Tốc độ tăng trưởng gdp trung bình việt nam năm 2024

[KTSG] – Tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2010-2022 là 6,1%. Tuy nhiên, giai đoạn này cần chia ra trước và sau đại dịch Covid-19. Tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2010-2019 là 6,6%; giai đoạn 2019-2022 là 4,4%. Cần lưu ý rằng tăng trưởng GDP năm 2022 so với năm 2021 cao tới 8,02% do hai năm 2020 và 2021 tăng trưởng GDP rất thấp, tương ứng 2,9% và 2,6%.

  • Bảo đảm cung cấp đủ năng lượng đáp ứng mức tăng trưởng GDP 7%/năm
  • Tăng tiêu dùng thấp hơn tăng GDP
    Đồ họa: Thu Trang

Trong hai năm 2020 và 2021, nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn giữ được mức tăng trưởng giá trị tăng thêm [3% và 3,1%] bằng hoặc cao hơn mức tăng trưởng giá trị tăng thêm bình quân giai đoạn 2010-2019 [3%]. Tăng trưởng giá trị tăng thêm của nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong hai năm 2020 và 2021 giảm rất sâu, tương ứng là 5% và 6%, trong khi tăng trưởng giá trị tăng thêm bình quân của nhóm ngành này giai đoạn 2010-2019 là 9,7%.

Hầu hết các ngành dịch vụ có tăng trưởng giá trị tăng thêm giảm trong hai năm 2020 và 2021, như vận tải kho bãi [giảm 3,1%], dịch vụ ăn uống, lưu trú [giảm 20%], hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ [giảm 15,4%]; nghệ thuật, vui chơi giải trí [giảm 9%]; hoạt động dịch vụ khác [giảm 9,4%]. Tuy nhiên, trong bối cảnh ảm đạm chung thì hoạt động y tế và trợ giúp xã hội lại có mức tăng trưởng thần kỳ, với năm 2020 tăng trưởng của ngành này là 10,4% và bùng nổ vào năm 2021, tăng tới 41%.

Tăng trưởng của nhóm ngành này từ sự tăng lên bất thường của hai nguồn, nguồn ngân sách [tiêm chủng Covid-19 miễn phí cho toàn dân] và tiêu dùng của dân cư qua việc bắt buộc phải “chọc, ngoáy mũi” làm xét nghiệm Covid-19 với giá cao. Trong trường hợp này phải chăng tham nhũng [như những gì đã diễn ra trong vụ án Việt Á] và cách phòng, chống dịch thiếu khoa học cũng tạo ra tăng trưởng GDP? Nhân dân không cần tăng trưởng kiểu này!

GDP năm 2022 tăng 8,02% [quí 1 tăng 5,05%; quí 2 tăng 7,83%; quí 3 tăng 13,71%; quí 4 tăng 5,92%] so với năm trước do nền kinh tế được khôi phục trở lại và cơ bản do nền so sánh của năm trước thấp, đặc biệt là nhóm ngành dịch vụ. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn tăng như trước và trong dịch Covid-19 [3,36%]; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,78% – thấp hơn mức tăng trưởng GDP chung; chỉ có khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng 10% – cao hơn mức tăng trưởng GDP chung do năm trước những ngành này tăng trưởng âm khá sâu.

Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội sáu tháng đầu năm 2023 cho thấy GDP sáu tháng đầu năm 2023 tăng 3,72%, chỉ cao hơn tốc độ tăng 1,74% của sáu tháng đầu năm 2020 tính trong giai đoạn 2011-2023. Xét về sử dụng GDP sáu tháng đầu năm 2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 2,68% so với cùng kỳ năm 2022; tích lũy tài sản tăng 1,15%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 10%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 13,2%. Tuy xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đều giảm so với cùng kỳ năm trước, nhưng chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ rất cao – khoảng 10 tỉ đô la Mỹ theo giá hiện hành và đóng góp vào tăng trưởng đến 63,45%. Chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa cao là do xuất siêu của khu vực FDI quá lớn [khoảng 21 tỉ đô la Mỹ], trong khi đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu hàng hóa [khoảng 9 tỉ đô la Mỹ].

Có thể thấy, từ năm 2010 đến nay, tỷ lệ khu vực FDI chuyển tiền về nước một cách hợp pháp so với tổng giá trị tăng thêm [GVA] khu vực này tạo ra ngày càng tăng, năm 2022 tỷ lệ này ước tính khoảng 31%. Có thể thấy, lợi nhuận khu vực FDI tạo ra phần lớn được chuyển về nước họ.

