Thế kỷ 17 18 là năm bao nhiêu?

Khi bạn đọc muốn nhận tài trợ và thuộc đối tượng đủ điều kiện nhận tài trợ, bạn đọc có thể tích chọn vào “Nhận tài trợ” tại đợt tài trợ phù hợp, sau đó bạn đọc bấm chọn “Mua ngay” hoặc “Cho vào giỏ sách” và tiếp tục thực hiện các bước tiếp theo để tiến hành đặt mua sách.

Trong một số trường hợp đặc biệt, để xác minh điều kiện nhận tài trợ, bạn có thể cần upload ảnh chụp của giấy tờ tuỳ thân. Những trường hợp này, thông tin cá nhân của bạn sẽ được bảo mật theo chính sách bảo mật của Sàn.

Trên cơ sở của nền văn hóa Óc Eo, nhà nước Phù Nam ra đời vào những năm đầu Công Nguyên. Với vị trí “cầu nối” giữa phương Đông và phương Tây, vùng đất Nam Bộ - một bộ phận lãnh thổ quan trọng của Vương quốc Phù Nam, mau chóng trở thành “miền đất hứa” cho những người từ các nơi đến lập nghiệp và góp phần quan trọng thúc đẩy vùng đất này phát triển.

Từ cuối thế kỷ VI trở đi, Phù Nam ngày càng suy yếu, do đó vị thế trung tâm kinh tế thương mại Đông Nam Á mất dần. Đến thế kỷ VII, Phù Nam bị Chân Lạp thôn tính. Tuy nhiên, trong suốt thời gian dài là chủ nhân của vùng Thủy Chân Lạp (Nam Bộ ngày nay), Chân Lạp đã không phát huy được những gì mà người Phù Nam tạo dựng nên trong nhiều thế kỷ trước đó, thậm chí còn làm cho nó ngày một suy tàn, và rồi bị bỏ quên trong suốt gần 10 thế kỷ.

Vào đầu thế kỷ XVII, những lớp lưu dân người Việt đã đến vùng đất hoang địa và gần như “vô chủ” này sinh cư, đánh thức một vùng đất đầy tiềm năng ở phía nam Đại Việt. Từ xứ Mô Xoài (vùng đất thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay), các lưu dân Việt đã vào Gia Định - Đồng Nai và tiến dần xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các nhóm người Hoa rời bỏ Trung Hoa để đến Đại Việt xin tị nạn như Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch và Mạc Cửu, cũng đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển vùng đất Nam Bộ. Dưới bàn tay khai phá và xây dựng của các lớp lưu dân Việt cùng với những lớp người Hoa di cư sau đó, vùng đất Nam Bộ đã khởi sắc trở lại.

Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu đã cử Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, xây dựng các đơn vị hành chính cho vùng đất Đông Nam Bộ, chính thức xác lập chủ quyền của chính quyền Đàng Trong. Năm 1708, Mạc Cửu sau khi khai phá và xây dựng vùng đất Hà Tiên thành một vùng đất phát triển năng động đã quyết định dâng đất này cho chúa Nguyễn. Và cho đến năm 1757, những vùng đất cuối cùng của Nam Bộ ngày nay cũng được sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Sau khi đã hoàn thành xong việc xác lập hành chính ở Nam Bộ, các chúa Nguyễn đẩy mạnh khai khẩn vùng đất mới với sự cần cù của người Việt, kết hợp với tài buôn bán của người Hoa, chẳng bao lâu, Nam Bộ đã trở thành một vùng đất trù phú, màu mỡ.

Có thể nói, các chúa Nguyễn chính là những người đi tiên phong trong việc mở rộng ngoại thương, đặt quan hệ giao thương quốc tế với nhiều quốc gia trên thế giới. Chính sự cởi mở, thiện chí trong chính sách ngoại thương đã có tác dụng thu hút hoạt động buôn bán của thương nhân nước ngoài vào Đàng Trong ngày càng mạnh mẽ hơn, làm cho Nam Bộ trở thành điểm hội tụ sôi động của thế giới, nơi cuộc tiếp xúc Đông - Tây diễn ra đầy ấn tượng vào thế kỷ XVII-XVIII. Đồng thời phát triển thương mại quốc tế là một chính sách quan trọng, phần nào mang tính “sống còn” của chính quyền Đàng Trong, nhằm tăng cường nguồn lực phát triển và củng cố sức mạnh tồn tại của vùng đất Đàng Trong trước áp lực rất lớn của chính quyền Đàng Ngoài. Như vậy, chủ trương “mở cửa”, phát triển ngoại thương của chúa Nguyễn không những đáp ứng nhu cầu cấp thiết của xã hội Đàng Trong mà còn phù hợp với xu thế phát triển thương mại quốc tế và khu vực lúc bấy giờ.

