Tóm tắt truyện cá heo cá nóc
MỞ ĐẦU Cá Nóc đã đƣợc biết đến từ lâu là sinh vật chứa độc tố thần kinh cực độc có khả năng gây ngộ độc cấp tính cho ngƣời và gia súc. Vấn đề ngộ độc cá Nóc là nguyên nhân gây tử vong với tỷ lệ cao ở nhiều nƣớc trên thế giới, nhất là các nƣớc châu Á nhƣ Nhật Bản, Thái Lan, Phi-lip-pin, Trung Quốc,…và có cả Việt Nam. Ở nƣớc ta, mặc dù đã có rất nhiều các cơ quan chức năng cảnh báo về nguy cơ ngộ độc thực phẩm từ cá Nóc, Chính phủ đã có lệnh cấm chế biến và tiêu thụ cá Nóc dƣới mọi hình thức song những năm qua ở nhiều địa phƣơng, vẫn tồn tại việc khai thác và buôn bán cá Nóc, hàng loạt các vụ ngộ độc do tiêu thụ các sản phẩm chế biến từ cá Nóc vẫn tiếp tục xảy ra, đặc biệt là các vùng dân cƣ ven biển. Thậm chí ngay cả những vùng miền núi xa xôi nhƣ Tây Nguyên hoặc ngay tại thủ đô Hà Nội cũng xẩy ra nhiều trƣờng hợp tử vong do ngộ độc cá Nóc. Việc nghiên cứu về độc tố có trong cá Nóc đã đƣợc bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XIX. Đến năm 1906, Tahara lần đầu tiên đã tách chiết đƣợc độc tố thô từ cá Nóc, và đặt tên là tetrodotoxin (TTX). Những thập niên cuối của thế kỷ XX, nhiều nhà khoa học trên thế giới, đặc biệt là các nhà khoa học Nhật Bản đã có nhiều công trình nghiên cứu về TTX, đặc biệt là các nghiên cứu về tính chất lý, hóa học, tác dụng dƣợc học và một số ứng dụng của độc tố này trong y dƣợc học cũng nhƣ việc ngăn ngừa và điều trị các trƣờng hợp ngộ độc do ăn cá Nóc. Các tác giả ở Việt Nam cũng đã có các công trình nghiên cứu về độc tính, tách chiết độc tố TTX và tác dụng dƣợc lý của TTX. Biển Việt Nam rất đa dạng về thành phần loài cá Nóc, trong đó số loài cá Nóc chứa độc tố cao cũng chiếm tỷ lệ rất lớn và mức độ biến động độc tính giữa các loài cá Nóc cũng rất khác nhau. Do vậy, việc nghiên cứu về độc tính, sự biến động độc tính và thành phần độc tố trong các loài cá Nóc không chỉ có ý nghĩa góp phần nghiên cứu về đặc tính sinh hóa và dƣợc học của độc tố này mà còn có ý nghĩa về bảo vệ sức khỏe và an toàn cho cộng đồng. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu độc tố trong một số loài cá Nóc độc ở biển Việt Nam”.
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. ĐẠI CƢƠNG VỀ CÁ NÓC Tên gọi cá Nóc có nguồn gốc từ tập tính và hình dạng của cá Nóc. Tiếng Anh có tên sau: Pufferfish, Blowfish, Swellfish (cá phình), Globefish; Tiếng Pháp: Poison – globe ; Tiếng Đức: Kugel fish (cá hình cầu) ; Tiếng Nhật: Fugu fish ; Tiếng Hàn Quốc: Bog-Eo (cá bầu) ; Tiếng Philippin: Botete fish (cá béo). [7] Bộ cá Nóc (danh pháp khoa học: Tetraodontiformes, còn gọi là Plectognathi) là một bộ cá thuộc phân lớp cá vây tia (Actinopterygii). Đôi khi nhóm cá này đƣợc phân loại nhƣ là một phân bộ của bộ cá vƣợc (Perciformes). Tuy nhiên, trong cây phân loại thông dụng hiện nay, bộ cá Nóc thuộc: Ngành động vật có xƣơng sống (Vertebrata) Phân ngành có sọ (Craniata) Lớp cá xƣơng (Osteichthyes) Phân lớp cá vây tia (Actinopterygii) Liên bộ cá vƣợc (Percomorpha) Bộ cá Nóc (Tetraodontiformes) [40] 1.1.1. Đặc điểm chung của bộ cá Nóc Cá Nóc gồm những loài cá sống chủ yếu ở những vùng biển nhiệt đới, có đặc điểm chung là thân ngắn, vây nhỏ, xƣơng hàm và xƣơng gần hàm gắn liền với nhau thành mỏ cứng thích nghi với tập tính bắt mồi: cắn dập vỏ động vật thân mềm và giáp xác. Về tổng thể, bộ Tetraodontiformes chứa 11 họ còn sinh tồn với khoảng 360 loài và khoảng 9 họ đã tuyệt chủng. Phần lớn các loài là cá nƣớc mặn, nhƣng có vài loài là cá nƣớc ngọt. Cá Nóc nƣớc ngọt và nƣớc lợ có ở Ấn Độ, Đông Nam Á, New Guinea, Australia và Châu Phi. Chúng không có các họ hàng gần và là hậu duệ của dòng dõi các loài sinh sống ven san hô đã xuất hiện khoảng 40 triệu năm trƣớc. Xét về mặt sinh thái học, các loài thuộc họ cá Nóc hòm (Ostraciontidae), cá Nóc (Tetraodontidae), cá Nóc nhím (Diodontidae) thuộc về nhóm cá rạn san hô,
phân bố rộng rãi dọc bờ biển và các quần đảo ngoài khơi (Hoàng Sa, Trƣờng Sa). Một số loài cá có hình dạng rất đặc biệt và mức độ phát triển không bình thƣờng, có cách bơi riêng. Cá Nóc hòm có thân ẩn trong giáp cứng, di chuyển nhờ vây đuôi, cá Nóc nhím có thể tùy lúc nuốt không khí vào ruột và ngửa bụng trôi ở mặt nƣớc. [4, 11, 39] Fish base (2003) đã công bố thành phần loài, đặc điểm sinh học, nơi phân bố của 185 loài cá Nóc trên thế giới. Chúng sống trong môi trƣờng nƣớc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của Thái Bình Dƣơng, Ấn Độ Dƣơng và Đại Tây Dƣơng. Có 55 loài sinh sống ở vùng biển Nhật Bản, 66 loài sinh sống ở vùng biển Việt Nam. [11, 39, 41] Cho tới nay, có nhiều tài liệu cho rằng cá Nóc tập trung khá nhiều ở vùng biển có rạn san hô. Trong công trình nghiên cứu của J.E.Randall, G.R.Allen, R.C. Steere đã mô tả 29 loài cá Nóc sống ở rạn san hô thuộc vùng biển Australia, Tây nam Thái Bình Dƣơng và Ấn Độ Dƣơng. Năm 1977, R.H.Carcasson đã mô tả 53 loài cá Nóc rạn san hô vùng biển Ấn Độ Dƣơng và Tây Thái Bình Dƣơng. Ngoài ra còn khá nhiều loài chứa độc (A.Aleen và R.C.Steene 1998).[9, 17] Ngày nay có rất nhiều loài phân bố chủ yếu ở vùng biển ấm, ở vùng biển Đông Trung Quốc, là vùng phân bố trọng tâm của nhiều loài cá Nóc hiếm hiện nay, nhƣ 19 trong 21 loài cá Nóc hổ có ở vùng biển này [19]. Theo thống kê số liệu của Nguyễn Văn Lệ (2005), trên thế giới có khoảng 246 loài cá Nóc bao gồm cả cá Nóc nƣớc mặn và nƣớc ngọt, ở Việt Nam có khoảng 60 loài cá Nóc nhƣng mới bắt gặp, thống kê đƣợc 49 loài, thu thập, mô tả, nhận dạng đƣợc 37 loài cá Nóc nƣớc mặn [9]. 1.1.2. Đặc điểm về hình dạng cá Nóc [9, 12] - Hình thể: cá Nóc có hình dạng đặc biệt. Mình cá hình tròn, dài có màu sắc khác nhau hoặc có các chấm màu đen trên thân, không có vẩy, vây nhỏ và mồm nhỏ. Kích thƣớc trung bình 15 - 35cm, có loài nhỏ hơn và có loài lớn tới 150 cm. - Mồm và răng: mồm tuy nhỏ nhƣng răng rất khỏe. Hàm trên có hai răng, hàm dƣới có hai răng. Răng rất sắc có màu trắng, màu đỏ hoặc màu khác.