Chú ý rằng về nguồn lực của nền kinh tế, theo Hệ thống các tài khoản quốc gia [System of National Accounts – SNA] của Liên hiệp quốc thì nguồn lực cơ bản để đầu tư là tiết kiệm [saving] của nền kinh tế, tiết kiệm cộng chuyển nhượng vốn thuần nếu không đủ phải đi vay để đầu tư. Trong một số trường hợp như đào bới, sới lộn đường sá vào mỗi dịp cuối năm [từ hàng chục năm nay nhằm mục đích giải ngân trong năm], xây tượng đài, cổng chào, đầu tư xây dựng cơ bản bị đội vốn… và phụ thuộc vào FDI đều làm tăng GDP [theo nguyên tắc tính GDP] nhưng lại làm giảm khả năng tiết kiệm của nền kinh tế khiến tăng trưởng GDP có khi lại làm nguồn lực của nền kinh tế giảm sút.

Theo SNA, chỉ tiêu tiết kiệm được xác định = GDP + Thuần thu nhập về sở hữu + Thuần thu nhập từ chuyển nhượng – Tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình – Tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ. Tiết kiệm cũng là nguồn đầu tư cho chu kỳ sản xuất sau. Cũng theo SNA: Đầu tư = Tiết kiệm + Chuyển nhượng vốn thuần + Đi vay/cho vay. Công thức trên và bảng bên dưới cho thấy mức độ chênh lệch giữa tiết kiệm, đầu tư và tích lũy ngày càng lớn. Điều này xảy ra do đầu tư không hiệu quả.

Tính đến tháng 2 năm 2023, Ngân hàng Thế giới đã cung cấp nguồn tài chính lên tới 25,16 tỷ USD bao gồm viện trợ không hoàn lại, vốn tín dụng, và vốn vay ưu đãi cho Việt Nam thông qua 219 dự án kể từ năm 1993. Danh mục hiện nay của Việt Nam gồm 22 dự án IDA/IBRD đang triển khai, với tổng mức cam kết ròng lên đến 4,33 tỷ USD. Ngoài ra, Việt Nam còn thực hiện một danh sách nhiều các hoạt động hỗ trợ phân tích và tư vấn [ASA] đa dạng, với 17 nghiên cứu hiện đang được triển khai, huy động hỗ trợ từ các đối tác và các quỹ tín thác của các đối tác phát triển.

COVID-19

Kể từ khi ca lây nhiễm COVID-19 được ghi nhận tại Việt Nam vào đầu năm 2020, Nhóm Ngân hàng Thế giới đã đồng hành cùng Việt Nam xây dựng chiến lược ứng phó quốc gia từ quản lý khủng hoảng y tế đến thúc đẩy phục hồi kinh tế bền vững. Khoản tài trợ từ Quỹ Tài trợ Khẩn cấp Đại dịch đã giúp tăng cường năng lực xét nghiệm cho 84 phòng thí nghiệm trên toàn quốc, cắt giảm thời gian từ lúc lấy mẫu xét nghiệm đến khi công bố kết quả từ 24-48 giờ xuống còn 4-6 giờ. Dựa trên kinh nghiệm ở nhiều quốc gia, Ngân hàng Thế giới đã đưa ra các chuyên đề tư vấn chính sách đa ngành từ chiến lược bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương khỏi tác động tiêu cực của COVID-19 đến thúc đẩy phục hồi trên diện rộng. Trong đại dịch COVID-19, Ngân hàng Thế giới đã thực hiện bảy khảo sát tần suất cao theo dõi tình hình hộ gia đình và doanh nghiệp.

Năng lượng sạch

Dự án Phát triển Năng lượng Tái tạo ở Việt Nam hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển năng lượng tái tạo quy mô lớn, góp phần tăng tỉ trọng năng lượng tái tạo lên gần 10% trong tổng công suất phát điện của Việt Nam. Dự án đã cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và vốn đầu tư ban đầu để xây dựng năng lực và chính sách khuyến khích cần thiết cho tất cả các bên liên quan, tạo tiền đề cho phát triển năng lượng tái tạo quy mô lớn. Ngoài ra, 19 công trình thủy điện nhỏ đã được xây dựng với tổng công suất 320 MW, hàng năm cung cấp lượng điện lên đến 1.260GWh. Tất cả các công trình này đều tuân thủ thông lệ toàn cầu tốt nhất về xã hội và môi trường trên, đặt ra những chuẩn mực mới tại Việt Nam.