Trên cơ sở nhận thức nêu trên, việc nghiên cứu vùng đất Nam Bộ dưới thời các chúa Nguyễn trong hai thế kỷ XVII và XVIII là việc làm cần thiết, mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn.

Sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi (năm1428), Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng đế tại Đông Kinh, khôi phục lại tên nước Đại Việt, khai sáng ra triều đại nhà Lê (thường gọi là Lê sơ hay Hậu Lê để phân biệt với thời Tiền Lê thế kỷ X). Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ chia cả nước làm năm đạo, gồm bốn đạo cũ (Đông, Tây, Nam, Bắc) và thêm đạo Hải Tây (từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa). Tuyên Quang thuộc Tây Đạo. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, đất Tuyên Quang ở thời điểm này có vị trí “Đông và Bắc giáp Cao, Lạng. Tây và Nam giáp Sơn, Hưng; có 1 lộ phủ, 1 thuộc huyện và 5 châu, 282 xã”.

Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), Lê Thánh Tông chia cả nước làm 12 đạo Thừa tuyên. Tuyên Quang trở thành một đạo Thừa tuyên gồm 1 phủ, 2 huyện, 5 châu. Một số đơn vị trung gian như trấn, lộ bị bãi bỏ để đơn giản bớt hệ thống tổ chức chính quyền, đồng thời tăng cường thêm quyền chi phối của chính quyền Trung ương. Năm Hồng Đức thứ 21 (1490), Lê Thánh Tông chia cả nước thành 13 xứ và phủ Phụng Thiên. Thừa tuyên Tuyên Quang đổi thành xứ Tuyên Quang. Tháng 5 năm Hồng Đức thứ 27 (1496), Lê Thánh Tông hạ chiếu tuyển chức quan ở Hiến sát sứ ty và chức quan ở phủ, huyện, châu. Theo lời tâu của quan Ngự sử đạo Sơn Nam, triều đình cho phép các châu huyện vùng dân tộc thiểu số có thể chọn những người địa phương làm việc tại các nha môn.

Năm 1533, khi cuộc chiến tranh Lê - Mạc bắt đầu, trong hơn nửa thế kỷ nội chiến, miền đất Tuyên Quang do họ Vũ cát cứ và ít chịu ảnh hưởng của chiến tranh. Năm 1551 thời Lê Trung Tông, Vũ Văn Uyên và em là Vũ Văn Mật theo lệnh nhà Lê, mang quân phối hợp với tướng nhà Mạc mới về hàng nhà Lê là Lê Bá Ly tiến đánh Thăng Long. Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật đem quân xuống lấy các phủ Tam Đái, Bắc Hà rồi sai người đi phủ dụ dân Thái Nguyên, Lạng Sơn. Quân Lê Bá Ly tiến sát kinh thành, Mạc Tuyên Tông bỏ chạy về Kim Thành, để Mạc Kính Điển ở lại chống giữ. Năm 1557, Lê Anh Tông lên ngôi, Thái sư Trịnh Kiểm cất quân đánh Mạc, theo đường Thiên Quan ra Hưng Hóa, tới Tuyên Quang. Vũ Văn Uyên ra đón, Trịnh Kiểm rất mừng, cho ông trấn giữ Đại Đồng. Vì có nhiều công giúp vua Lê, ông được ban quyền thế tập trấn giữ Tuyên Quang.

Vũ Văn Uyên chết không có con nối nghiệp, em là Vũ Văn Mật nối quyền, xưng là Gia quốc công. Vũ Văn Mật xây thành đắp lũy trên gò Bầu. Từ đó nhân dân thường gọi ông là “Chúa Bầu” hoặc “Vua Bầu”. Các đời sau hùng cứ một vùng ở thành Bầu đều được gọi chung là chúa Bầu. Các thành mà ông xây dựng như thành Nghị Lang ở Lương Sơn - Lục Yên; thành Cát Tường ở Khánh Vân - Lục Yên; thành Bắc Pha ở xã Đà Dương - Lục Yên; thành Bình Ca ở Hàm Yên (nay thuộc xã An Khang, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang); thành Việt Tĩnh ở Diên Gia - Châu Thu (Lục Yên, Yên Bình - trước đây thuộc tỉnh Tuyên Quang, nay thuộc tỉnh Yên Bái) về sau đều được gọi chung là thành nhà Bầu.

Sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn ghi, quân của Vũ Văn Mật đóng làm 11 doanh: “Huyện Phù Yên có doanh Phù Yên; châu Thu Vật có doanh Yên Thắng; châu Lục Yên có doanh An Bắc; châu Vị Xuyên (trước kia thuộc tỉnh Tuyên Quang, nay thuộc tỉnh Hà Giang) có các doanh Bình Di, Bình Man, Trần Uy, Yên Biên, Nam Đương; châu Đại Man (sau đổi là huyện Chiêm Hóa) có doanh Nghi; châu Bảo Lạc (xưa kia thuộc tỉnh Tuyên Quang, nay thuộc 2 huyện Bảo Lạc và Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng) có doanh Bắc Kiệm và Trung Mang”. Vũ Văn Mật lấy Đại Đồng (Tuyên Quang) làm trung tâm xây thành đắp lũy, chiêu tập những người lưu vong trở về xây dựng Đại Đồng thành một nơi trù mật, đông đúc. Lê Anh Tông sai ông cùng các tướng trấn nơi khác sửa đường sá từ Thiên Quang tới Hưng Hóa, Tuyên Quang để vận tải lương tiến công quân Mạc. Khi Vũ Văn Mật chết, con là Vũ Công Kỷ nối nghiệp cha, được phong Nhân quốc công. Năm 1573, Trịnh Tùng cầm quyền ở Nam triều, nhà Hậu Lê lấy Thái phó Vũ Công Kỷ làm hữu tướng. Cùng năm đó, ông được sai đem quân bản bộ về giữ Đại Đồng để yên dân địa phương. Vũ Công Kỷ đã từng nhiều lần cầm quân đánh Mạc và lập công lớn.

Cùng với tình hình chính trị, việc phát triển kinh tế cũng được các triều đại phong kiến quan tâm phát triển. Tuyên Quang là tỉnh có nhiều tài nguyên, sản vật, rất thuận tiện cho việc canh tác nông nghiệp và phát triển nghề khai mỏ. Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí và Quốc dụng chí cũng chép về một số vùng đất có hầm mỏ bấy giờ, trong đó có Tuyên Quang: xứ Hưng Hóa sản xuất ra bạc, đồng, thiếc; xứ Tuyên Quang: châu Bảo Lạc sản xuất ra vàng, bạc, sắt, thiếc; châu Lục Yên thì sản xuất ra chì, đồng, diêm tiêu... Nhờ sự phát triển của nghề khai mỏ ở Tuyên Quang nói riêng và các châu miền núi phía Bắc nói chung mà năm 1450, nhà Lê đã giải quyết được nạn thiếu tiền đồng vào buổi đầu thời Lê sơ (vì thời nhà Hồ và thời Minh đô hộ chỉ dùng tiền giấy, sau cuộc kháng chiến chống Minh số tiền đồng “trăm phần chỉ còn độ một”). Trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi có ghi sản vật của Tuyên Quang thời đó ngoài các khoáng sản còn có dầu, nến, trầm hương, răng voi, áo cỏ. Đặc biệt nghề dệt khá phát triển ở vùng này: “người Thổ dệt vải vàng ánh, thêu xanh, trông rất đẹp”.

Thế kỷ XVI, XVII và đầu XVIII có nhiều mỏ được khai thác, Tuyên Quang có nguồn lợi về mỏ là mỏ đồng (Tụ Long). Có hai hình thức khai mỏ: một là do Nhà nước bỏ vốn khai thác; hai là cho tư nhân đứng ra khai thác. Những mỏ do tư nhân đứng ra khai thác lại chia thành ba nhóm: Chủ mỏ người dân tộc, chủ yếu là các tù trưởng, họ thường huy động nhân công là những người sống trong các vùng mình cai quản và khai thác bằng một kỹ thuật thấp kém và phương thức đơn giản; một số chủ mỏ là người Việt, họ là những quan chức ở miền xuôi nhận với triều đình xin thầu và thuê người Việt lên khai thác; chủ mỏ là người Hoa thường đưa nhân công từ Trung Quốc sang, sản phẩm thu được một phần nộp cho Nhà nước Lê - Trịnh, còn lại chở về Trung Quốc.

