đầu tiên của nhiễm trùng và khoảng 5-6% mỗi năm vào những năm sau đó. Bệnh nhân hầu như luôn tiến triển đến AIDS nếu không được điều trị.

Không thể chữa khỏi hoàn toàn hội chứng suy giảm miễn dịch ở người.

Bệnh nhân cần được chẩn đoán và bắt đầu với liệu trình điều trị càng sớm càng tốt ngay khi có nguy cơ phơi nhiễm. Việc điều trị bệnh HIV dựa trên nguyên tắc:

  • Đối với bệnh nhân HIV, điều trị các bệnh nhiễm khuẩn cơ hội được thực hiện bất cứ khi nào có dấu hiệu, tuy nhiên điều trị với phác đồ kháng retrovirus [ARV] chỉ thực hiện khi có đủ chỉ định.
  • Điều trị kháng retrovirus cần được thực hiện cùng các biện pháp chăm sóc và hỗ trợ về y tế, tâm lý cũng như xã hội cho người nhiễm HIV.
  • Bất cứ phác đồ điều trị HIV nào cũng phải bao gồm ít nhất 3 loại thuốc ARV [được gọi là liệu pháp kháng retrovirus hoạt tính cao: Highly Active Antiretroviral Therapy – HAART]
  • Trong mọi trường hợp, sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân luôn là yếu tố quan trọng quyết định thành công của phác đồ kháng retrovirus.
  • Các thuốc kháng retrovirus chỉ có tác dụng ức chế đối với sự nhân lên của virus HIV và không thể chữa khỏi hoàn toàn hội chứng suy giảm miễn dịch ở người. Do đó, quá trình điều trị của bệnh nhân phải kéo dài liên tục suốt cuộc đời, đồng thời phải áp dụng các biện pháp dự phòng để tránh lây nhiễm virus HIV cho người khác.
  • Người bệnh điều trị kháng retrovirus dù được phục hồi khả năng miễn dịch nhưng vẫn phải điều trị dự phòng các bệnh nhiễm khuẩn cơ hội.
  • Bệnh nhân HIV nếu chưa có chỉ định điều trị với thuốc kháng retrovirus cần được tiếp tục theo dõi về lâm sàng và miễn dịch mỗi 3 - 6 tháng để xem xét tiến triển của bệnh và cần nhắc chỉ định điều trị ARV trong tương lai.

Các protein bề mặt HIV liên tục đột biến, dẫn đến sự đa dạng rất lớn các loại kháng nguyên, do đó rất khó phát triển vắc-xin kháng HIV. Hiện tại, chưa có thuốc chủng ngừa hiệu quả đối với hội chứng suy giảm miễn dịch ở người.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 [phím 0 để gọi Vinmec] hoặc đăng ký lịch khám tại viện TẠI ĐÂY. Nếu có nhu cầu tư vấn sức khỏe từ xa cùng bác sĩ Vinmec, quý khách đặt lịch tư vấn TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn

XEM THÊM:

Với giải Câu 4 trang 121 SGK Sinh học 10 được biên soạn lời giải chi tiết sẽ giúp học sinh biết cách làm bài tập môn Sinh học 10. Mời các bạn đón xem:

_

BỆNH DO VI RÚT GÂY RA HỘI CHỨNG SUY GIẢM MIỄN DỊCH MẮC PHẢI Ở NGƯỜI [HIV/AIDS]
[Acquis immunideficientis syndromi]

ICD-10 B20-B24: Acquired immunodeficiency syndrome
Bệnh do vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người thuộc nhóm B trong Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm.

1. Đặc điểm của bệnh:
1.1. Định nghĩa ca bệnh: - Ca bệnh lâm sàng: Nhiễm HIV được chia làm 4 giai đoạn, phụ thuộc vào các bệnh lý liên quan đến HIV như tình trạng sụt cân, các nhiễm trùng cơ hội, các bệnh ác tính, mức độ hoạt động về thể lực. Người nhiễm HIV có các bệnh lý lâm sàng giai đoạn IV được coi là AIDS, các bệnh lý cụ thể là:

Với người lớn và vị thành niên trên 15 tuổi:

+ Hội chứng suy mòn do HIV [sụt > 10% trọng lượng cơ thể, cộng với tiêu chảy mạn tính không rõ căn nguyên > 1 tháng, hoặc mệt mỏi và sốt kéo dài không rõ căn nguyên > 1 tháng]. + Có biểu hiện bệnh nhiễm khuẩn cơ hội. + Và/hoặc hoạt động mức độ 4: Nằm liệt giường trên 50% số ngày trong tháng trước đó.