- Vây cá: Không có vây bụng, đây là đặc điểm quan trọng để nhận biết cá Nóc với cá khác. Cá Nóc có hai vây ngực, một vây lƣng, một vây hậu môn và một vây đuôi (5 vây). - Vẩy cá: Cá Nóc không có vẩy. Một số có nhiều gai do vẩy cá tiến hóa thành. Một số loài có các tấm vẩy hình lục giác liên kết với nhau tạo thành lớp giáp cứng có 4 gờ dạng hình hộp. - Xƣơng cá: xƣơng cá Nóc có đặc trƣng rõ rệt, cá Nóc không có xƣơng sƣờn và các xƣơng dăm ở phần thịt nhƣ các loài cá khác. - Dạ dày: dạ dày có thể co dãn, hút đƣợc nhiều nƣớc và không khí để phồng lên. - Mắt cá Nóc: một mắt có thể nhắm lại đƣợc. 1.1.3. Khái quát chung về cá Nóc biển Việt Nam 1.1.3.1. Đặc điểm nhận dạng các loài cá Nóc biển Việt Nam [1, 4, 9, 39] Bốn họ cá Nóc Diodontidae, Ostraciidae, Tetraodontidae, Triodontidae đều thuộc bộ cá Nóc Tetraodontiformes và chúng có đặc điểm chung nhƣ sau: Không có vây bụng; chỉ có một vây lƣng và nằm đối diện hoặc gần đối diện với vây hậu môn. Vây lƣng và vây hậu môn ngắn, nằm cách xa vây ngực và gần vây đuôi. Vây đuôi thƣờng tròn hoặc bằng hoăc lõm nông (trừ Nóc ba răng có vây đuôi chẻ sâu). Các vây đều không có gai cứng. Cơ thể không có vảy (vảy thƣờng biến thành gai lớn hoặc nhỏ, hoặc là thành lớp giáp cứng liến kết với nhau thành hình hộp). Mắt khá lớn, nằm ở hai bên đầu. Gốc các vây không phủ giáp hoặc gai. Miệng bé; xƣơng hàm trên và xƣơng hàm trƣớc dính liền nhau. Không có khe mang, mang chỉ còn là lỗ mang và có da bao bọc. Không có xƣơng sƣờn. Thịt cá Nóc trắng. Để phân biệt bốn họ cá Nóc trên thì chúng ta dùng các đặc điểm sau: - Cơ thể dạng hình hộp cứng do các tấm vảy xƣơng liên kết với nhau tạo thành một lớp giáp cứng bao quanh (trừ các gốc vây và bắp đuôi); hàm có nhiều răng nhỏ, xếp rời nhau là các loài thuộc họ cá Nóc hòm Ostraciidae - Thân có các gai cứng nhƣ lông nhím, sắc nhọn và khi cần cá có khả năng phình bụng nhƣ một quả cầu gai để tự vệ; mỗi hàm chỉ có một răng cứng dạng bản là các loài thuộc họ cá Nóc nhím Diodontidae
- Thân không thành dạng hình hộp cứng và cũng không có gai cứng dài; bụng cá kéo xuống dạng hình quạt; vây đuôi chẻ sâu; hàm dƣới chỉ có một răng cứng dạng bản là các loài thuộc họ cá Nóc ba răng Triodontidae - Thân không thành dạng hình hộp cứng và cũng không có gai cứng dài mà thƣờng chỉ có các gai nhỏ; bụng cá có khả năng phình lên nhƣ quả bóng; vây đuôi lõm nhẹ, bằng hoặc lồi; mỗi hàm đều có hai răng xếp sít nhau ở phía trƣớc miệng là các loài thuộc họ cá Nóc tròn Tetraodontidae 1.1.3.2. Thành phần loài cá Nóc thuộc vùng biển Việt Nam [4, 9] Tổng hợp các kết quả nghiên cứu từ năm 1996 đến 2005 của Viện Nghiên cứu Hải sản, đã điều tra bắt gặp 49 loài cá Nóc thuộc 18 giống nằm trong 4 họ là: cá Nóc nhím (Diodontidae), cá Nóc hòm (Ostraciidae), cá Nóc (Tetraodontidae) và cá Nóc ba răng (Triodontidae). Vùng biển đông Nam bộ phong phú nhất về số lƣợng loài cá Nóc, đã có 38 loài cá Nóc thuộc 15 giống nằm trong 3 họ cá Nóc đƣợc phát hiện ở vùng biển này. Vùng biển miền Trung cũng là nơi phân bố nhiều cá Nóc, đã bắt gặp 34 loài thuộc 18 giống nằm trong 4 họ cá Nóc; đây cũng là vùng phong phú nhất về số giống cá Nóc, tuy nhiên số loài thì ít hơn so với vùng biển đông Nam bộ. Ở vịnh Bắc bộ, chỉ bắt gặp 15 loài cá Nóc thuộc 7 giống nằm trong 3 họ; và vùng biển tây Nam bộ chỉ gặp 10 loài cá Nóc thuộc 7 giống nằm trong 3 họ. Họ cá Nóc Tetraodontidae chiếm ƣu thế về số giống và loài, trong đó giống Lagocephalus đƣợc coi là phong phú nhất về số loài, với 7 loài ở vịnh Bắc bộ và ở vùng biển miền Trung, 8 loài ở vùng biển đông Nam bộ và 5 loài ở vùng biển tây Nam bộ. Các giống khác thƣờng chỉ bắt gặp 1 đến 2 loài. Bảng 1. Thành phần loài cá Nóc ở biển Việt Nam qua số liệu điều tra từ năm 1996 đến 2005 và số liệu phân tích thành phần loài tại các bến cá năm 2004, 2005. Nóc gai thô ngắn, chấm vàng
Kentrocapros flavofasciatus Amblyrhynchotes rufopunctatus Arothron caeruleopunctatus Torquigener pallimaculatus 1.1.3.3. Trữ lượng cá Nóc ở vùng biển Việt Nam [4, 9] Trữ lƣợng cá Nóc ở biển Việt Nam ƣớc tính khoảng 37387 tấn, trong đó vùng biển miền Trung chiếm khoảng 44,6%; vùng biển đông Nam bộ chiếm 20,6%;
vùng biển tây Nam bộ chiếm 21,6% và vùng biển Vịnh Bắc bộ chiếm khoảng 14,9% tổng trữ lƣợng. Họ cá Nóc (Tetraodontidae) chiếm khoảng 84,7% tổng trữ lƣợng cá Nóc, cá Nóc Hòm và cá Nóc Nhím chỉ chiếm 4,0% và 11,3% tổng trữ lƣợng. Cá Nóc Vàng, cá Nóc thu là những loài có trữ lƣợng nhiều và chiếm ƣu thế so với các loài khác. Bảng 2: Trữ lƣợng cá Nóc (tấn) ở biển Việt Nam năm 2005 Torquigener pallimaculatus 1.2. ĐỘC TỐ CÁ NÓC Từ xa xƣa các loài cá Nóc nhƣ cá Nóc hổ và cá Nóc tím rất đƣợc ƣa thích nhƣng ngƣời ta biết rằng buồng trứng và gan của nó thƣờng có chất độc chết ngƣời.
Việc chính thức nghiên cứu độc tố cá Nóc là ở Nhật Bản, đƣợc đánh dấu bằng luận văn “Kiểm tra độc tố cá Nóc” của tiến sĩ Matsubara công bố trên “tạp chí khoa học công nghệ Đông dƣơng” năm 1883. Theo luận văn đó, ngƣời ta đã cho chó ăn buồng trứng của cá Nóc nấu chín, đã xuất hiện triệu chứng nôn mửa, khó thở rồi chết. Đồng thời cũng đã thử nghiệm, tiêm dịch của buồng trứng ngâm nƣớc vào dƣới da cũng gây ra các ngộ độc và chết nhanh chóng. Năm 1888, Osawa Kenni đã công bố trên “Tạp chí Đông Y hội” rằng chất độc của cá Nóc là thành phần có sẵn trong cá Nóc, trong buồng trứng và gan có nhiều độc tố, trong dạ dày và cơ quan nội tạng khác có ít hơn, tinh hoàn đƣợc xác định là không có độc tố. Tính chất độc tố cá Nóc đƣợc xác định là tác động nhƣ nhựa độc Cura. Nhựa độc Cura là chất độc thuộc loại alkaloit đƣợc lấy từ nhựa của vỏ và thân cây họ cây đậu tía để tẩm vào mũi tên của ngƣời da đỏ. [8, 11, 40] Năm 1909, tiến sĩ Yoshizumi Tahara đã tiến hành nghiên cứu về độc tố cá Nóc, ông đã cho thêm chì axetat {Pb(CH3COO)2} vào dịch chiết xuất ra từ nƣớc buồng trƣúng cá Nóc, cho dung dịch NH3 để làm độc tố lắng đọng xuống, sau đó tinh chế, tách chì ra, khi đó thu đƣợc chất độc thô tối đa (MLD) là 4,1mg/1kg. Tiến sĩ Yoshizumi Tahara đã đặt tên cho độc tố này là tetrodotoxin.[9, 35, 43] Năm 1964, tại “Hội nghị quốc tế về hóa học của các chất trong tự nhiên” đƣợc tổ chức tại Tokyo, nhóm nghiên cứu Ritsuda Kusuke (Đại học Tokyo), nhóm nghiên cứu Hida Yoshimasa (Đại học Nagoya), ông Mosher, ông Wood-Ward đã công bố công thức phân tử của chất độc này là: C11H17O8N3. Ngày nay ngƣời ta đã chiết xuất ra đƣợc tinh thể nguyên chất của tetrodotoxin. Ông Kishi Yoshiuto ở trƣờng Đại hoc Nagoya đã thành công trong việc tổng hợp nhân tạo chất độc này và đã công bố kết quả đó tại “Hội nghị về hóa học của các chất tự nhiên” tổ chức vào tháng 2 năm 1972 tại New Dehi (Ấn độ). Độc tố này có tác động mạnh nhất đƣợc biết từ trƣớc đến nay. Lƣợng độc tố cá Nóc gây chết ngƣời là từ 0,5-1,0 mg, và có sức tác động mạnh gấp 1000 lần chất kalicianua.[35, 38] Từ năm 1935 trở đi, các nghiên cứu khoa học về cá Nóc đƣợc tiến hành một cách tích cực hơn. Tại Nhật Bản, tiến sĩ Tanikewa đã hoàn thành “Nghiên cứu khoa
