Tâm linh có that chuyện ở quê

Tâm linh có that chuyện ở quê
Ảnh minh họa NAG Vũ Quân

Chuyện kể xưa và nay

Trong kho tàng chuyện kể của ông có lẫn những chuyện về ma, về thế giới thần bí. Chúng tôi sợ nhưng vẫn háo hức nghe. Có câu chuyện như này: Vào một đêm hai ông, ông tôi và một ông em họ rủ nhau đi câu ở cái ao của gia đình trong họ mạc. Ao rộng lắm, nhìn sang bờ bên kia ngút mắt với cây cối, lau sậy chen nhau um tùm. Đêm không có trăng nên mọi vật trông mờ ảo lắm. Ngồi câu được một lúc thì có tiếng ùm ũm giống như ai đang giặt dịa, tắm táp rửa ráy gì thì phải. Nước động cá bỏ đi chả cắn mồi. Hai ông chuyển chỗ câu. Ngồi lúc lâu không gian im phắc chỉ có tiếng dế giun rỉ rả, bỗng lại có tiếng ùm ũm phía đối diện. Hai ông bực quá chuyển chỗ mấy lần đều vậy, xách cần câu về không. Ông giải thích với chúng tôi là bị ma nó trêu, tốt nhất là về.

Hồi bé chúng tôi sợ rúm khi nghe kể, nhơn nhớn một chút thì nghĩ chắc có kẻ nào rỗi hơi trêu hai ông đấy thôi! Cho đến ngày tôi đọc được bài viết của bác Nguyễn Tài Đức, một nhà nghiên cứu tâm linh thì suy nghĩ của tôi đã chuyển hướng. Mời các bác đọc bài viết của bác Đức.

Chuyện tâm linh - Chuyện kể về ma da

Ma lam hay còn gọi là ma da là những vong linh của những người bị chết đuối, phần nhiều là trẻ em. Những vong linh chúng sinh đó bị giam giữ dưới nước sau khi chết đuối, chưa được đầu thai chuyển kiếp. Chúng hay tìm cách bắt thêm người, làm chết đuối… Do vậy, mà thân nhân của những chúng sinh đó phải làm Lễ bắc cầu để giải thoát họ, lên bờ đi đầu thai chuyển kiếp. Chúng ta thử tìm hiểu về Lễ bắc cầu. Lễ chiêu hồn thường do các bậc chư tăng tiến hành, lập đàn cúng, và được bầy biện tổ chức như sau:

1) Một bàn thờ đặt trong một cái kiệu (hay long đình), bên trong bầy hai cái mão: một cái mão trắng cho thần Hà Bá là vua sông nước, còn mão kia màu vàng cho vị thần gọi là Âm phù dẫn hồn sứ giả. Ngoài hương đèn hoa quả xôi chè còn có một tờ sớ điệp để thỉnh cầu hai vi thần trên.

2) Một bàn thờ nhỏ kê trước cái kiệu là cho vong hồn người chết gồm một bài vị (hay tấm ảnh), một cái đầu heo, một đĩa đựng hai đồng tiền xin xăm.

3) Đặc biệt còn có thêm một bàn nhỏ nữa trên có để một tấm gương nhỏ quay mặt về hướng sông gọi là kiếng soi đường cho lễ khai quang vì hồn ma lạc lõng không biết hướng về.

4) Trước bàn thờ vong, bên trái có dựng một cây gậy gọi là kim tích trượng, tượng trưng quyền phép cùa Địa Tạng vương Bồ tát; ở đầu gậy có một cái vòng đồng treo một giải vải đỏ viết chữ Nam vô thập phương chư Phật. Gậy phép này để đưa vong hồn về cõi Phật.

5) Trước bàn thờ vong bên phải có một cây nứa tre còn lá tươi ở ngọn để treo cành phướn (gọi là thấn phan) tức là một giải giấy trắng: trên đỉnh có chữ Úm bằng Phạn ngữ (chữ đầu trong câu thần chú: Úm ma ni bát minh hồng), bên dưới thì có ba dòng chữ dọc ghi danh tính và ngày sinh, ngày mất của vong hồn.

6) Dưới chân bàn thờ có để một con hình nộm (để thế mạng cho vong hồn) và một chuồng có con gà trống (thần kê) để hướng dẫn hồn ma, một om đất đựng những lá bùa.