Môi trường và các nguồn Tài nguyên thiên nhiên

Dự án Chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững Đồng bằng sông Cửu Long, khởi động từ năm 2016, đã hỗ trợ hơn một triệu nông dân trong vùng chuyển đổi sinh kế thích ứng với khí hậu và tiết kiệm tài nguyên hơn. Dự án đã tận dụng mạng lưới các nhà khoa học rộng khắp cùng với nông dân phát triển các mô hình sản xuất có thể giúp giải quyết những thách thức về sinh thái nông nghiệp và kinh tế xã hội đặc thù từng vùng, đồng thời nhân rộng các mô hình này. Dự án cũng hỗ trợ xây dựng mạng lưới cơ sở hạ tầng thuận lợi đồng thời tăng cường hợp tác, điều phối vùng để quản lý nguồn tài nguyên nước và đất.

Với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đã luật hóa việc thành lập thị trường carbon có hiệu lực từ tháng 1 năm 2022. Chương trình Quan hệ đối tác Xây dựng Thị trường Carbon [2016 – 2021] góp phần đặt nền tảng pháp lý và xây dựng năng lực cho Chính phủ Việt Nam để có thể sử dụng công cụ thị trường này. Chương trình cũng hỗ trợ chính phủ trong việc đánh giá các lỗ hổng về thể chế, chính sách và kỹ thuật định giá carbon đồng thời xây dựng quy trình định giá carbon bao gồm các bước thu thập dữ liệu, đo lường, báo cáo, xác minh và ghi nhận.

Quản lý nước

Dự án Cải thiện Nông nghiệp Có tưới Việt Nam, kết thúc vào năm 2021, đã góp phần hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thủy lợi ở sáu tỉnh ở miền Trung và miền núi phía Bắc. Dự án đã hỗ trợ tổng diện tích gần 95.000 ha, giúp gần 252.000 hộ nông dân áp dụng các hình thức nông nghiệp dựa trên khí hậu. Những cách làm này đã giúp nông dân giảm đầu vào sản xuất, tiết kiệm nước và tăng sản lượng trên một ha lên gần sáu lần mỗi vụ. Ước tính các biện pháp canh tác do dự án hỗ trợ đã giúp giảm 4,3–4,4 tấn CO2 mỗi ha mỗi năm. Nhiều bài học kinh nghiệm từ dự án hiện đang được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhân rộng.

Dự án Sửa chữa và Nâng cao An toàn Đập khởi động từ năm 2016 hỗ trợ thực hiện chương trình an toàn đập quốc gia của Chính phủ. Dự án này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước và ngăn ngừa tình trạng vỡ đập ở các khu vực hạ lưu. Tính đến nay dự án đã cải thiện tình trạng của 438 đập đa mục tiêu trong tổng số 477 đập được dự án hỗ trợ, bảo vệ khoảng 4,3 triệu người ở các cộng đồng hạ lưu. Công tác quản lý an toàn đập đã được hiện đại hóa với việc sử dụng công nghệ gắn thẻ địa lý và các hướng dẫn, thủ tục theo hướng kiểm tra và báo cáo an toàn đập.

Phát triển đô thị và quản lý rủi ro thiên tai

Dự án Phục hồi Khẩn cấp sau Thiên tai đã hỗ trợ bốn tỉnh bị ảnh hưởng bởi thiên tai phục hồi cơ sở hạ tầng và tăng cường năng lực của chính phủ để ứng phó với các rủi ro thiên tai trong tương lai. Dự án đã cải thiện khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng về giao thông, phòng chống ngập lụt, thủy lợi và thoát nước cho gần 1,3 triệu người. Dự án cũng giải quyết những lỗ hổng về thể chế nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro thiên tai và xây dựng các kế hoạch quản lý rủi ro ngập lụt tổng hợp ở các lưu vực sông chính.

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Dự án Nước sạch và Vệ sinh Nông thôn Dựa trên Kết quả theo Chương trình Mục tiêu Quốc gia đã giúp giải quyết một trong những thách thức lớn nhất ở nông thôn Việt Nam qua đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cải thiện khung pháp lý để nâng cao tiếp cận dịch vụ cấp nước và vệ sinh bền vững. Từ năm 2013 đến 2019, hơn 1 triệu người đã được tiếp cận hệ thống nước bền vững thông qua 400.000 điểm kết nối cấp nước mới. Bên cạnh đó, khoảng 1,4 triệu người ở 203 xã được tiếp cận với vệ sinh toàn xã. 142.000 hộ gia đình và 1.500 trường học được lắp đặt vệ sinh cải tiến. Chương trình cũng tăng cường đáng kể các cơ chế giám sát nước sạch và vệ sinh và quy trình đánh giá của các cơ quan thực hiện ở các tỉnh có dự án.