học về ngộ độc cá Nóc ở vùng biển gần Nhật Bản” (1945) và công trình này đã trở thành tài liệu cơ bản trong ngăn chặn ngộ độc cá Nóc. Những năm từ 1979 đến 1982 Ishitsuji đã thành công trong việc xác định thành phần độc tố cá Nóc. Cũng có báo cáo cho rằng, độc tố cá Nóc (tetrodotoxin) còn có ở những loài khác nhƣ cá bống tròn sinh sống ở đảo phía Nam Amami, bạch tuộc đốm ở vùng biển ấm, 4 loài Sa- giông California, 4 loài ếch ở vùng biển trung Mỹ Costarica, ốc biển, ốc xà cừ Boshu, ốc xà cừ Onaruto, sò hoa, sò đá, sò gai mai đỏ, loại cua mai tròn nhẵn. Một số tác giả khác còn nghiên cứu độc tố cá Nóc làm chất độc quân sự, thuốc kích thích thần kinh, gây mê, giảm đau và dùng trị một số bệnh tim mạch, ung thƣ. Giá của 1 ao-xơ (37g) độc tố tới 1 triệu USD, nghĩa là khoảng 27 triệu USD cho 1kg độc tố. [35, 43] Phƣơng pháp xác định định tính và định lƣợng độc tố TTX đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu và tìm ra. Trƣớc đây, ngƣời ta tiến hành thử nghiệm trên chuột để định tính và định lƣợng TTX có trong mẫu nghiên cứu. Định lƣợng TTX trên chuột đƣợc tiến hành theo phƣơng pháp của Kawabata (1978), Shiomi (1985). Gần đây, có nhiều phƣơng pháp tiên tiến hiện đại khác để định tính, định lƣợng độc tố TTX nhƣ: sắc ký bản mỏng, sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC), phƣơng pháp khối phổ (mass spectrometry), HPLC kết hợp khối phổ (LC/MS)… [7, 9, 10, 18, 45] 1.2.1. Độc tố tetrodotoxin (TTX) 1.2.1.1. Công thức cấu tạo của TTX TTX là chất có phân tử lớn, có cấu trúc đặc biệt, có liên kết nội phân tử với hemilactal và đƣợc phân loại là một hợp chất aminohydroquinazolin có khối lƣợng phân tử 319 [20, 35] Hình 1: Cấu trúc phân tử của TTX
Về cấu trúc, TTX đƣợc xây dựng trên cơ sở kết hợp những số liệu từ phân tích tia Rơngen, cộng hƣởng từ, phổ hồng ngoại và khối phổ. TTX có công thức cấu tạo là C11H17N3O8 (C=41,38%; H=5,37%; N=13,16%; O=40,09%). Có tên gọi (theo IUPAC) là: Octalhydro-12-(hydroxymetyl)-2-imino-5,9:7-10a-dimethano-10aH- [1,3] dioxocino[6,5-dipyrimidine-4,7,10,11,12-pentol, nó là một hợp chất hữu cơ dị vòng, có cấu trúc lƣỡng cực [7, 9, 20,38]. Phân tử TTX có 6 nhóm OH ở vị trí C4, C6, C8 ,C9, C10 , C11 , ở mỗi vị trí có thể gắn thêm một nhóm guanidin là nhóm trao đổi điện dƣơng trong vùng pH sinh lý. Cấu trúc của TTX thay đổi liên quan đến một hay nhiều nhóm OH-, chúng có ái lực với màng tế bào não, ở đó có chứa nhiều kênh vận chuyển ion Na+. Nghiên cứu cho thấy kênh vận chuyển ion Na+ bị đóng khi dùng TTX với nồng độ 1,8nM [28]. 1.2.1.2. Tính chất hoá lý của TTX TTX đƣợc chiết từ nội tạng của cá Nóc là tinh thể không màu, có thể hòa tan không đáng kể trong nƣớc, nhƣng hoà tan trong axit loãng, không hoà tan trong dung môi hữu cơ trung tính nhƣ axeton, vì vậy không thể dùng nƣớc để chiết [20, 35, 43]. TTX bền với nhiệt, ở nhiệt độ lớn hơn 220oC nó chuyển sang màu sẫm nhƣng vẫn không bị nóng chảy. Trong môi trƣờng axit TTX chuyển thành hợp chất axit hydroclotetrodoic C11H17O8N3HCl; trong môi trƣờng kiềm TTX chuyển thành hợp chất không no là axit anhydrotetrodoic C11H19O9N3 [43]. 1.2.1.3. Sự phân bố độc tố TTX trong các loài sinh vật [7, 9, 11, 20, 40] Độc tố tetrodotoxin đƣợc tìm thấy lần đầu tiên ở cá Nóc Nhật Bản, nhƣng nó cũng đƣợc phát hiện từ các loài động vật thuộc 4 ngành khác nhau. Độc tố TTX có nhiều nhất ở các loài cá Nóc thuộc họ Tetraodontidae, một số loài nhƣ Fugu poccilonotus, F. lavidus, F. niphobles, Arothron nigrofunctatus, Chelonodon spp và Takifugu rubripes. Ngoài ra TTX còn có ở nhiều loài sinh vật biển khác nhau nhƣ bạch tuộc tua xanh Hapoloclaena maculosa ở Úc, cá mỏ vẹt, cá thần tiên, cá tuyết, cá hòm Ostracion spp, cá mặt tròn đại dƣơng…, một số loại ghẹ
nhƣ ghẹ Philippin, ghẹ mắt đỏ Eriphia spp, Carcinoscorpius rotudicauda…, một số loài ốc sên biển, hai loài ếch độc Harlequin. a) Sa giông b) Ếch xanh c) Cá bống d) Cá Nóc e) Sao biển f) Ốc tù và g) Bạch tuộc vòng xanh h) Sam i) Cua Xanthid j) Nhuyễn thể k) Tảo độc l) Vi khuẩn Hình 2: Một số loài sinh vật biển chứa độc tố cá Nóc Theo các nhà khoa học thì độc tố có trong cá Nóc chủ yếu là độc tố tetrodotoxin (TTX), chiếm đến 95%, còn độc tố saxitoxin (STX) thuộc nhóm chất độc thần kinh Paralytic Shellfish Poisoning (PSP) chiếm khoảng 5%. Độc tố phân bố trong cơ thể cá Nóc, với các mức độ nhƣ sau: * Môi và vây cá: Theo các tài liệu đã công bố, thƣờng thì vây cá Nóc ít khi có độc tố. Tuy nhiên ở những loài cá Nóc có độc ở da thì vây cũng chứa độc. Môi cá Nóc chủ yếu là da, cho nên ở những loài có độc ở da thì môi cũng có độc. * Da và màng dưới da: Những loài cá Nóc có độc ở da thì màng dƣới da cũng chứa độc. Những loài cá da đen thông thƣờng đƣợc coi là da không độc. Những loài cá Nóc tím, cá Nóc có da màu nâu đỏ hoặc xanh lục thẫm da thƣờng có độc.
* Gan: Hầu hết cá Nóc độc đều chứa lƣợng độc tố mạnh nhất ở gan. Gan cá Nóc có độ độc mạnh nhất vào các tháng 12, tháng 1, tháng 2 và độ độc của gan cao nhất là vào mùa cá Nóc đẻ trứng. * Bộ phận sinh dục: Cá Nóc cái có trứng (noãn sào), cá Nóc đực có tinh sào. Đối với những loài cá Nóc chứa độc thì trứng và tinh sào cũng là bộ phận chứa độc rất mạnh. Đặc biệt vào mùa sinh sản thì độ độc càng lớn. * Dạ dày và ruột: Đối với những loài cá khác, cá Nóc có ranh giới giữa thực quản, tâm vị, môn vị và ruột không rõ ràng. * Thận: Cá Nóc có hai quả thận nằm hai bên, chỗ tiếp giáp giữa xƣơng đầu và xƣơng cột sống, có màu đỏ sẫm. Cũng nhƣ các bộ phận khác thận cá Nóc cũng có con độc, con không độc, nhƣng thƣờng thì nội tạng nhƣ trứng, tinh sào, gan, dạ dày, ruột và thận khi xử lý ngƣời ta vứt bỏ những bộ phận này. * Máu: Máu cá Nóc cũng thƣờng chứa độc, độc tố của máu thƣờng ngấm vào thịt khi xử lý. * Thịt: Cũng nhƣ các bộ phận khác, thịt cá Nóc có thể có độc tố mạnh, độc vừa, độc thấp và có thể không độc tùy theo từng loài. Sự phân bố cá Nóc theo giới tính, theo mùa, theo vùng địa lý. Nhìn chung, cá Nóc cái có độ độc mạnh hơn cá Nóc đực. 1.2.1.4. Nguồn gốc sinh học của TTX Hiện nay, vấn đề nguồn gốc sinh học của TTX vẫn đang đƣợc bàn luận, tranh cãi và cũng chƣa có một kết luận chính xác. Có hai hƣớng nghiên cứu, một hƣớng chứng minh rằng độc tố TTX là do một tuyến trong cơ thể sinh vật biển tiết ra, một hƣớng khác thì cho rằng độc tố này là do vi khuẩn cộng sinh với động vật biển sinh ra [26, 27]. Nghiên cứu của Shimizu (1984) và của Davit Berkowitz (Cục Quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ - FDA) và Ilona Kryspin-Sorensen (Viện Độc học) cho thấy cá Nóc nuôi không sản sinh ra độc tố TTX cho đến khi chúng ăn các cơ thịt của một loài cá Nóc có độc tố, tuy nhiên Yasumoto lại tìm ra hầu hết các loài cá Nóc đều có thể tích tụ độc tố trong khi các loài cá khác lại không chứa độc tố mặc dù chúng
sống chung cùng một môi trƣờng với cá độc. [30, 31] Shimizu Matsumuza lại cho rằng, TTX vẫn xuất hiện trong cả cá Nóc nuôi với hàm lƣợng nhỏ hơn cá Nóc sống tự nhiên. Bằng công nghệ mới, Shimizu cho biết ở cá Nóc nuôi, độc tố tập trung ở da và cơ thịt, trong khi đó ở cá Nóc tự nhiên độc tố phần lớn tồn tại trong trứng và gan [30, 31, 33, 39]. Takashi Matsui cũng đã chứng minh đƣợc sự cộng sinh của vi khuẩn (sản sinh từ biển) với các động vật biển và ngƣời ta cũng đã biết các độc tố liên quan đến TTX và 4,9-anhydro TTX đƣợc tổng hợp bởi một vài loài vi khuẩn, bao gồm các chủng thuộc họ Vibrionaceae (Pseudomonas sp, Photobacterium photphoreum) và những động vật có xƣơng và không xƣơng ở biển cũng tích luỹ các vi khuẩn này. Chúng tạo ra cho vi khuẩn môi trƣờng ký sinh thích hợp và nhận lại từ vi khuẩn sự bảo vệ nhờ các độc tính sinh học biển [30, 31]. Nhiều bằng chứng từ công nghệ sinh học hiện đại cho thấy cá Nóc không mang gen mã hoá cho con đƣờng tổng hợp các phân tử độc tố TTX (The Fugu Genomics Project, MRC HGMP-RC). * Con đường sinh tổng hợp độc tố TTX [38] Con đƣờng tổng hợp độc tố TTX đã đƣợc Kotaki và Shimizu đƣa ra: một trong hai nhóm, hoặc đƣờng adipose (đƣờng mỡ) hoặc isopenrenyl-pp kết hợp với aminoaxit arginin để tạo thành TTX theo sơ đồ sau: Hình 3: Sơ đồ chuyển hóa tổng hợp TTX trong cơ thể sinh vật