       Với trẻ em:

+ Suy mòn nặng hoặc suy dinh dưỡng nặng không rõ nguyên nhân không đáp ứng thích hợp với điều trị thông thường + Có bệnh nhiễm khuẩn cơ hội. - Ca bệnh xác định: + Xác định trường hợp nhiễm HIV: Một người được xác định nhiễm HIV khi mẫu huyết thanh của người đó dương tính cả ba lần xét nghiệm bằng ba loại sinh phẩm với các nguyên lý, kháng  nguyên khác nhau và do những phòng xét nghiệm đạt tiêu chuẩn được Bộ Y tế cho phép khẳng định kết quả xét nghiệm HIV dương tính.

+ Xác định ca bệnh AIDS: Người nhiễm HIV có TCD4 ≤ 200 tế bào/mm3 được coi là suy giảm miễn dịch nặng. Nếu không có xét nghiệm TCD4, tổng số tế bào Lympho có thể sử dụng thay thế. Người nhiễm HIV có tổng số Lympho ≤ 1200 tế bào/mm3 và các triệu chứng liên quan đến HIV cũng được coi là suy giảm miễn dịch nặng. Tình trạng suy giảm miễn dịch của trẻ nhiễm HIV được đánh giá qua số tế bào TCD4 theo lứa tuổi và tỷ lệ TCD4/ tế bào Lympho.


1.2. Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh tương tự: Người nhiễm HIV có thời gian nhiều năm khoẻ mạnh như người bình thường mà không có bất cứ biểu hiện gì. Ngay cả khi hệ thống miễn dịch bị suy giảm hoặc người nhiễm ở giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV [AIDS], trên lâm sàng thường được biểu hiện bằng các nhiễm khuẩn cơ hội của rất nhiều cơ quan như viêm phổi, viêm não, tiêu chảy, nhiễm nấm hoặc ung thư v.v... Do vậy, chỉ có xét nghiệm HIV mới có thể xác định chắc chắn một người có nhiễm HIV hay bị AIDS hay không.
1.3. Xét nghiệm - Loại mẫu bệnh phẩm: Mẫu bệnh phẩm hiện nay được sử dụng là máu. Một số loại xét nghiệm sử dụng các mẫu bệnh phẩm là nước bọt hoặc nước tiểu cũng đang được nghiên cứu. - Phương pháp xét nghiệm: Cho đến nay có rất nhiều phương pháp xét nghiệm HIV, có thể tóm tắt một số phương pháp chủ yếu sau:

+ Xét nghiệm phát hiện kháng thể: Hầu hết các xét nghiệm HIV hiện nay là xét nghiệm huyết thanh dựa trên nguyên lý phát hiện kháng thể. Có rất nhiều loại xét nghiệm phát hiện kháng thể như kỹ thuật ngưng kết hạt vi lượng SERODIA-HIV, kỹ thuật miễn dịch gắn men ELISA, thử nghiệm chấm - thấm [thử nghiệm nhanh], thử nghiệm miễn dịch điện di Western blot, thử nghiệm miễn dịch huỳnh quang [IFA] v.v... ưu điểm của các xét nghiệm phát hiện kháng thể là nhanh, kỹ thuật không quá khó, giá thành vừa phải. Tuy nhiên, nhược điểm là độ nhạy và độ đặc hiệu của một số sinh phẩm hạn chế, do vậy phải kết hợp các chiến lược khác nhau khi cần chẩn đoán xác định nhiễm HIV.