7) Rồi đến một cây cầu làm bằng một tấm vải trắng căng từ bàn thờ nhỏ ra tận bờ nước, ở đó lại kê thêm cái thang nhỏ có 3 bậc làm bằng cọng là chuối. Chủ đích là để vong hồn từ dưới nước leo lên đến bàn thờ vong. Kích thước của cây cầu hồn bằng vải thì chiều ngang là một thước mộc Việt Nam xưa (0m40), nhưng chiều dài tùy theo là vong hồn nam hay nữ. Đàn ông thì ba hồn bẩy vía, đàn bà thì ba hồn chín vía, (Vậy chiều dài của cây cầu cho đàn ông là: 0m40 x 7 x 3 = 8m 40)

Cuối cùng, ở bờ nước có một chiếc thuyền neo sẵn, để cho vị sám chủ lễ và vợ con người chết leo lên bơi nhiều vòng trên mặt sông. Vị sư vừa tụng niệm vừa cầm “cành phan” khua ra chiêm thu vong hồn về, xong dẫn vong hồn lên bờ sau khi đó hình nhân được ném xuống để thế mạng và cái yểm bùa để trấn quỉ ma quấy phá.

Trên đây mô tả Lễ chiêu hồn hay còn gọi là Lễ bắc cầu. Chúng tôi chưa bao giờ tham dự buổi lễ này, vì không có duyên. Nay xin kể về câu chuyện sư cụ Thích Phúc Trí, ra tay cứu vớt những chúng sinh bị chết đuối - ma lam :

Xã Mễ Trì thuộc Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội. Xã Mễ Trì cũ có 3 thôn: Mễ Trì Thượng, Mễ Trì Hạ và Phú Đô. Đất thổ cư của thôn Mễ Trì Thượng và Mễ Trì Hạ giáp nhau, chỉ phân cách bằng một dải đất trũng, người dân địa phương thường gọi là Ao Khoang. Xưa kia chủ yếu dùng để thoát nước mưa từ vùng đất phía đông và đông bắc 2 làng. Đầm Mễ Trì là một đầm rất dài và rộng. Đầm là chỗ sinh hoạt của cuộc sống cư dân hàng ngày như thả cá, tắm giặt, đây cũng là nơi lũ con trẻ hiếu động trong làng thường ra nô đùa bơi lội và đã xảy ra nhiều tai nạn sông nước. Những người bất hạnh bị chết đuối đó người ta thường gọi là ma lam. Lẽ xưa, thì người nhà các nạn nhân phải nhờ các Pháp sư hay nhà chùa, làm Lễ bắc cầu để giải trừ oan khiên, tạo một con đường đưa các oan hồn, uổng tử đó tới cửa phật, giải hết nỗi oan khiên.

Nhưng do nhiều gia đình nạn nhân vì những lý do và hoàn cảnh hoặc do thiếu sự hiểu biết về các cõi tâm linh, nên không làm lễ này…bởi thế những ma Lam không được tiếp dẫn, siêu thoát, cứ quanh quẩn nơi bị nạn và lại còn bắt thêm những kẻ bất hạnh khác phải chết theo thành một đàn, một lũ ma Lam…

Khi Hà Nội làm con đường Láng – Hòa Lạc vào năm 2001 thì nhiều đầm, ao của làng Mễ Trì bị lấp. Đầm xưa trở thành con đường cao tốc Làng – Hòa Lạc, nhưng cũng từ đó nhiều tai nạn giao thông đã xảy ra tại cung đường đi qua xã Mễ Trì. Vào những năm đó, khi đang trụ trì chùa Mễ Trì Thượng, các Phật tử thưa chuyện với sư cụ Thích Phúc Trí về những chuyện tai nạn tang thương đã xảy ra trên con đường cao tốc chạy qua nơi đây. Bằng tình thương và phật pháp, Ngài đã triệu lũ ma lam đến hỏi chuyện và thuyết phục, giảng giải cho những vong linh đó con đường giải thoát. Sư cụ hỏi: Tại sao các người lại tụ tập hại người như vậy ?

Lũ ma Lam con trẻ tâu rằng: Bạch sư tăng, vì xưa kia còn đầm nước chúng con còn có chỗ bơi lội nô đùa, nay đầm bị lấp thành đường cao tốc, chúng con không còn chỗ chơi nghịch, nên tu tập bắt người cho vui. Lũ ma kể rằng cứ bắt thêm được một người thì cả lũ lại reo hò.

Sư cụ lại hỏi: Bắt người ta như thế nào ?

Lũ ma tâu: Bạch sư tăng, dễ lắm, họ đang đi xe máy, chúng con nhảy lên bịt mắt là bị đâm xe ngay vào rệ đường, chết toi.