1.2.1.5. Tác dụng sinh - dược của TTX [3, 9, 22, 23, 32] * Tác dụng có lợi: - TTX có tác dụng kích thích hoạt động của hệ tuần hoàn, làm thay đổi nhịp tim, thay đổi trƣơng lực của thành mạch, dẫn đến sự thay đổi huyết áp. Khi sử dụng TTX với liều lƣợng 1,3.10-3 mg/kg có tác dụng làm thay đổi thành mạch, dẫn đến sự thay đổi huyết áp. Vì vậy, TTX đƣợc sử dụng trong việc phòng ngừa có hiệu quả các trạng thái xơ cứng động mạch và còn đƣợc dùng để bào chế các loại thuốc đặc trị chữa bệnh huyết áp, rối loạn nhịp tim ở bệnh nhân bị bệnh tim. - TTX có một số tác dụng khác nhƣ: làm giảm tính thấm của màng tế bào đối với việc vận chuyển ion Na+ mà không ảnh hƣởng đến quá trình vận chuyển ion K+, trong khi đó các thuốc gây tê khác lại có tác dụng đối với cả 2 kênh vận chuyển này. Điều này rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu sinh lý màng tế bào. Trong nghiên cứu sinh lý tế bào, TTX đƣợc sử dụng để làm tắc nghẽn quá trình vận chuyển ion Na+. - TTX đã đƣợc dùng nhƣ thuốc gây tê, gây mê trong phẫu thuật. Ngoài những tác dụng gây tê giống các thuốc nhƣ novocain, procain, cocain, TTX có nhiều ƣu điểm hơn ở khả năng gây tê tại chỗ và khả năng gây tê mạnh hơn nhiều so với thuốc gây tê khác. Ví dụ: để kìm hãm hoạt động của hệ thần kinh bằng cocain phải cần đến nồng độ 500 g, trong khi đó TTX chỉ cần 0,03 g (hiệu quả tác dụng của TTX mạnh gấp 60.000 lần cocain). Khả năng gây tê, gây mê của TTX khác với procain và novocain ở chỗ TTX liên kết chọn lọc với kênh vận chuyển Na+ qua màng tế bào, làm cho kênh này bị đóng, dẫn đến làm giảm khả năng thẩm thấu của các ion Na+ qua màng, làm thay đổi đột ngột điện thế màng tế bào dẫn đến mất khả năng phản ứng khi có kích thích mạnh. - TTX còn đƣợc dùng nhƣ thuốc giảm đau, khi sử dụng TTX với liều lƣợng rất nhỏ có khả năng cắt cơn đau của những bệnh nhân ung thƣ gan ở giai đoạn cuối. Theo kết quả thử nghiệm của công ty International Wex Technologies đặt tại Vancouver (Canada) cho biết họ đã sử dụng TTX trong cá Nóc để chế ra Tectin –
tên sáng chế của tetrodotoxin - một loại thuốc có tác dụng giảm đau gấp 3.000 lần thuốc giảm đau bình thƣờng, do vậy có thể sử dụng cho những bệnh nhân ung thƣ và thuốc tetrodoxin còn ngăn chặn đƣợc các triệu chứng lên cơn nghiện, đồng thời loại bỏ thói quen sử dụng heroin và làm giảm sự thèm thuốc của ngƣời nghiện. Các thử nghiệm ban đầu khi sử dụng thuốc cho kết quả khả quan. Theo bác sĩ Edward Sellers tại trƣờng đại học Toronto đã thử nghiệm trên 22 bệnh nhân, trong đó có một bệnh nhân ung thƣ ngoài 50 tuổi, bị đau dữ dội khi mặc quần áo. Nhƣng sau khi tiêm Tectin, cơn đau của ngƣời bệnh giảm đi trong hơn nửa tuần. Các nhà nghiên cứu đã tiêm cho bệnh nhân vài g Tectin (đó là lƣợng cực nhỏ) 2 lần/ngày, trong 4 ngày và nhận thấy gần 70% số ngƣời thử nghiệm có cơn đau giảm đi. Trong một số trƣờng hợp hiệu quả của thuốc kéo dài đến 15 ngày. Theo các chuyên gia, Tectin có thể ngăn chặn tế bào thần kinh chuyển tín hiệu đau đến não. Tectin khác với các thuốc giảm đau khác ở chỗ nó không gây ra tác dụng phụ nhƣ morphin, không xung đột với các loại thuốc khác và cũng không gây nghiện. Mỗi con cá Nóc có thể cung cấp 600 liều thuốc. * Tác dụng có hại Những nghiên cứu của Narashashi năm 1960 về hoạt động của TTX cho thấy TTX có khả năng ngăn chặn điện thế hoạt động của sợi cơ dẫn đến sự thay đổi điện tích ion natri trên bề mặt của tế bào thần kinh, làm cho điện thế hoạt động của cơ bị ức chế và hệ thống thần kinh bị suy yếu. Điều này dẫn đến các triệu chứng chính gồm rối loạn hô hấp và gây tử vong ở nhiều trƣờng hợp ngộ độc TTX ở ngƣời. Ảnh hƣởng của TTX về chức năng sinh học là rất lớn. Ảnh hƣởng đầu tiên là gây ngộ độc đối với ngƣời khi ăn phải cá Nóc độc. Các thí nghiệm về quá trình ngộ độc đƣợc tiến hành trên động vật, lúc đầu ngƣời ta thử độc tố đối với chuột, sau đó đƣợc thử trên chó và mèo. Kết quả thử nghiệm cho thấy TTX đã gây ra chứng liệt cơ trên chuột, nó làm giảm mọi hoạt động trong suốt quá trình trƣớc khi ngừng hô hấp, điều này xảy ra là do sự thiếu hụt điện thế của ion canxi làm tác động vào hệ thần kinh, dẫn tới làm ngăn chặn kênh natri. Các thí nghiệm đã chỉ ra rằng, khi tiêm
TTX vào cơ đã làm giảm hoạt động của ty thể và enzym succinat dehydrogenase dẫn đến làm giảm quá trình trao đổi chất của cơ.[20, 22] Đối với chuột khi tiêm TTX ở nồng độ dƣới mức gây chết sẽ làm ảnh hƣởng đến não và làm giảm khả năng thính giác, gây hại cho thính giác, thị giác, trung tâm xử lý của não và hệ thống thần kinh trung ƣơng, làm suy yếu ở mức nào đó các hệ thống khác [35]. Ngoài ra, các chuẩn đoán về huyết áp của các bệnh nhân trúng độc cho thấy có cả sự giảm huyết áp và tăng huyết áp, điều đó dẫn đến sự mâu thuẫn về giả thuyết đối với bản chất ảnh hƣởng của TTX. Sự giảm huyết áp do TTX là thông thƣờng, nhƣng những nghiên cứu của Yang về 17 trƣờng hợp trúng độc TTX thì có 8 trƣờng hợp là tăng huyết áp [28]. 1.2.1.6. Công nghệ tách chiết và tinh chế độc tố TTX [7, 9] Vào những năm của thập kỷ 50 của thế kỷ XX, ngƣời ta đã tách đƣợc TTX ở dạng thô hàm lƣợng vào khoảng 0,2%. Tiếp đó một số tác giả đã thu đƣợc TTX ở dạng tinh thể từ một số loài cá Nóc Fugu rubripes và nhiều loài cá Nóc thuộc họ Tetraodontidae. Nhiều tác giả cũng đã tách chiết TTX từ nhiều loài động vật khác. Tuy nhiên, cá Nóc vẫn là nguyên liệu chính để tách chiết, tinh chế và nghiên cứu về TTX (Mosher, 1986). Tinh chế TTX là công nghệ rất khó. Phƣơng pháp thƣờng đƣợc sử dụng trƣớc đây là kết tủa TTX từ trong dung dịch axit bằng dung dịch amoniac hoặc etanol ete, nhƣng sản phẩm thu đƣợc có độ tinh khiết chƣa cao. Dƣới đây là một số phƣơng pháp tinh chế TTX của một số nhóm tác giả: - Goto.T và cộng sự tinh chế TTX bằng phƣơng pháp sắc ký trao đổi cột IRC- 50. Tác giả sử dụng dung dịch axetic 10% để giải độc tố TTX. Phân đoạn chứa độc tố đƣợc tiếp tục sắc kí bằng cột than hoạt tính, thu phân đoạn có chứa độc tố rồi cô đặc. Phân đoạn có chứa độc tố này đƣợc hoà tan bằng dung dịch axetic, dịch này đƣợc chuẩn với dung dịch amoniac, để trong phòng lạnh một thời gian sẽ thu đƣợc dạng tinh thể hình kim.
- Sheumack D.D và cộng sự tinh chế TTX nhƣ sau: Hoà tan mẫu chứa độc tố TTX trong dung dịch axetic 0,1M (pH=6,0). Ly tâm loại bỏ phần không tan, dịch ly tâm có chứa độc tố dùng để sắc kí trên cột CM-SephadexC-25 kích thƣớc cột 2,5x40 cm, dạng NH4+. Sử dụng gradient nồng độ dung dịch axetic 0,1-0,4 M (pH= 6,0). Thu phân đoạn có chứa độc tố rồi đông khô để tiếp tục sắc ký lại 2 đến 3 lần để thu độc tố TTX. - Noguchi, Hashimoto tinh chế TTX theo phƣơng pháp sau: Dịch chứa độc tố sau khi đã loại bỏ mỡ bằng clorofoc, đƣợc xử lý với than hoạt tính, thu phân đoạn chứa độc tố rồi tiếp tục sắc kí trên cột trao đổi ion IRC-50 dạng NH4+ thu phân đoạn có chứa độc tố, các phân đoạn này đƣợc đông khô, sau đó hoà tan tiếp bằng dung dịch axetic để sắc kí trên cột SephadexG-15. Phân đoạn có chứa độc tố TTX thu đƣợc từ sắc kí SephadexG-15 đƣợc đông khô, tiếp đó phân đoạn này đƣợc hoà tan trong dung dịch etanol axit hoá, cho thêm dietyl ete tỉ lệ 1/2 (1Vdịch mẫu: 1V dịch dietyl ete) lắc đều hỗn hợp này rồi để trong lạnh. Kết quả thu đƣợc dạng độc tố kết tinh, lọc tách kết tinh rửa bằng metanol từ 2-3 lần sẽ thu đƣợc độc tố TTX tinh khiết. - Maruyama J và cộng sự tinh chế TTX nhƣ sau: Mẫu độc tố sau khi đã loại bỏ mỡ bằng diclorua metan. Sau đó đƣợc cô đặc, rồi hoà tan trong dung dịch axetic 1% trong metanol, chuẩn pH của dịch này về 5,2 bằng NaOH. Dịch thu đƣợc bổ sung thêm 200g than hoạt tính khuấy đều rồi để lạnh. Sử dụng dung dịch giải hấp axetic/metanol để thu độc tố. Phân đoạn có chứa độc tố đƣợc đƣa lên cột IRC-50 để sắc kí. Thu phân đoạn chứa độc tố từ sắc kí cột này xử lý lại với than hoạt tính nhƣ trên. Thu phân đoạn chứa chứa độc tố từ than hoạt tính đông khô rồi hoà tan trong dung dịch amonium-axetat 0,1 M (pH=6) rồi đƣa dịch này nên cột sắc kí CM- SephadexC-15 (NH4+) kích thƣớc cột 2,6 x 30cm. Sử dụng gradien nồng độ 0,1-0,4 amonium axetat (pH=6), thu phân đoạn có chứa độc tố đông khô, tiếp đó sắc kí trên cột Bio-Rex70 (H+), thu phân đoạn chứa độc tố rồi sắc kí lại trên cột này 2-3 lần thu đƣợc độc tố kết tinh.