+ Xét nghiệm phát hiện kháng nguyên HIV: Sinh phẩm phát hiện kháng nguyên hiện nay chủ yếu là phát hiện kháng nguyên p24 tự do. Ưu điểm của xét nghiệm này là phát hiện trực tiếp kháng nguyên nên chỉ ra được tình trạng nhiễm HIV ngay cả khi chưa có đáp ứng kháng thể. Tuy nhiên, đây cũng là xét nghiệm khó và tốn kém. + Nuôi cấy HIV: Người ta cũng đã có thể nuôi cấy được HIV trong môi trường PHA có yếu tố tăng sinh tế bào. Việc nuôi cấy HIV có thể có ích trong việc giám sát sử dụng thuốc điều trị. Tuy nhiên hạn chế của nuôi cấy HIV là tốn kém, cần nhiều thời gian và nguy cơ tiếp xúc với nồng độ cao HIV. + Kỹ thuật lai ghép phân tử hoặc sử dụng phản ứng chuỗi men polimeraza [PCR]. Ưu điểm của phương pháp này là có thể chẩn đoán sớm nhiễm HIV qua việc phát hiện ARN hoặc ADN của HIV. Tuy nhiên, phương pháp này khó về kỹ thuật, độ nhạy cũng như độ đặc hiệu của nó chưa rõ và giá thành cũng khá đắt. - Chiến lược/phương cách xét nghiệm: Các phương cách xét nghiệm HIV phụ thuộc vào mục đích xét nghiệm và tỷ lệ nhiễm HIV ở từng nhóm đối tượng: + Phương cách I [áp dụng cho công tác an toàn truyền máu]: Mẫu huyết thanh được coi là dương tính với phương cách I khi mẫu đó dương tính với một trong các thử nghiệm như: ELISA, SERODIA hay thử nghiệm nhanh. Trong truyền máu, mẫu máu được xét nghiệm với phương cách I nếu dương tính hay nghi ngờ đều phải loại bỏ. + Phương cách II [áp dụng cho giám sát trọng điểm]: Mẫu huyết thanh được coi là dương tính với phương cách II khi mẫu đó dương tính cả 2 lần xét nghiệm bằng 2 loại sinh phẩm với nguyên lý và chuẩn bị kháng nguyên khác nhau. + Phương cách III [áp dụng cho khẳng định các trường hợp nhiễm HIV]: Mẫu huyết thanh được coi là dương tính với phương cách III khi mẫu đó dương tính cả 3 lần xét nghiệm bằng 3 loại sinh phẩm với nguyên lý và chuẩn bị kháng nguyên khác nhau.

2. Tác nhân gây bệnh


- Tên tác nhân: Tác nhân gây bệnh là do vi rút gây suy giảm miễn dịch mắc phải ở người [HIV - Human immunodeficiency virus]. Đây là loại vi rút có men sao chép ngược. Hiện nay, người ta xác định có hai loại HIV-1 và HIV-2. HIV-1 là nguyên nhân chính gây AIDS trên toàn thế giới. HIV-2  tìm thấy chủ yếu ở Tây Phi và khả năng lây truyền cũng như gây bệnh ít hơn so với HIV-1. - Hình thái: HIV thuộc họ Retroviridae, có dạng hình cầu, kích thước khoảng từ 80-120 nm. Cấu tạo gồm 3 lớp: + Lớp vỏ ngoài là màng lipit kép. Gắn lên trên màng này có các gai nhú là phân tử glucoprotein gồm gp120 và các yếu tố xuyên màng gp41. + Lớp vỏ trong: Gồm 2 lớp protein là p17 và protein lõi p24. Đây là kháng nguyên quan trọng để chẩn đoán nhiễm HIV. + Lõi gồm 2 sợi ARN có các men gắn kết, men tổng hợp và men sao chép ngược. Nhờ men sao chép ngược nên khi xâm nhập vào tế bào, vi rút có thể tổng hợp ADN 2 vòng. Đoạn cuối hai đầu của AND mới tạo này có khả năng gắn được ổn định vào nhiễm sắc thể ADN của tế bào và trở thành 1 tiền vi rút. Tiền vi rút này sẽ như một gen của tế bào bị nhiễm vi rút và có thể tồn tại thầm lặng không phát triển và truyền sang cho thế hệ tế bào sau khi có phân bào. Nó cũng có thể nhờ men ribonuclease của tế bào nhiễm để tạo ra ARN truyền tin giúp tạo ra các protein của vi rút hoàn chỉnh. Đây là một đặc trưng của HIV và gây khó khăn cho việc sản xuất các thuốc để tiêu diệt HIV khi nó trong tế bào và lại gắn vào ADN của tế bào. Tính biến đổi gien của HIV là rất lớn và cũng là một đặc trưng quan trọng. Do vậy, nó gây khó khăn cho việc phát triển vắc xin phòng HIV cũng như sản xuất thuốc điều trị.

- Khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài: HIV là vi rút dễ bị tiêu diệt bởi các tác nhân lý hoá ở môi trường bên ngoài cơ thể. Các nghiên cứu của Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng, trong giọt máu hoặc dịch cơ thể khô, HIV chỉ có thể tồn tại được từ vài phút đến vài giờ tuỳ thuộc vào môi trường. HIV cũng rất dễ bị tiêu diệt bởi tác động của nhiệt độ và chất sát khuẩn, nó bị tiêu diệt sau 30 phút ngâm trong cồn 70 độ, dung dịch Cloramin 1%, nước Javen 1%. Trong bơm kim tiêm có chứa máu không bị khô, chúng có thể tồn tại thậm chí đến vài ngày, trong xác chết bệnh nhân AIDS, chưa rõ HIV có thể tồn tại bao lâu nhưng một số nghiên cứu cho rằng chúng tồn tại trong vòng 24 giờ. Tuy nhiên, ở nhiệt độ dưới 00C, tia X, tia cực tím không giết được HIV.


3. Đặc điểm dịch tễ học 3.1. Trên thế giới - Những ca bệnh đầu tiên được phát hiện vào tháng 6 năm 1982 tại Los Angeles [Mỹ] trên 5 người tình dục đồng giới nam bị nhiễm trùng Pneumocytis Carini do suy giảm miễn dịch mắc phải. Sau đó nhiều nơi cũng lần lượt công bố các ca bệnh lâm sàng liên quan đến dấu hiệu suy giảm miễn dịch mắc phải. Đặc biệt từ khi phát triển ra các phương pháp xét nghiệm HIV, người ta thấy HIV có mặt ở mọi quốc gia trên thế giới. - Theo báo cáo của Chương trình phối hợp liên hợp quốc về HIV/AIDS [UNAIDS], cuối năm 2007 toàn thế giới có khoảng 33,2 triệu người nhiễm HIV đang còn sống, với khoảng 30,8 triệu là ngưòi lớn và khoảng 2,5 triệu trẻ em. Tổng số người nhiễm HIV được chia đều cho cả nam và nữ với tỷ lệ là 50:50. Vùng cận Sahara [Châu Phi] có số người hiện nhiễm HIV cao nhất khoảng 24,5 triệu người, tiếp đến là vùng Đông Nam Á khoảng 4 triệu người. Các vùng còn lại trên thế giới đều có người nhiễm HIV nhưng với số lượng và tỷ lệ thấp. Những năm gần đây, tỷ lệ người nhiễm HIV trên tổng dân số có xu hướng không tăng do số nhiễm mới có xu hướng chững lại, số người được tiếp cận và điều trị thuốc kháng vi rút nhiều hơn và tuổi thọ bình quân trên đầu người chung toàn thế giới có xu hướng tăng lên. 3.2. Tại Việt Nam - Ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Việt Nam vào tháng 12 năm 1990. Tính đến ngày 31/12/2007 số người nhiễm HIV còn sống được báo cáo trên toàn quốc là 121.734 người; có 27.669 bệnh nhân AIDS và 34.476 trường hợp đã tử vong do HIV/AIDS. Nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma tuý vẫn chiếm đa số [44%] và đường lây HIV chủ yếu vẫn là đường máu chiếm tới 75,9%. Người nhiễm HIV theo báo cáo chủ yếu vẫn là nam giới chiếm tới 82,7%. Đã có 100% số tỉnh thành phố, 96,4% số huyện/quận/thị xã và 65,8% số xã/phường báo cáo có người nhiễm HIV - Hình thái dịch HIV/AIDS ở Việt Nam vẫn trong giai đoạn tập trung. Các tr­ường hợp nhiễm HIV chủ yếu tập trung trong nhóm có hành vi nguy cơ cao nh­ư nghiện chích ma tuý, hoạt động mại dâm. Tuy nhiên, qua giám sát trọng điểm trong những năm gần đây cho thấy dịch đã có dấu hiệu lan ra cộng đồng.