Sư cụ răn dạy rằng: Sao các người lại tạo bao nghiệp ác như thế. Nghe ta, từ nay chúng ngươi từ bỏ những việc làm tội ác đó, sám hối các tội lỗi đã làm, nương theo cửa phật, làm những điều tốt lành.

Nghe lời giảng giả xong, lũ ma lam tuân theo. Bằng tình thương và Đạo pháp, sư cụ Thích Phúc Trí đã độ, giải thoát cho các vong linh trên vào hầu cửa Phật. (sư cụ không lập đàn cúng lễ, mà dùng Pháp đạo của Ngài)

Thật là:

“ Phép Phật xưa nay rất nhiệm màu

Nghìn năm dễ thấy mấy ai đâu ”

Từ đó con đường cao tốc đi qua làng Mễ Trì không còn những tai nạn thương tâm nữa. Xin được thán tán công đức của sư cụ Thích Phúc Trí, và xin được vinh danh sự vi diệu, bất khả tư nghì của Phật Pháp.

Theo Chuyện quê

Câu chuyện thứ 17: CÁI GIẾNG

Hầu như làng quê nào ở miền Bắc cũng có một con sông của riêng mình. Cũng như vậy, dân làng Bắc Biên trăm đời nay sống chung với những đợt nước lên xuống đều đặn của sông Hồng. Con sông chở cho làng em nguồn sống, và cả những xác người chết trôi trương phềnh mỗi đợt lũ về. Cái khúc sông đấy, ngay bản thân nó cũng chứa đựng những thứ kỳ dị. Dù những con nước đấy có cướp đi bao mạng người làng em, nhưng họ cũng không hề vì thế mà oán trách, chỉ cố tránh xa nước sông vào những giờ nhất định trong ngày...

Như mọi vùng quê khác, nhà nào cũng có một cái giếng; phần vì để lấy nước cho tiện, phần cũng hạn chế ra sông vào những giờ bất khả kháng. Cái sản nghiệp bên ngoại em là do cụ xây. Cụ em làm cho chế độ cũ, nên cũng vì thế nhà xây theo kiểu phương tây. Cụ bảo ăn nước giếng không sạch, bảo người xây một cái bể nước mưa to đùng trong vườn.

Năm ông ngoại lấy bà em, nhờ bạn bè trong làng cùng đào cái giếng. Cái giếng ở mảnh sân nhỏ dưới chân cầu thang nhà cậu D., cạnh cái chuồng chó, đối diện cửa ra vườn sau. Chẳng biết ông đào thế nào mà quanh năm, dù nước lên hay xuống, mưa to hay hạn hán thì mực nước trong giếng vẫn không thay đổi. Cứ lưng lửng ở giữa, chẳng đầy hơn mà cũng chẳng vơi đi bao giờ. Nước trong giếng cũng lạ, lấy nước ở sông mà múc lên gầu nào gầu nấy trong vắt, chẳng có tí gợn đỏ phù sa. Cả nhà lấy thế làm mừng lắm, chỉ có ông ngoại em thỉnh thoảng nén tiếng thở dài, và chẳng tỏ ra vui thú gì cả.

Người chết luôn sống chung với người sống. Họ đi cùng, ngồi cùng, đôi khi là nhìn chằm chằm vào người sống gây ra cảm giác rùng mình hay đột nhiên nổi da gà. Bà em bảo, những nơi thê thảm, chứa đựng ít linh khí của đất trời thường là nơi hồn ma bóng quế tụ tập. Đối với làng em, chỗ đấy không phải bãi tha ma, mà là đoạn bờ sông nơi chôn những cái xác thối rữa trôi về làng mỗi đợt nước lên.
"Đất có Thổ công, sông có Hà bá". Khu đất nào cũng có thần linh trấn yểm, và cả vía của những người sống trên đó nữa.