- Phƣơng pháp của Elam K. S và cộng sự: mẫu chứa độc tố cho vào túi thẩm tích Spectropor No, sắc ký trên cột IRC – 50, lại tiếp tục sắc ký trên cột Sephadex G-10, đem đông khô, rồi hoà tan lại trong dung dịch metanol/axit axetic 1,5%, lọc qua màng Whatman No 42 để thu độc tố. - Phƣơng pháp của Pavel Ka L.A và cộng sự: Tiến hành thẩm tích qua màng Spectropor (mol: 6.000 -8.000), đông khô, lại hoà tan trong dung dịch axit axetic để sắc ký trên Biogel-P-2. Phân đoạn chứa độc đƣợc thu lại, đem đông khô để tiến hành sắc ký lọc gel trong bƣớc tiếp theo. Việc tinh chế để thu đƣợc TTX tinh khiết là một công nghệ rất khó và phức tạp, do đó TTX là một hoá chất đắt tiền. Theo Latoxan, TTX dạng citrate 96 %. (HPLC, IR, NMR) có mã số L8503 TETRODOTOXIN, có giá nhƣ sau: Bảng 3. Giá bán của chế phẩm TTX tại công ty Latoxan Hiện nay, tại Trung Quốc, Công ty Công nghệ sinh học Kanttel (China Kanttel Biotechnology Company), có website: www.tetrodotoxin.cn, là công ty chuyên sản xuất tetrodotoxin. Hàng năm họ sản xuất đƣợc trên 200 g TTX có độ tinh khiết cao (trên 99,5%) và là nhà cung cấp tốt nhất và lớn nhất thế giới. Họ đã tập trung 6 năm để thực hiện dự án sản xuất TTX và đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chiết xuất TTX từ cá Nóc và sử dụng công nghệ tinh vi, phức tạp trong tinh chế chế phẩm này. Họ đã xây dựng một hệ thống mạng lƣới tiền chế cá Nóc rộng khắp Trung Quốc và có một trung tâm tinh chế duy nhất. Một số nghiên cứu khác về độc tố TTX Tập đoàn Công nghệ Sinh học Hawaii (Hawaii Biotechnology Group, Inc) đã sản xuất thành công kháng thể đơn dòng anti-TTX (dòng T20G10) trên chuột. T20G10 đã đƣợc chứng minh là có tác dụng bảo vệ chuột đến giới hạn mức gây tử vong của TTX.
Viện Dƣợc lực học và độc chất học Bắc Kinh - Trung Quốc đã chế tạo thành công vacxin độc tố cá Nóc. Súc vật thí nghiệm đã tiêm vacxin độc tố cá Nóc có thể chống đỡ đƣợc liều độc tố TTX thử thách nhiều lần trong 8 tháng, với tổng liều TTX 6mg/kg thì còn 50% chuột sống sót, nếu tổng liều TTX 9 mg thì một số ít chuột chịu đựng đƣợc. Nghiên cứu hệ gen của cá Nóc cho thấy trong quá trình phát sinh chủng loại hàng triệu năm trƣớc đây, điểm đột biến duy nhất trong một gen đã làm biến đổi thành phần axit amin của một protein khiến các lỗ nhỏ trong hệ thống bơm natri của cá Nóc không còn tƣơng thích và bị tetrodotoxin nhận diện và phong toả, vì vậy tạo cho cá Nóc miễn nhiễm với độc tố này. Ở Việt Nam, nhiều tác giả đã có các công trình nghiên cứu về độc tố cá nóc. Lê Xuân Tú và cộng sự đã nghiên cứu về tách chiết và tinh chế chế phẩm TTX, tuy nhiên chế phẩm chƣa đạt đƣợc độ tinh khiết cao. Tác giả cũng đã tiến hành nghiên cứu tác dụng gây tê, gây mê của chế phẩm TTX thu đƣợc trên một số đối tƣợng chuột, thỏ,… [7, 15]. Nguyễn Văn Lệ đã nghiên cứu độc tính của 35 loài cá nóc biển Việt Nam, trong đó có 21 loài độc và 14 loài chƣa phát hiện có độc. Tác giả cũng nghiên cứu về sự biến đổi hàm lƣợng độc tố trong quá trình chế biến nƣớc mắm cá nóc [9]. Bùi Thị Thu Hiền (2007) có công trình nghiên cứu về khử độc tố cá nóc. Tác giả đã sử dụng muối ăn NaCl kết hợp các yếu tố khác nhƣ nhiệt độ, thời gian… và phƣơng pháp lên men bằng cám gạo để khử độc tố trong thịt, gan và một số bộ phận của cá nóc.[5]. 1.2.2. Độc tố saxitoxin (STX) [23, 24, 36, 38, 42] PSP (nhóm gây hội chứng PSP) là nhóm lớn nhất và điển hình nhất trong nhóm độc thần kinh, chúng thuộc chất độc phi-protein, có 3 dạng phổ biến là: (1) Cacbamat có độc tính cao (gồm STX, neosaxitoxin và các gonyautoxin- GTX) (2) Decacbomoyl có độc tính trung bình và (3) N-Sulfocacbamoyl có độc tính yếu.
Hình 4. Cấu trúc hóa học của các độc tố PSP Saxitoxin (STX) và các dẫn xuất của nó chứa các nhóm guanidin, có khoảng 20 dẫn xuất đã đƣợc tìm thấy trong tự nhiên. Bản chất hóa học của saxitoxin là các alkaloit. Tên gọi saxitoxin bắt nguồn từ tên của một loài hai mảnh vỏ Sanxidomus giganteus đƣợc dùng lần đầu tiên để tách và nhận dạng saxitoxin. Cơ chế gây độc thần kinh của STX là ngăn chăn sự di chuyển kênh natri thông qua màng tế bào thần kinh, qua đó ngăn cản sự dẫn truyền xung động thần kinh và là nguyên nhân gây ra hội chứng PSP bao gồm tình trạng tê liệt thần kinh, mất phƣơng hƣớng (Mosher và cộng sự, 1946 và Shimizu, 2000). PSP có độc tính lớn hơn 1000 lần so với cyanid và triệu chứng xuất hiện sớm hơn sau khi ăn phải động vật hai mảnh vỏ. 1.2.1.1. Tính chất hoá lý của STX Các STX là chất hoà tan đƣợc trong nƣớc hoặc trong môi trƣờng cồn có nồng độ thấp, rất bền trong môi trƣờng pH trung tính hoặc axit (thậm chí ở nhiệt độ cao), STX không bền trong môi trƣờng kiềm, chúng dễ bị oxy hoá mạnh và bị mất hoạt tính nếu ở trong môi trƣờng kiềm. 1.2.1.2. Phân bố và chuyển hóa của STX trong các loài sinh vật STX chứa nhiều trong một số loài tảo: Alexandrium Spp.,Gymnodinium catenatum, Pyrodinium bahamense… Nhiều loài tảo này là thức ăn của động vật thân mềm hai mảnh vỏ. Ngoài những loài tảo độc chứa PSP, ngƣời ta đã tìm thấy PSP trong nhiều loài khác nhƣ vi khuẩn, nhuyễn thể, cua Xanthid, Sam và cá Nóc.
Phân tử STX từ tảo độc vào động vật hai mảnh vỏ rồi vào cơ thể con ngƣời, trải qua các giai đoạn chuyển hóa để tạo thành một dạng phân tử khác, sự biến đổi này gọi là epime hóa, đó là sự sắp xếp lại một phần tử STX ban đầu (hình 5). Khi STX từ tảo độc vào cơ thể sò, hến … thì có sự hoán vị gốc H và OSO-3 ở vị trí 11, làm cho STX giảm độc tính 11 lần. Sau khi con ngƣời sử dụng sò hến…,do trong dạ dày của ngƣời có axit nên lại làm hoán vị gốc H và OSO-3 ở vị trí 21, sự hoán vị này làm tăng độc tính ban đầu của STX lên 6 lần. Sự biến đổi đó là nguyên nhân gây ngộ độc PSP ở ngƣời (Sullivan & Wekel, 1988). Hình 5: Sơ đồ tăng, giảm độc tố STX trong quá trình chuyển hóa 1.2.1.3. Tác dụng của các STX đến cơ thể sống STX là chất độc thần kinh rất mạnh, với liều để giết chết 1 kg chuột lang là 5g. Cơ chế gây độc STX cũng giống nhƣ TTX, nó làm ức chế điện thế hoạt động của hệ thống thần kinh và làm cho hệ thần kinh bị suy yếu. 1.3. CHẾ BIẾN VÀ ẨM THỰC CÁ NÓC [3, 9, 28, 37] Mặc dù cá Nóc đƣợc biết đến là hải sản chứa độc tố cực độc rất nguy hiểm cho con ngƣời, nhƣng món ăn chế biến từ cá Nóc là một món đặc sản, là nguồn thực phẩm xuất khẩu mang lại lợi nhuận cho nhiều nƣớc nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Mê- xi-cô, Philippin và Đài Loan.