4. Nguồn truyền nhiễm

- Ổ chứa: Người là ổ chứa duy nhất. - Thời gian ủ bệnh: Thời gian ủ bệnh rất khác nhau giữa người này với người khác. Thời gian từ khi nhiễm HIV đến khi phát hiện được kháng thể kháng vi rút thông thường từ 1-3 tháng nhưng thời gian từ khi nhiễm HIV đến khi được chẩn đoán là AIDS rất khác nhau. Khoảng một nửa số người nhiễm HIV sẽ phát triển thành AIDS trong vòng 10 năm nếu không được điều trị bằng thuốc kháng HIV. Thời gian chuyển thành AIDS của trẻ em nhiễm HIV ngắn hơn của người lớn. - Thời kỳ lây truyền: Người ta cho rằng, một người có khả năng làm lây truyền HIV cho người khác rất sớm ngay sau khi nhiễm HIV và kéo dài suốt đời. Các bằng chứng về dịch tễ học cho thấy khả năng lây nhiễm HIV cao nhất trong những tháng đầu sau khi nhiễm HIV và những người nhiễm HIV ở giai đoạn cuối.

5. Phương thức lây truyền

5.1. Lây truyền HIV qua đường máu: HIV có nhiều trong máu toàn phần cũng như trong các thành phần của máu như hồng cầu, tiểu cầu, huyết tương, các yếu tố đông máu. Do đó, HIV có thể lây truyền qua máu và các chế phẩm của máu có nhiễm HIV. - Lây truyền HIV từ người này sang người khác qua các dụng cụ xuyên chích qua da như trong các trường hợp sau: +  Dùng chung bơm kim tiêm, nhất là với người tiêm chích ma túy; +  Dùng chung các loại kim xăm trổ, kim châm cứu, các dụng cụ xăm lông mi, xăm mày, lưỡi dao cạo râu...; +  Dùng chung hoặc dùng khi chưa được tiệt khuẩn đúng cách các dụng cụ phẫu thuật, dụng cụ khám chữa bệnh... có xuyên cắt qua da. - Lây truyền qua các vật dụng có thể dính máu của người khác trong các trường hợp như dùng chung bàn chải đánh răng. - Lây truyền qua các tiếp xúc trực tiếp với máu khác, như bị dính máu của người nhiễm HIV vào nơi có các vết thương hở hoặc da, niêm mạc bị xây sát; - Lây truyền qua truyền máu và các sản phẩm của máu hoặc ghép các mô, các tạng... bị nhiễm HIV hoặc qua các dụng cụ truyền máu, lấy máu... không được tiệt trùng đúng cách. 5.2. Lây truyền HIV qua đường tình dục - Sự lây truyền HIV qua đường tình dục xảy ra khi các dịch thể [máu, dịch sinh dục] nhiễm HIV [của người nhiễm HIV] xâm nhập vào cơ thể bạn tình không nhiễm HIV.  - Tất cả các hình thức quan hệ tình dục [dương vật - hậu môn; dương vật -  âm đạo; dương vật - miệng] với một người nhiễm HIV đều có nguy cơ lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, mức độ nguy cơ là khác nhau, nguy cơ cao nhất là qua đường hậu môn, rồi tiếp đến là qua đường âm đạo và cuối cùng là qua đường miệng. Người nhận tinh dịch có nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn. 5.3. Lây truyền HIV từ mẹ sang con. Người mẹ nhiễm HIV có thể truyền HIV cho con: - Khi mang thai: HIV từ máu của mẹ nhiễm HIV qua rau thai để vào cơ thể thai nhi. - Khi sinh: HIV từ nước ối, dịch tử cung, dịch âm đạo của mẹ xâm nhập vào trẻ khi sinh [qua niêm mạc mắt, mũi, hậu môn hoặc da xây sát của trẻ trong quá trình đẻ]. Khi sinh HIV cũng có thể từ trong máu mẹ thông qua các vết loét ở cơ quan sinh dục mẹ mà dính vào cơ thể [niêm mạc] của trẻ sơ sinh. - Khi cho con bú: HIV có thể lây qua sữa hoặc qua các vết nứt ở núm vú người mẹ, nhất là khi trẻ đang có tổn thương ở niêm mạc miệng.