Ông em đào xong cái giếng trong vườn được 5 năm, năm 62 bà ngoại em sinh cậu C, trong làng có đứa chết đuối. Hồi đấy vườn rộng, trồng nhiều cây trái, lại rào thưa nên trẻ con hay sang nhà ông bà em bẻ trộm chuối, khế hay chơi trốn tìm ngoài bờ tre. Thằng bé cùng làng mò vào trốn, giữa trưa nắng, chẳng hiểu đi đứng thế nào mà lộn cổ xuống giếng nhà em. Đến tối mẹ nó đi tìm, khóc lóc thảm thiết, cả làng đổ ra sông mò. Mò đến trưa hôm sau vẫn không thấy... Lúc này mới vào nhà em múc nước rửa chân, cái gầu rơi xuống đập cộp vào đầu thằng bé. Xác nó vớt lên, làng giữ chặt không cho mẹ nó vào gần. Đấy là thông tục của dân chài lưới. Phàm người chết đường chết chợ, đặc biệt là chết trôi sông, thì phải táng ở ngoài đường, cấm không cho mẹ đến gần. Giữ được một lúc thì bà mẹ nó vùng ra được, chạy lại ôm xác con. Bất chợt thằng bé co giật mạnh, từ các lỗ trên mặt nó, miệng, tai, mũi, và 2 hốc mắt, máu tươi chảy ra thành dòng, hòa với nước rơi lại vào giếng nhà em tong tỏng...

Táng xong thằng bé đấy, trẻ con cũng chẳng mò sang vườn nhà ông bà ngoại em chơi nữa. Và cũng từ đấy sinh lắm chuyện quái dị. Đợt đấy nhà chẳng dám dùng nước giếng nữa, chuyển sang dùng nước mưa ở cái bể to. Cái bể to nằm ở gần sân sau nhà cậu D bây giờ, muốn ra phải đi qua cái giếng. Bà em bảo, vào những đêm sáng trăng, chỗ cái giếng hay có tiếng trẻ con than khóc, rồi tiếng kêu cứu thất thanh. Thế nhưng chẳng ai dám ra xem thế nào cả... 3 tháng sau, ông em nhờ thầy trong làng đến cúng, cúng 3 hôm liền, từ đấy cái giếng không còn tiếng ai oán nữa. Ông em đem miếng gỗ to mà đậy lại.

Bẵng đi một thời gian, con cháu chẳng để ý, ông bà cũng chẳng nhắc, chẳng hiểu ai bỏ cái nắp ra, cả nhà lại múc nước dùng bình thường.

Năm 2004, cái giếng đột nhiên trào nước xối xả, nước phù sa đỏ lòm như máu, loang khắp sân. Đến ngày hôm sau thì hết, nhưng mực nước cứ giữ xâm xấp ở miệng, dù trời nắng to...Trong quan niệm của nhiều người, động thổ nghĩa là động vào vong, và động vào thổ địa. Đất mang khí âm, nước sông mang khí âm. Đem khoét một lỗ sâu trên mặt đất mà cho âm quyện với âm, cái giếng chẳng khác nào đường đi tắt của vong vào đất người sống. Chuyện này vốn dĩ chẳng hay ho với bất cứ gia đình nào, đặc biệt là với những người mang nợ với Hà bá..

Có một điều bà em dặn đi dặn lại khi anh em em còn nhỏ:

"Đi ra ngoài thì mở cửa phòng thật to, còn khi vào phòng phải đóng cửa thật kín"2004 là năm con Linh bị ma dụ và theo về nhà, cũng là năm bà em bắt đầu đưa con chó đá vào để trong vườn. Hai hốc mắt nó phẳng lỳ, lạnh lẽo, chẳng hiểu do cố tình xoay đặt hay không mà hướng thẳng ra phía cái giếng cổ năm xưa.

Người ta bảo chết trẻ thiêng lắm, nhưng cũng dễ hóa giải. Cái vong thằng trẻ con năm xưa sau đợt cúng 3 hôm đã không còn nữa. Thế nhưng chỗ cái giếng vẫn thỉnh thoảng vang lên tiếng u u, như tiếng gió đập vào 2 bên thành, rợn tóc gáy. Từ hồi cậu D. chuyển cái chuồng chó về gần đấy, 2 con chó chẳng cắn đêm nữa. Mỗi tối xích nhốt vào chuồng chúng nó lại trở nên khó bảo, lồng lộn hay giãy đạp loạn xạ. Cái hôm con Linh bị ma theo về, chỗ cái giếng cổ vẫn im lặng như tờ....

Trở lại chuyện 2 con chó bà em nuôi năm cậu mợ D đẻ con Linh.

Cái đêm mợ L đẻ, trong làng có con chó mẹ cũng sinh ra một lứa chỉ 2 con chó con. Bà em thích lắm, xin cả 2 con về nuôi, đặt tên là Tin và Mic. Lúc bà em sang xin chó, mặt bà bạn tỏ ra kì lạ, nhưng cũng ậm ừ cho qua chuyện. Bà em bảo 2 con này bằng tuổi con Linh, coi như là bạn nối khố. Càng sống lâu 2 con càng tỏ ra trái tính trái nết. Con Tin vui vẻ, hoạt bát bao nhiêu thì con Mic lại tỏ ra lầm lỳ, lúc nào cũng gầm gừ trong cuống họng, mắt vằn đỏ liếc nhìn xung quanh...