Nhật Bản là quốc gia hàng đầu về sử dụng cá Nóc làm thực phẩm. Hiện nay ở Nhật Bản có tới hàng vạn quán ăn cá Nóc. Ở Nhật Bản, cá Nóc gọi là Fugu. Tại các nhà hàng nổi tiếng, mỗi suất ăn giá từ 100 - 200 USD. Fugu đƣợc chế biến thành nhiều món ăn và đƣợc giới sành ăn đánh giá cao nhƣ fugusashi, fugu - zõsui, hiezake, chiri-nabé... Fugusashi là món cá Nóc ăn sống, là món cao cấp nhất và đƣợc trình bày rất mỹ thuật. Fuguchiri: là món cá Nóc ăn cùng mì sợi, lá hoa cúc, bắp cải, cà rốt, nấm, ăn kèm với sốt giấm ponzu. Fugu - zõsui: là món cháo cá gồm có: cơm, trứng, nƣớc dùng - ăn kèm với sốt giấm ponzu. Hirezake: là món thức uống làm từ vây cá Nóc phơi khô, rồi đem nƣớc cho đến khi ngả màu vàng hơi cháy, sau đó ngâm vào rƣợu sake rồi uống nóng. Chỉ có những ngƣời có giấy chứng nhận về chế biến cá Nóc mới đƣợc mở quán ăn cá Nóc. Điều quan trọng khi chế biến cá Nóc là nhận dạng đƣợc các loài cá Nóc có độc, loại bỏ đƣợc độc tố cá Nóc và cách chế biến cá Nóc nhờ các kiến thức về cá Nóc, kỹ thuật chế biến của ngƣời đầu bếp. Những nơi mà ngƣời đầu bếp sử dụng để chế biến cá Nóc đƣợc gọi là “Nơi xử lý cá Nóc”. Tại đây cần phải có giấy chứng nhận. Hệ thống kiểm tra đầu bếp cá Nóc ở Tokyo đƣợc thực hiện cho toàn quốc, bao gồm kiểm tra chặt chẽ kiến thức quy định về cá Nóc, phân loại cá Nóc và cách chế biến để loại bỏ độc tố. Ngƣời muốn có giấy chứng nhận chế biến cá Nóc phải có các điều kiện sau: - Đƣợc đào tạo theo chƣơng trình quy định. - Có trên hai năm kinh nghiệm chế biến cá Nóc dƣới sự giám sát của ngƣời chế biến cá Nóc. - Có giấy chứng nhận của Thị trƣởng về việc có đủ tiêu chuẩn trên. - Thi đỗ trong kỳ thi chế biến cá Nóc (mỗi năm một lần). Ngoài giá trị ẩm thực là những món ăn đặc sản, thì tại Nhật Bản, thịt cá Nóc còn đƣợc làm bột chống còi xƣơng cho trẻ em. 1.4. NGỘ ĐỘC CÁ NÓC [3, 9, 28] Hầu hết các nƣớc có tập quán ăn cá Nóc đều có xảy ra ngộ độc do ăn cá Nóc.
Tại Nhật Bản, trong 10 năm (1989 - 1998) đã có 275 vụ với 425 ngƣời mắc, trong đó có 33 ngƣời chết, các vụ xảy ra tại các cửa hàng ăn uống, cửa hàng bán cá Nóc là 17%, còn xảy ra tại gia đình và trên thuyền là 83%. Ở các nƣớc nhƣ Mỹ, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc cũng có thông báo về các vụ ngộ độc và số tử vong do cá Nóc. Tại Việt Nam, từ năm 1999 trở về trƣớc, ngộ độc cá Nóc chƣa đƣợc thống kê, quản lí và cũng chƣa đƣợc chỉ đạo phòng ngừa. Từ năm 1999, Cục Quản lý Chất lƣợng vệ sinh an toàn thực phẩm (nay là Cục Quản lý Chất lƣợng An toàn Vệ sinh và Thú y Thuỷ sản - NAFIQUAVED) đã tiến hành thống kê và giám sát tình hình ngộ độc cá Nóc. Theo thống kê (chƣa đầy đủ) từ năm 1999 đến năm 2003 cả nƣớc đã xảy ra trên 110 vụ với gần 600 ngƣời mắc và 110 ngƣời tử vong. Mặc dù đã có rất nhiều các cơ quan chức năng cảnh báo về nguy cơ ngộ độc thực phẩm từ cá Nóc, thậm chí Chính phủ đã có lệnh cấm chế biến và tiêu thụ cá Nóc dƣới mọi hình thức: chỉ thị số 06/2003/CT-BTS ngày 22 tháng 12 năm 2003 về việc ngăn chặn ngộ độc cá Nóc, cấm ngư dân khai thác, vận chuyển, thu mua và tiêu thụ cá Nóc, song cho đến nay ở nhiều địa phƣơng, vẫn tồn tại việc khai thác và buôn bán cá Nóc nhƣ một mặt hàng hải sản phổ biến, thậm chí còn có những cơ sở chuyên sản xuất và chế biến các sản phẩm từ cá Nóc nhƣ muối khô, làm nƣớc mắm hoặc làm chả cá. Vì vậy các trƣờng hợp ngộ độc và tử vong vẫn xảy ra rải rác khắp các tỉnh thành trên cả nƣớc, thậm chí ngay cả những vùng miền núi xa xôi nhƣ Tây Nguyên hoặc ngay tại thủ đô Hà Nội. Qua các vụ ngộ độc cho thấy, ngộ độc do cá Nóc tƣơi chiếm nhiều nhất: 68,75%, cá Nóc khô là 29,55%, cá đông lạnh 1,14% và chả cá 0,57% tổng số vụ ngộ độc thực phẩm do cá Nóc. Ngộ độc do cá Nóc tƣơi hay bị vào các tháng 3, 6, 7, 9 và 11. Ngộ độc do cá Nóc khô vào các tháng 1, 10 và tháng 12. Nam giới bị ngộ độc cá Nóc cao gấp hai lần so với nữ giới (tƣơng ứng là 66,37%, 33,63%). Ở lứa tuổi 18 - 49 tỷ lệ ngộ độc do cá Nóc chiếm tới 68,61% và số ngƣời nam bị cao hơn nữ là 2,36 lần. Số vụ ngộ độc xảy ra ngay trên thuyền đánh bắt cá chiếm 14,29%; tại gia đình chiếm 84,82% và tại quán ăn là 0,89%.
Triệu chứng khi bị ngộ độc cá Nóc: Ngộ độc cá Nóc làm tê liệt toàn thân từ đầu đến chân. Đầu tiên là mất cảm giác ở môi và lƣỡi, sau đó tê liệt cử động và mất cảm giác, huyết áp bị tụt xuống do giãn động mạch vành, cảm giác thấy khó thở do tê liệt, ý thức vẫn bình thƣờng cho đến lúc trƣớc khi chết, nhƣng cuối cùng cũng sẽ mất ý thức và sau đó ngừng thở do bị tê liệt hoàn toàn trung khu hô hấp. Nguyên tắc xử lý cấp cứu khi xẩy ra ngộ độc cá Nóc: - Cần gây nôn, sử dụng thuốc lợi tiểu để loại bớt độc tố rửa dạ dày, cho uống dung dịch than hoạt tính và cùng lúc đó phải nhanh chóng đƣa bệnh nhân đến bệnh viện. - Đề phòng liệt hô hấp: tiến hành hô hấp nhân tạo - Hồi sức tim mạch, chống truy tim mạch - Chống sốc: truyền dịch cho thở oxy - Điều trị triệu chứng
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU Qua các số liệu thống kê về vùng phân bố, về trữ lƣợng của các loài cá Nóc [4, 9], chúng tôi đã thu thập 5 loài cá Nóc sau để nghiên cứu: Takifugu oblongus, Arothron stellatus, Arothron hispidus, Torquigener brevipinnis, Lagocephalus sceleratus. 2.1.1. Đặc điểm nhận dạng cá Nóc chấm cam vằn mắt Torquigener brevipinnis (Regan, 1903) [9] Tên địa phƣơng: Cá Nóc, Cá Nóc vằn mắt, Cá Nóc mít. Gai phân bố thƣa, đều và không tập trung thành đám. Gai có xung quanh thân nhƣng không có trên cuống đuôi và khoảng giữa vây lƣng và vây hậu môn. Mõm tù, cằm thẳng đứng và khe miệng cao hơn hoặc bằng rìa trên gốc vây ngực. Đầu và mặt lƣng màu nâu vàng, có nhiều chấm trắng tròn, lớn nhỏ không đều phân bố khá dày trên mặt lƣng. Hai bên đầu có 4 – 5 đường vằn ngang màu nâu. Chạy dọc hai bên thân, từ gốc vây ngực đến gốc vây đuôi là 2 hàng chấm màu cam, hàng trên dày và đậm màu hơn hàng dưới. Trên vây đuôi có các vằn ngang màu nâu.
Phân bố: Thế giới: Nam Phi, Australia, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, New Caledonia . . . Việt Nam: Là loài ít gặp và chỉ mới thấy xuất hiện ở biển Trung bộ và Đông Tây Nam bộ. Tính độc: Đây là loài cá có độc tính đối với con ngƣời. 2.1.2. Đặc điểm nhận dạng cá Nóc đầu thỏ chấm tròn Lagocephalus sceleratus (Gmelin, 1789) [9] Tên địa phƣơng: Cá Nóc, cá Nóc thu Cơ thể hình trụ dài. Lƣng và bụng đều có gai nhỏ. Lƣng có màu xanh xám, bụng màu trắng. Cơ thể không có ánh vàng. Dọc hai bên thân, từ dƣới góc miệng đến gốc vây đuôi có một dải màu bạc. Trên đầu và lưng có nhiều nốt chấm đen nhỏ rõ ràng. Lỗ mang màu đen. Vây đuôi lõm sâu ở giữa. Phân bố: Thế giới: Bắt gặp ở toàn vùng biển Ấn Độ – Thái Bình Dƣơng: Đông Phi, Ấn Độ, Sri Lanca, Australia, Indonesia, Malaysia, Philippin, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản . . . Việt Nam: Là loài hay bắt gặp. Có ở vịnh Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và quần đảo Trƣờng Sa. Tính độc: Là loài rất độc.