6. Tính cảm nhiễm và miễn dịch: Cho đến nay người ta vẫn chưa tìm thấy mối liên quan giữa tính cảm nhiễm HIV với chủng tộc. Những người mắc các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục, đặc biệt có loét bộ phận sinh dục hoặc những người có chít hẹp bao quy đầu có tính cảm nhiễm với HIV cao hơn. Đến nay cũng chưa có kết luận nào về khả năng miễn dịch với HIV.


7. Các biện pháp phòng, chống dịch
7.1. Biện pháp dự phòng - Tuyên truyền giáo dục sức khoẻ: Do đến nay vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vắc xin dự phòng, việc tuyên truyền giáo dục sức khoẻ cho mọi người dân đặc biệt những người có hành vi nguy cơ cao về các nguy cơ và biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV là quan trọng nhất. - Vệ sinh phòng bệnh: Tránh tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch cơ thể và dịch sinh dục là nguyên tắc chủ đạo trong dự phòng lây nhiễm HIV. Khi phải tiếp xúc với  máu, dịch tiết hoặc dịch sinh dục, cần áp dụng các biện pháp dự phòng như sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, sử dụng vật ngăn cách như kính bảo hộ, găng tay, áo choàng khi chăm sóc, ngâm tất cả các đồ dùng có dính máu, dịch cơ thể trong dung dịch nước sát trùng trước khi xử lý là các biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV có hiệu quả.

7.2. Biện pháp chống dịch

- Tổ chức: + Cần thiết lập hệ thống phòng, chống HIV từ Trung ương đến địa phương để đảm bảo cho mọi người dân được tiếp cận với thông tin và các dịch vụ dự phòng lây nhiễm HIV một cách hiệu quả. + Song song với các biện pháp dự phòng chủ động, công tác giám sát phát hiện, giám sát trọng điểm, giám sát hành vi và tổ chức báo cáo dịch theo quy định của Bộ Y tế cũng giúp cho công tác phòng, chống HIV/AIDS có hiệu quả. - Chuyên môn: + Thu dung, cách ly, điều trị bệnh nhân: Người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS không cần phải cách ly khỏi cộng đồng. Phần lớn, các công việc chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS đều thực hiện tại gia đình và cộng đồng. Người nhiễm HIV chỉ điều trị tại các bệnh viện khi có biểu hiện nhiễm khuẩn cơ hội hoặc đến khám và điều trị bằng thuốc kháng vi rút theo hẹn của thày thuốc. + Quản lý người lành mang vi rút, người tiếp xúc: HIV không lây qua các giao tiếp thông thường như bắt tay, ôm hôn xã giao, cùng làm việc, cùng học, ở cùng nhà, cùng ngồi trên phương tiện giao thông, cùng đi chợ, ngồi trong rạp hát, rạp chiếu bóng, ho, hắt hơi, dùng chung nhà vệ sinh, buồng tắm, bể bơi công cộng hoặc muỗi và côn trùng khác đốt không làm lây nhiễm HIV. Do vậy, người nhiễm HIV vẫn sinh hoạt và làm việc bình thường. Tuy nhiên, người nhiễm HIV cũng cần áp dụng các biện pháp dự phòng tránh làm lây nhiễm HIV cho người khác như sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, không dùng chung các dụng cụ xuyên chích qua da mà chưa được tiệt khuẩn, không cho máu, tinh dịch hay các mô dùng trong ghép tạng. Người chăm sóc bệnh nhân AIDS cũng cần áp dụng các biện pháp dự phòng như tránh tiếp xúc trực tiếp với máu và các dịch tiết, dịch sinh dục của người nhiễm HIV. + Dự phòng, cho đối tượng nguy cơ cao [thuốc, vắc xin]: Hiện nay chưa có vắc xin dự phòng lây nhiễm HIV cho bất cứ đối tượng nào kể cả đối tượng có nguy cơ cao. Những người có phơi nhiễm nghề nghiệp với máu có nguy cơ lây nhiễm HIV được khuyến cáo điều trị dự phòng phơi nhiễm bằng thuốc kháng vi rút theo quy định của Bộ Y tế. Phụ nữ nhiễm HIV khi mang thai cũng được khuyến khích và khuyến cáo dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con. + Xử lý môi trường: Khi trên mặt bàn, mặt sàn bị máu hoặc dịch sinh học của bệnh nhân AIDS giây ra, phải đổ ngập tràn chỗ có máu và dịch đó bằng các dung dịch sát khuẩn như nước Javel, dung dịch có Clo..., để 20 phút sau đó dùng giẻ thấm khô rồi rửa sạch tiếp như bình thường. Đối với các đồ vải có thấm máu và dịch, phải dùng kẹp hoặc găng tay để gắp cho vào túi riêng, nếu không có kẹp thì phải gấp phần có máu và dịch vào trong để nếu cầm thì cầm vào chỗ không có máu để cho vào túi, sau đó vận chuyển đến nơi huỷ hoặc nhà giặt. Phải ngâm các đồ vải này trong các hoá chất sát khuẩn 20 phút trước khi xử lý. Đối với các chất thải [Đờm, nước tiểu, phân... có máu hoặc các dịch sinh học như dịch nước báng, dịch màng phổi, dịch não tuỷ...] cũng xử lý tương tự. Đổ ngập tràn vùng chất thải bằng các hoá chất sát khuẩn để 20 phút trước khi đổ vào nơi thải chung. Luôn rửa tay bằng xà phòng trước và sau khi đeo găng, trước và sau khi thăm khám bệnh nhân, sau khi đi vệ sinh hoặc giúp bệnh nhân vệ sinh.