Buổi sáng hôm mộ con Tin bị đào mất, bà em chết lặng.... Bà em đứng rất lâu cạnh cái mộ chó trong vườn sau nhà cậu D, mặt bần thần tím tái. Đến trưa thì mời sư thầy đến nhà. Sư thầy đến nhà em, ra cái mộ chó, bất chợt tay lần tràng hạt mà như nói bâng quơ "Nhà bà xưa nay chỉ nuôi 1 con chó, không có con thứ hai" Sư bảo giờ đem lấp cái hố đi, nhưng đừng lấy đất bờ sông ở khu này.

Thế nhưng cậu D. chẳng quan tâm.

Đợi bà với sư vào nhà, cậu em đem đất 2 bên mà lấp hố lại cho đỡ mất công.Cái khoanh đất 3 năm sau vẫn còn nâu mới roi rói..... 3 ngày sau khi lấp, có chó lạ xuất hiện trong vườn nhà bà em. Bọn này chỉ đến lúc nửa đêm, gào lên ăng ẳng, chạy lạo xạo ngoài vườn nhưng tuyệt nhiên mấy con chó nhà các cậu không sủa lại tiếng nào.

"Gấuuuuuuuuuuu"

3 đêm liền nó sủa ngoài vườn nhà bà, sát bờ bãi ra sông. Tiếng nó cứ to rồi nhỏ dần, như chó sói tru. Rồi tiếng rít và tiếng cắn 2 hàm răng vào với nhau cồm cộp càng lúc càng sát vách nhà bà em.

Đến hôm thứ 3 thì người nhà em mới dám ra đoạn đấy ngó. Cái chỗ bờ tre gần đấy đặc dấu chân chó quấn lấy nhau. Cứ thế xa dần vườn mà ra đoạn bờ tre. Đến gốc tre thì dừng hẳn lại. Cậu D. thấy lạ đem xẻng ra xúc... Được một quãng thì kinh hãi nhận ra, dưới gốc tre ngoài bờ sông là xác con Tin và con Mic. Con Mic đầu vẫn đội nón, nhưng mồm ngoạm chặt lấy cổ con Tin, trào máu đen sì chỗ kẽ răng........

Bà ngoại em bảo cậu đem xác 2 con mà đốt đi, rồi lấy tro trộn vào đất sét đắp lại chỗ bờ tre như trước. Từ đấy tiếng con chó lạ cũng chẳng còn.

Cái năm 2004, nước giếng phun lên đỏ lòm, con Linh 2 lần bị ma dụ, cả nhà hoang mang lắm. Sau đợt đấy thấy bà em hay xách bị ra sông từ lúc sáng sớm. 10 ngày liên tục, rồi bà chẳng ra nữa, chỉ thấy đặt con chó đá ở góc vườn sau nhà cậu D. Con chó đá không có hốc mắt.Rồi lại mời sư sang trấn yểm. Nhìn thấy bãi đất nâu tươi chôn con Tin năm xưa, sư chỉ thẳng mặt cậu em mà mắng nhiều lắm. Ngày hôm đấy sư không về chùa, ở lì lại chỗ vườn sau mà tụng với bà em.

Sáng hôm sau sư gọi cậu em ra, mặt rầu rĩ mà rằng

"Mẹ cháu xưa nay nuôi nhầm con chó độc, chỉ nuôi 1 con mà ngỡ như 2. Con chó độc này luôn tỏ ra hoạt bát, mạnh khỏe, nhưng lúc nào nó cũng muốn tìm cơ hội mà giết mẹ con cháu. Nhà cháu có cái tinh ngựa đánh trận khôn lắm, nhờ vía nó canh mà con kia chưa làm hại được ai"

Nay bà ngoại em đem chỗ đất sét trộn tro 2 con lúc trước nhét vào khối đá, đúc thành hình con chó đem đặt yểm ở vườn nhà để tránh nó chạy trốn ra sông. Lại đem khoét mắt đi, để phòng cho nó không thấy đường mà làm trò càn nhiễu.