Từ nửa sau thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, tình hình chính trị tạm thời ổn định, Nhà nước có điều kiện quan tâm thích đáng và đầu tư vào công cuộc khai thác. Sự phát triển của kinh tế hàng hóa cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển của nghề khai mỏ, đặc biệt ở giai đoạn thế kỷ XVIII. Nhà nước bắt đầu quản lý chặt chẽ các trường mỏ từ khâu khai thác, sản xuất, vận chuyển, mua bán... Chế độ quản giám bắt đầu được thực hiện từ năm 1760. Thành phần của quản giám thuộc ba tầng lớp: Các vương hầu, quý tộc; các quan lại trong triều đình tự nguyện xin làm; các thổ tù quan lại địa phương có các mỏ khoáng sản (theo Lịch sử Việt Nam của Viện Sử học).

Năm 1728, bằng việc đấu tranh ngoại giao kết hợp với quân sự, triều đình Lê Trịnh đã đòi lại được mỏ đồng Tụ Long ở vùng Tuyên Quang bị nhà Thanh chiếm vào những năm cuối của thế kỷ XVII. Đây là mỏ đồng quý có trữ lượng lớn nhất ở thời bấy giờ. Sau một thời gian bị đình trệ, khoảng từ năm 1756 trở đi, ngành khai thác mỏ được phục hồi. Năm 1757, biên thú châu Vị Xuyên là Hoàng Văn Kỳ xin khai lại mỏ đồng Tụ Long. Chúa Trịnh cử thêm quan giám đương ở Hộ phiên và quan lưu thủ Tuyên Quang cùng trông nom việc khai thác ở đây. Mức thuê Nhà nước quy định cho mỏ đồng Tụ Long là 1 vạn cân mỗi năm (theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn). Đây là mức thuế cao nhất cho trường mỏ có trữ lượng và năng suất lớn nhất ở nước ta thời đó.

Mối lợi tự nhiên của các loại mỏ khoáng sản đã đóng góp một phần không nhỏ cho nền tài chính quốc gia ở thế kỷ XVII, XVIII. Phan Huy Chú đã từng nhận xét về điều này: “Mối lợi về hầm mỏ phần nhiều là các xứ Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Các mỏ vàng, bạc, đồng, thiếc, đáng giá không biết bao nhiêu của. Việc chi dùng của Nhà nước sở dĩ được dồi dào là do ở thuế các mỏ nộp đầy đủ...” (theo Lịch triều hiến chương loại chí, Quốc dụng chí của Phan Huy Chú). 

Trong đời sống xã hội, từ thế kỷ XVI đến XVIII trong khi Nho giáo không còn giữ địa vị thống trị như trước nữa thì Phật giáo lại có điều kiện phát triển. Nhiều chùa mới được xây dựng, có không ít chùa là do hoàng thân, hoàng tộc họ Lê - Trịnh và các quan lại các cấp góp tiền của. Tuyên Quang thời kỳ này cũng có một số ngôi chùa được xây dựng như chùa Hương Nghiêm (hay còn gọi là chùa Hang) ở dưới chân núi Hương Nghiêm, thuộc xóm Phúc Thọ ở xã An Khang, thành phố Tuyên Quang; chùa An Vinh có tên chữ là “An Vinh thiền tự” thuộc phường Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang. Trong lĩnh vực khoa cử, tại Tuyên Quang thời Lê Thánh Tông (thế kỷ XV) có ông Tạ Thông thôn Yên Hưng, xã Yên Hưng, huyện Sùng Yên (nay là Hàm Yên) nổi tiếng thần đồng, thi đình đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6 (1475), làm quan đến chức Đô Ngự sử (Đô Ngự sử là Trưởng quan của Ngự sử đài, đây là chức rất trọng. Ngự sử đài là cơ quan có chức năng giám sát trăm quan và các địa phương).  

Xuyên suốt dòng chảy của lịch sử dân tộc, giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII là một giai đoạn có nhiều biến động. Bởi, sau một giai đoạn phát triển thịnh vượng, các triều đại phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong với sự mâu thuẫn xuất phát từ trong bộ máy triều đình. Tuy nhiên, vượt qua sự khủng hoảng về chính trị thì tình hình kinh tế- xã hội vẫn có sự phát triển nhất định. Và xã hội của Tuyên Quang cũng không nằm ngoài sự biến động đó.

Nguyễn Văn Đức

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- Địa chí Tuyên Quang, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2014.

2- Kỷ yếu Hội thảo khoa học Xác định thời điểm  thành lập tỉnh Tuyên Quang, Nxb khoa học xã hội, năm 2012.