7.3. Nguyên tắc điều trị

- Điều trị các bệnh nhiễm khuẩn cơ hội được thực hiện bất cứ khi nào có biểu hiện bệnh nhiễm khuẩn cơ hội. Tuy nhiên điều trị bằng kháng retrovirus [ARV] chỉ thực hiện khi có đủ chỉ định. - Điều trị kháng retrovirus là một phần trong tổng thể các biện pháp chăm sóc và hỗ trợ về y tế, tâm lý và xã hội cho người nhiễm HIV. - Bất cứ phác đồ điều trị nào cũng phải có ít nhất 3 loại thuốc ARV [Liệu pháp kháng retrovirus hoạt tính cao: Highly Active Antiretroviral Therapy – HAART] - Sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân là yếu tố quan trọng quyết định thành công của điều trị kháng retrovirus. - Các thuốc kháng retrovirus chỉ có tác dụng ức chế sự nhân lên của vi rút mà không chữa khỏi hoàn toàn bệnh AIDS nên người bệnh phải điều trị kéo dài suốt cuộc đời và vẫn phải áp dụng các biện pháp dự phòng để tránh lây truyền vi rút cho người khác. - Người bệnh điều trị kháng retrovirus khi chưa có tình trạng miễn dịch được phục hồi vẫn phải điều trị dự phòng các bệnh nhiễm khuẩn cơ hội. - Người nhiễm HIV chưa có chỉ định điều trị thuốc kháng retrovirus cần được tiếp tục theo dõi về lâm sàng và miễn dịch 3-6 tháng một lần để xem xét tiến triển của bệnh và chỉ định điều trị ARV trong tương lai. 

7.4. Kiểm dịch y tế biên giới: Chương trình phòng, chống HIV/AIDS toàn cầu đã được Tổ chức Y tế Thế giới khởi động từ những năm 1987 và hiện nay Liên hợp quốc đã có Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS [UNAIDS] cho công tác phòng, chống HIV/AIDS. Một số ít nước trên thế giới vẫn yêu cầu xét nghiệm HIV để cấp thị thực nhập cảnh cho những người đến định cư hoặc sinh sống lâu dài. Tổ chức Y tế Thế giới không khuyến cáo và không ủng hộ biện pháp này. Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng không yêu cầu thực hiện biện pháp này.

Admin

Video liên quan

Chủ Đề