Cái chỗ vườn yên ổn một thời gian, cho đến năm khí âm xoay vần, bà em đau yếu đi hẳn...con chó đá chẳng hiểu do ai đem đi, tự nhiên chuyển vào trong vườn bà...Nó vẫn im lìm, nhưng chỗ hốc mắt trống trơn chẳng còn hướng ra cái giếng cổ như trước nữa...

Câu chuyện thứ 18: HỒI KẾT

Từ sau cái ngày con chó đá bị đập nát đầu ở vườn bà, những chuyện kì dị quanh khu nhà em cũng nhiều phần giảm hẳn. Chẳng còn tiếng hú ban đêm ngoài bờ sông hay những tiếng gọi phía vườn sau nhà cậu D. Ngày hôm đấy cậu em mang cái xác chó đá và 2 tròng mắt dính máu nhét vào bị và ném xuống sông. Dòng nước đỏ quạnh nuốt chửng cái bao tải, sùi bọt trắng xóa rồi chìm nghỉm..

Cách đây hơn 1 năm người ta bắt đầu làm dự án thành phố ven sông Hồng. Lúc này cái bãi gần bờ sông nhà em cũng đã mất gần hết, chỉ còn 1 chút bờ be bé thoải ra ngoài. Sông vào sát làng, lở luôn cả bụi tre và bãi đất năm nào; cuốn đi hết những cái xác người chết trôi vùi ở đấy. Những cái xác lại trôi xuống đáy sông và có lẽ chẳng bao giờ nổi lên được nữa.

Ngày đổ cái kè đá, cả làng nhộn nhịp hẳn. Dân bảo đợi dự án làm xong, giá đất lên tha hồ mà hưởng lợi. Người người nô nức ra ngắm từng đoàn thợ kéo về. Tiếng xe cẩu, xe ben chạy ì ì, đổ đá um ủm suốt cả ngày. Chỗ bãi tre ngày xưa giờ thay bằng cái kè toàn đá tảng, chạy dài tít tắp, trắng phớ hai bên bờ. Thợ dựng lán ở cạnh sông cho tiện làm.Người làng em bảo cái kè đá cướp đất của những u linh ngoài bãi và cả của loài ma nam.

Hàng đêm vẫn có tiếng nhảy ùm ùm ngoài sông, và cả những tiếng cười đùa í ới. Làng em ai cũng biết, cũng chẳng dám ra ngóng, chỉ thấy ít lâu sau thợ chẳng còn làm đêm, tiếng máy ủi, xe ben cũng bặt tích.

Mọi chuyện cứ bình lặng trôi đi; chẳng còn hồn ma bóng quế và cũng chẳng còn những việc làm người nhà em hoang mang. Đêm đấy bà em ốm.

Cái chân bà em lại trở chứng, đau hết 2 bên đầu gối, mỗi lần đi ra đi vào lại gặp khó khăn. Thế nhưng bà em cũng vui vẻ hơn và không còn cáu kỉnh như đợt trước nữa.

Người nhà em có thói quen đi ngủ muộn. Tối thường tụ tập chè nước ở sân nhà cậu D., đến quá 11h mới ai về nhà nấy ngủ. Đêm đấy cũng vậy, gió sông thổi vào hiu hiu, lành lạnh, không khí thoáng đãng làm câu chuyện trở nên vui vẻ hơn. Đến 10 rưỡi bà em đau chân bỏ về phòng. Mọi người vẫn ngồi lại uống nước. Từ nhà cậu D. xuống nhà bà khoảng 20m. Bà em vừa bước vào phòng, chưa kịp bật điện thì đứng sững lại mà ú ớ không nói được câu nào. Người nhà em thấy thế chạy xuống. Bà em đứng yên trước thềm run run chỉ vào cái khe cửa... Cửa mở hờ, đằng sau bóng tối chỗ cái khe cửa không khít đấy, 2 con mắt đỏ lòm trừng trừng nhìn ra ngoài.. Cậu D. đạp cửa xông thẳng vào, thấy chỗ đấy có cái bóng đen lù lù nhảy qua cửa sổ, rồi biến mất chỗ bờ sông. Cậu em toan đuổi theo thì bà giữ lại. Mặt bà em trắng bệch, thở dốc mà bảo con cháu, "Vong này ở nhà mình lâu rồi"

Thế rồi bà chẳng nói gì nữa, mắt buồn mang mác nhìn ra sông.

Cả nhà có gặng hỏi bà cũng chẳng trả lời.Phía bờ sông nước vẫn cuộn đục ngầu, sóng va vào cái bờ kè ì oạp, ì oạp..[END]