2.1.3. Cá Nóc vằn Takifugu oblongus (Bloch, 1786) [9] Tên địa phƣơng: Cá Nóc, Cá Nóc hổ, Cá Nóc trần, Cá Nóc bông Mặt lƣng, bụng và hai bên thân đều có gai nhỏ. Gai không có ở bắp đuôi. Cằm không thẳng đứng, mõm tròn và khe miệng thấp hơn rìa trên gốc vây ngực. Trên đầu và lƣng màu nâu với các chấm vàng nhạt lớn nhỏ không đều. Hai bên đầu, lưng có nhiều vân màu nâu và màu vàng nhạt xen kẽ như da hổ. Phía cuối lƣng và trên bắp đuôi, các vân này có dạng hình chữ V nằm vắt ngang qua. Vây ngực, vây đuôi có màu vàng tƣơi. Phân bố: Thế giới: Vùng biển Ấn Độ – Thái Bình Dƣơng: Nam Phi, Ấn Độ, Sri Lanca, Australia, Indonesia, Malaysia, Philippin, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc. Việt Nam: Là loài thƣờng gặp, phân bố ven bờ từ Bắc vào Nam Tính độc: là loài gây độc mạnh. 2.1.4. Đặc điểm nhận dạng cá Nóc chuột vằn bụng Arothron hispidus (Linnaeus, 1758) [9] Tên địa phƣơng: Cá Nóc, Cá Nóc mú
Trên lớp da dày có nhiều gai nhỏ dạng lông mao. Toàn thân có màu nâu nhạt. Phía dưới cằm, đầu, lưng, hai bên thân và cuống đuôi và trên gốc vây đuôi đều có những đốm trắng phân bố thưa và đều. Phần bụng có những dải trắng lớn chạy từ trƣớc ra sau. Xung quanh gốc vây ngực màu đen và trên đó có 1-2 vòng tròn hoặc các vạch chỉ màu vàng. Các vây thƣờng có màu vàng xám. Vây đuôi tròn, không có chấm. Lỗ mang đen. Phân bố: Thế giới: Biển Đỏ, Đông Phi, Ấn Độ, Sri Lanca, Australia, Indonesia, Malaysia, Philippin, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hawai . . . Đồng thời loài này còn xuất hiện ở vịnh California tới Panama. Việt Nam: Là loài thƣờng gặp và đã bắt gặp ở vịnh Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ và quần đảo Trƣờng Sa. Tính độc: là loài gây độc đối với con ngƣời. 2.1.5. Đặc điểm nhận dạng cá Nóc chuột chấm đen Arothron stellatus (Bloch & Schneider, 1801) [9] Tên địa phƣơng: Cá Nóc, Cá Nóc chuột chấm sao, Cá Nóc mú, Cá Nóc vây vân dày.
Trên lớp da dày có nhiều gai nhỏ. Trừ phần bụng, còn lại toàn thân, kể cả gốc vây lưng và trên vây đuôi đều có các chấm đen phân bố dày và đều. Khi cá còn bé thì bụng của chúng có các vằn đen vàng xen kẻ nhau. Cá càng lớn thì các vằn này mờ nhạt dần cho đến khi cá trƣởng thành thì bụng của chúng có màu trắng và ngay dƣới vây ngực có một vài chấm đen khá lớn. Xung quanh gốc vây ngực và vùng hậu môn có màu đen tuyền. Lỗ mang đen. Phân bố: Thế giới: Biển Đỏ, Đông Phi, Australia, Indonesia, Malaysia, Philippin, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc . . . Việt Nam: Là loài khá phổ biến, bắt gặp ở vịnh Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ và quần đảo Trƣờng Sa. Tính độc: là loài gây độc cho con ngƣời. 2.2. ĐỊA ĐIỂM THU MẪU Chúng tôi tiến hành thu mẫu cá Nóc theo hai phương thức: 1/ Thu mẫu trên biển: từ các tàu khai thác của ngƣ dân và kết hợp với thu mẫu trên tàu nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Hải sản trong các chuyến điều tra, khảo sát ở toàn vùng biển Việt Nam 2/ Thu mẫu tại các bến cá, cảng cá thuộc 3 vùng ven biển Bắc (Hải Phòng, Nghệ An, Trung (Khánh Hòa, Bình Thuận) và Nam (Vũng Tàu – Kiên Giang).
2.3. HÓA CHẤT, DỤNG CỤ VÀ THIẾT BỊ NGHIÊN CỨU 2.3.1. Thiết bị nghiên cứu Máy cất nƣớc 1 lần, 2 lần Máy cô quay Buchi Thụy Sỹ Tủ đông sâu: -80oC và - 20oC Hệ thống sắc ký lỏng hiệu năng cao 2.3.2. Dụng cụ nghiên cứu Cốc đong, ống đong các loại 2.3.3. Hoá chất Acid axetic 99,9 % (Merck) 2.3.4. Động vật dùng cho phân tích Chuột chủng Swiss - giống đực, có trọng lƣợng 18 – 22 gam. Đƣợc mua tại Viện Vệ Sinh dịch tễ Trung ƣơng.
2.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.4.1. Phƣơng pháp phân loại cá Nóc [4, 9, 12, 41] Các mẫu cá Nóc sau khi thu thập về phòng thí nghiệm, đƣợc phân loại bởi các cán bộ có chuyên môn của Phòng Nguồn lợi Sinh vật biển - Viện Nghiên cứu Hải sản. Các loài cá Nóc đƣợc phân loại dựa theo các khóa phân loại của FAO, FISHBASE,… Có sự kiểm định của chuyên gia phân loại cá Nóc ngƣời Nhật Bản GS.TS. Keiichi Matsura. Khóa phân loại cá Nóc: khoá phân loại cho các loài cá Nóc ở vùng biển Việt Nam chủ yếu dựa trên những đặc điểm hình thái nổi bật khi cá còn tƣơi của các mẫu vật thu thập đƣợc (đặc điểm, hình dáng, màu sắc . . .) và khoá đƣợc xây dựng theo nguyên tắc lƣỡng phân (a đối lập với b). Tên tiếng Việt của cá chủ yếu đƣợc lấy từ “Danh mục cá biển Việt Nam” [12], hoặc theo tên thƣờng gọi của nhân dân. Một số loài thì căn cứ vào đặc trƣng hình thái chủ yếu nhất của loài mà đặt tên tiếng Việt và có một số ít dịch từ tên khoa học bằng tiếng La tinh. 2.4.2. Phƣơng pháp bảo quản mẫu Trên nguyên tắc không để lây nhiễm độc tố từ các bộ phận, quá trình bảo quản cá Nóc đƣợc tiến hành theo các bƣớc và điều kiện sau: + Mẫu cá Nóc thu đƣợc phải đảm bảo còn nguyên vẹn, tƣơi, không bị dập nát hoặc trầy xƣớc. + Dựa trên các đặc điểm hình thái bên ngoài để phân loại các loài cá Nóc. + Ghi nhãn, mác thông tin nhƣ tên loài, thời gian thu mẫu, địa điểm thu mẫu, trọng lƣợng, giới tính, độ chín sinh dục và cả tên ngƣời thu mẫu. + Tiến hành đo chiều dài, trọng lƣợng cá và một số chỉ số sinh học khác. + Tiến hành mổ, tách riêng từng bộ phận cá Nóc. Các bộ phận gồm: thịt, trứng/tinh sào, gan, ruột, mật đƣợc đựng trong các túi nilon riêng đã dán nhãn đầy đủ. + Bảo quản mẫu đã xử lý bằng đá cây xay nhỏ hoặc cấp đông (nếu có thể) rồi chuyển về phòng thí nghiệm càng nhanh càng tốt.
Trong trƣờng hợp mẫu nhiều, có thể để mẫu nguyên con trong các túi plastic riêng rẽ, tiến hành bảo quản bằng cá cây xay nhỏ, hoặc cấp đông (nếu có thể) để đƣa về phòng thí nghiệm. Các mẫu chƣa đƣợc sử dụng cho các thí nghiệm thì đƣợc bảo quản riêng trong túi plastic kín, bảo quản trong các tủ đông, hoặc đông sâu ( – 80oC) cho đến khi đƣợc đƣa ra sử dụng. 2.4.3. Phƣơng pháp phân tích độc tố [9, 18, 27, 35, 45] 2.4.3.1. Phương pháp tách chiết Mô tả phƣơng pháp tách chiết độc tố cá Nóc: a/ Qui trình: Trộn đều dịch ly tâm lần 1 và 2
Cơ sở xây dựng phương pháp: Chúng tôi đã tiến tách chiết độc tố cá Nóc theo phƣơng pháp cải tiến trên cơ sở các phƣơng pháp của các tác giả sau cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Theo phƣơng pháp của Mosher, Goto thì dùng dung dịch metanol chứa 5% axit axetic để chiết rút độc tố. Theo Kawabata, 1979: Dùng axit axetic nồng độ 1-2% theo tỷ lệ 1/1 chiết dịch độc tố lần 1. Sau đó dùng hỗn hợp 1% axit axetic và 80% metanol theo tỷ lệ 1/2 để chiết dịch độc tố lần 2. Một số phƣơng pháp đã dùng dichlorua - metal (CH2Cl2) để loại bỏ mỡ ra khỏi dịch chiết. Ngoài ra ngƣời ta còn dùng máy cô quay để cô dịch chiết (theo phƣơng pháp của Mosher, Goto, và của Hàn Quốc). b/ Giải thích quy trình Bƣớc 1: Tách riêng từng bộ phận. Sau khi rã đông, dùng khăn khô thấm sạch nƣớc bám trên cá, cho cá lên mặt thớt và chuẩn bị tiến hành mổ. Tất cả cá bộ phận đƣợc mổ tách rời và đều đƣợc ghi lại khối lƣợng bằng cân điện tử để bàn hoặc cân đĩa. Xác định giới tính và độ chín sinh dục (tƣơng ứng với giai đoạn sinh trƣởng của cá Nóc). Bƣớc 2: Lấy mẫu phân tích Cắt nhỏ bộ phận phân tích (gọi tắt là mô), trộn đều. Cân lấy 10 gam mô cho vào cốc thủy tinh dung tích 100 ml. Bổ sung thêm 25 ml axit axetic (1%) và lắc đều. Bƣớc 3: Đồng nhất mô bằng máy cắt phá tế bào. Bƣớc 4: Đun sôi cách thủy Sau khi đồng nhất mô, dùng giấy bạc bịt kín miệng cốc thủy tinh. Đun sôi cách thủy 10 phút. Trong quá trình đun cần thiết phải lắc đều cốc thủy tinh (1 đến 2 phút/1 đợt lắc), nhờ đó mới đảm bảo tác dụng của sự gia nhiệt đều lên mẫu, việc hòa tan độc tố và sự kết tủa của protein trong mẫu sẽ thuận lợi hơn. Bƣớc 5: Ly tâm Sau khi hoàn thành đun cách thuỷ để nguội mẫu rồi chuyển vào các ống ly tâm 250 ml và tiến hành ly tâm với tốc độ 10000 vòng/phút trong 10 phút. Phần mẫu còn bám lại trong cốc thủy tinh thì để riêng đánh dấu (*). Bƣớc 6: Thu phần dịch trong
Tách phần dịch trong phía trên. Phần cặn chuyển vào cùng vào 1 ống ly tâm chung và tiếp tục đƣợc sử dụng để chiết lần 2. Bƣớc 7: Chiết lần 2 Dùng 10 ml axit axetic (%) để thu hồi sạch phần mẫu ở cốc (*). Cho 10 ml này vào phần bã trong ống ly tâm và cho thêm 5 ml axit axetic 1%. Dùng đũa thủy tinh khuấy trộn lẫn đều dịch và bã, sau đó tiến hành ly tâm giống nhƣ ở lần chiết 1. Bƣớc 8: Thu dung dịch chứa độc tố. Chuyển cả 2 dịch chiết lần 1 và 2 vào cốc thuỷ tinh rồi dùng axit axetic hoặc nƣớc cất dẫn thể tích dịch đến mức 50 ml. Lắc đều. Thu đƣợc dịch dùng trong thử sinh học trên chuột để xác định hoạt lực của độc tố cá Nóc. 2.4.3.2. Phương pháp thử sinh học trên chuột (MBA) a) Nguyên tắc và các điều kiện Sử dụng phƣơng pháp thử sinh học trên chuột (MBA – Mouse Bioassay) để xác định hoạt lực độc tố (độc tính) trong các mẫu cá Nóc và đƣợc biểu thị theo đơn vị chuột (mouse unit): “1 đơn vị chuột, 1 MU (mouse unit) là lượng độc tố tối thiểu gây chết chuột chủng Swiss - giống đực có trọng lượng 18 - 22 gam trong khoảng 30 phút khi tiêm trực tiếp vào khoang bụng”. Để đảm bảo độ chính xác của phƣơng pháp, khoảng thời gian chuột chết trong vòng 7 - 13 phút cho kết quả chính xác nhất. Chuột đƣợc sử dụng trong các thí nghiệm là chuột chủng Swiss giống đực, trọng lƣợng mỗi con từ 18 - 22 gam. Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện trƣớc khi thử sinh học trên chuột, bao gồm: Các lồng giữ chuột 3 ô, 3 bút maker các màu đỏ, xanh, đen để đánh dấu chuột theo thứ tự. Cân ghi lại các khối lƣợng từng con chuột. Cách tính thời gian chuột chết: là khoảng thời gian từ lúc rút mũi kim tiêm ra khỏi khoang bụng chuột cho đến khi chuột không còn thấy cử động của hàm răng sau khi co giật (có thể dùng đầu ngón tay đặt vào lồng ngực của chuột để kiểm tra tim còn hoạt động hay không). Thời gian chuột chết ghi lại chính xác ở đơn vị giây.