Dự án Chuyển đổi Bền vững Nông nghiệp Việt Nam đã hỗ trợ khoảng một triệu nông dân ở Đồng bằng sông Mekong và vùng Tây Nguyên. Thông qua áp dụng các thực hành nông nghiệp tốt [GAP], những người hưởng lợi từ dự án đã cải thiện hiệu quả canh tác, tăng thu nhập, giảm ô nhiễm môi trường và phát thải khí nhà kính trong sản xuất lúa và cà phê. Tính đến thời điểm kết thúc dự án, hơn 220.000 hộ nông dân đã áp dụng GAP trên 255.000 ha đất canh tác, lợi nhuận canh tác tăng hơn 20%, giảm 1,5 triệu tấn phát thải CO2e từ trồng lúa mỗi năm.

Vốn Nhân lực

Giáo dục

Chương trình Nâng cao Năng lực Giáo viên mới hoàn thành đã cải thiện chất lượng dạy và học thông qua triển khai các khóa đào tạo liên tục nhằm nâng cao năng lực chuyên môn qua hình thức trực tuyến cho hơn 530.000 giáo viên và hiệu trưởng các trường phổ thông. Đồng thời, Dự án Nâng cao Chất lượng Giáo dục Học sinh Khiếm thính đã hỗ trợ xây dựng tài liệu Việt ngữ ký hiệu cho giáo dục tiểu học, góp phần cải thiện đáng kể số lượng đăng ký và kết quả học tập của học sinh khiếm thính.

Ngân hàng Thế giới cũng tư vấn chiến lược cho Việt Nam để chuẩn bị lực lượng lao động cho các công việc trong tương lai, thông qua các chương trình đầu tư lớn cho các trường đại học và thông qua các hoạt động tư vấn và phân tích về phát triển kỹ năng cho Việt Nam. Cụ thể, Dự án Nâng cao Chất lượng Giáo dục Đại học đã giúp nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy và quản lý tại hai trường đại học hàng đầu: Đại học Nông nghiệp và Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội. Tính đến ngày 11 tháng 11, gần nửa triệu sinh viên từ hai trường đại học này và Đại học Kinh tế Quốc dân đã được hưởng lợi từ các hoạt động của dự án thông qua cải thiện trải nghiệm học tập, đồng thời 18 chương trình đào tạo đã được cấp chứng nhận quốc tế.

Y tế

Ngân hàng Thế giới đồng hành cùng các nỗ lực của Việt Nam đảm bảo mọi người dân đều được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng, với chi phí hợp lý. Tại các tỉnh miền Bắc, 13,7 triệu người dân - nhiều người trong số họ đến từ các vùng sâu vùng xa - được tiếp cận tốt hơn với dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng. Dự án Hỗ trợ hệ thống y tế khu vực Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng đã nâng cao năng lực điều trị cho 74 bệnh viện công lập tuyến huyện và tỉnh thông qua việc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và đào tạo nâng cao tay nghề cho các y, bác sĩ. Các can thiệp chính về tim mạch, sản/phụ khoa, nhi khoa, ung thư và chấn thương hiện đã có sẵn tại các bệnh viện này, giúp bệnh nhân không cần phải đi tới các bệnh viện xa nhà. Ngân hàng Thế giới cũng đang hỗ trợ chính phủ trong việc cải thiện tài chính y tế, từ đó đạt được hiệu quả và bền vững về mặt tài chính.

Giảm Nghèo

Việt Nam đã có những bước tiến lớn về giảm nghèo và cải thiện chất lượng sống cho hàng triệu người. Ngân hàng Thế giới đã song hành với Việt Nam trên những chặng đường cuối cùng về xóa nghèo. Tính đến năm 2020, tỉ lệ nghèo chỉ còn 3,8% tính theo chuẩn nghèo của Ngân hàng Thế giới cho các quốc gia thu nhập trung bình thấp [3,65 USD/ngày, theo PPP năm 2017].

GDP tăng bao nhiêu phần trăm?

GDP năm 2022 ước tăng 8,02%, lập kỷ lục trong hơn 10 năm qua. [Chinhphu.vn] Thông tin mới nhất từ Tổng cục Thống kê cho biết GDP quý IV/2022 ước tăng 5,92% so với cùng kỳ năm 2021; cả năm ước tăng 8,02%, cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022. Năm 2022, tăng trưởng GDP ước đạt 8,02% với nhiều điểm sáng.

Việt Nam giàu thứ mấy thế giới 2023?

Hiện nằm ở vị trí 34 [năm 2023], Việt Nam sẽ lên một hạng, 33 [2024], và tiếp tục lên nhanh, đạt thứ tự 24 sau một thập niên nữa [2033] để trở thành nền kinh tế thứ 21 thế giới vào năm 2038.

GDP của Việt Nam 2023 là bao nhiêu?

Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2023 ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022.

6% GDP Việt Nam là bao nhiêu?

Theo Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021: Việt Nam phấn đấu GDP tăng khoảng 6%. GDP bình quân đầu người khoảng 3.700 USD.

Chủ Đề