b) Các bƣớc thử sinh học trên chuột: Trƣớc hết, tiến hành tiêm dịch đặc của mẫu: dùng kim tiêm 1ml hút 1 ml dịch đặc của mẫu để tiêm chuột. - Nếu thời gian chuột chết nằm trong khoảng 7 - 13 phút thì không pha loãng mẫu ra nữa mà tiêm thêm 02 lần cùng mẫu dịch đặc để lấy số liệu. - Nếu thời gian chuột chết ít hơn 7 phút thì pha loãng dịch đặc ra 2, 5, 10, 20 ... lần và tiêm lần lƣợt theo nồng độ từ cao xuống thấp. Nếu thời gian chuột chết vẫn chƣa đạt 7 - 13 phút thì tiếp tục pha loãng cho đến khi chuột chết trong khoảng thời gian này thì dừng lại và tiêm thêm 02 mẫu cùng độ pha loãng để lấy số liệu. - Nếu thời gian chuột chết vượt quá nhiều so với 30 phút hay chuột không chết thì kết luận mẫu thử là ND (dƣới khả năng phát hiện của phƣơng pháp, âm tính). Cũng tiêm thêm 2 lần nữa để lấy đủ 3 lần số liệu. c) Xử lí số liệu Độ độc của từng mẫu/bộ phận cá Nóc đƣợc biểu thị bằng đơn vị MU và đƣợc tính toán xử lý từ các kết quả thực nghiệm theo công thức sau đây: Trong đó C: độ độc của mẫu tính bằng đơn vị MU/g C1: MU tính theo thời gian chuột chết (tra bảng phụ lục 1) C2: MU tính theo trọng lượng chuột (tra bảng phụ lục 2) Các số liệu phân tích độc tố từ thực nghiệm đƣợc tính toán và xử lý trên phần mềm MS-EXEL. Kết quả C trung bình của từng mẫu đƣợc tính theo trung bình của các số liệu có độ chênh lệch ít nhất trong 3 số liệu. Độ pha loãng x thể tích mẫu cuối cùng (ml) Khối lƣợng mẫu phân tích (g).
2.4.3.3 .Phương pháp phân tích độc tố bằng Sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) [9, 18, 45] Để phân tích thành phần độc tố các loài cá Nóc thu thập đƣợc cho nghiên cứu này, chúng tôi đã xử lý tách chiết mẫu tại Việt Nam, bảo quản và gửi sang trƣờng Khoa học Nghề cá, Đại học Kitasato - Nhật Bản để phân tích trên hệ thống HPLC vơi sự giúp đỡ của PGS.TS. Shigeru Sato. a) Nguyên tắc của máy HPLC Sắc ký lỏng là quá trình tách một hỗn hợp trong cột sắc ký ở trạng thái lỏng, vì thế các chất mẫu phân tích phải đƣợc hoà tan trong một chất lỏng phù hợp, thƣờng là trong chính pha động chạy sắc ký. Trong HPLC, mẫu đƣợc bơm vào các cột sắc ký qua một van bơm mẫu có vòng mẫu từ 20-100 l, sau đó nhờ bơm cao áp mà pha động đƣợc đẩy qua cột với một tốc độ dòng không đổi trong suốt thời gian chạy sắc ký. Ở đây pha động vừa đóng vai trò là chất mang, mang mẫu phân tích vào cột tách, vừa là chất rửa giải trong quá trình chạy sắc ký. Bản chất của quá trình sắc ký là sự phân bố của chất tan giữa pha động và pha tĩnh. Các chất tách ra khỏi nhau đƣợc pha động đẩy đến bộ phận dò (detector) để đo, tín hiệu phát hiện đƣợc hiển thị trên màn hình máy tính. b) Qui trình 1/ Chiết và xử lý mẫu. Các bộ phận của cá Nóc đƣợc tách chiết riêng bằng metanol (chứa axit axetic) trong 5 phút. Những phần tách chiết đƣợc ly tâm (10000v/20 phút), bã còn lại đƣợc tách chiết lại với lƣợng dung dịch metanol tƣơng tự. Phần dịch bên trên đƣợc tập trung lại, cô đặc bằng máy cô quay và sau đó hoà tan trở lại trong axit axetic 1%, loại mỡ bằng clorofoc. Sau khi loại bỏ clorofoc bằng máy ly tâm, phần dịch lỏng phía trên đƣợc lọc qua màng siêu lọc (MWCO 10000) bằng lực ly tâm. Rồi sau đó lấy 10ml dung dịch của mỗi mẫu đem đi phân tích hàm lƣợng độc tố trên HPLC.
Phần tách chiết ra đƣợc pha loãng thành dung dịch 1/10 và 1/100 để xác định bằng HPLC. Các dung dịch có độ đặc khác nhau đƣợc phân tích 3 lần. Tỷ lệ thu hồi là 91,0 5,2% dịch độc tố loãng. 2/ Điều kiện chạy HPLC Hệ thống sắc ký lỏng hiệu năng cao đƣợc vận hành ở các điều kiện sau : - Detector huỳnh quang (FD), - Nhiệt độ lò, cột phản ứng (10m x 0,3mm i.d.): 100oC. - Cột Cosmosil 5C18-AR, 250 x 4.6 mm (Nacalai Tesque, Japan) - Pha động là axit heptan sunphonic 2mM (HAS) trong 0,05M đệm photphat kali (pH 7,0). - Tốc độ dòng là 0,5ml/phút. - Em: 505 nm, Ex: 381nm Hàm lƣợng độc tố đƣợc tính ra theo đơn vị theo M (micromolar ~ nmol/ml) sau khi phân tích bằng HPLC. Cũng có thể chuyển đơn vị này về MU/ml (xem phụ lục 4). Số liệu đƣợc xử lý trên phần mềm Microsoft Excel.
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. ĐỘC TÍNH CÁC LOÀI CÁ NÓC PHÂN TÍCH THEO PHƢƠNG PHÁP MBA Để xác định mức độ độc (độc tính) của các loài cá Nóc nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp thử sinh học trên chuột (MBA - Mouse Bioassay). Kết quả phân tích độc tính của từng loài đƣợc tổng hợp ở phụ lục 3, đƣợc thể hiện ở hình 6. Hình 6: Độc tính một số loài cá Nóc biển Việt Nam theo MBA Số liệu trên hình 6 cho thấy các loài cá Nóc có mức độ độc khác nhau. Trong cùng một loài, cũng có sự khác nhau về độc tính giữa các bộ phận, giữa các giai đoạn chín sinh dục, thời gian trong năm và cả vùng phân bố loài đó. Sự khác nhau đó đƣợc thể hiện rõ chi tiết trong các phần đƣợc trình bày dƣới đây. 3.1.1. Biến động độc tính trong các bộ phận 3.1.1.1. Cá Nóc chấm cam vằn mắt Torquigener brevipinnis (Regan, 1903) Loài cá Nóc này ít bắt gặp, chỉ xuất hiện ở vùng biển Trung bộ và Đông Tây Nam bộ, có kích thƣớc khá nhỏ, chiều dài thƣờng bắt gặp nằm trong khoảng 9 – 12 cm, chiều dài tối đa là 16,8 cm. Tuy nhiên, khi tiến hành phân tích độc tính thì tất cả
mẫu phân tích của loài này đều cho kết quả dƣơng tính theo phƣơng pháp thử sinh học trên chuột (phụ lục 3). Mức độ độc giữa các bộ phận của loài cá Nóc này có sự khác biệt rõ ràng, thể hiện trong bảng 4 và đồ thị ở hình 7. Bảng 4: Độc tính (ĐT) trong các bộ phận của loài cá Nóc Torquigener brevipinnis Hình 7: Độc tính trong các bộ phận của loài cá Nóc Torquigener brevipinnis Trong tất cả các bộ phận phân tích, trứng và gan là các bộ phận có độc tính trung bình cao nhất ở loài cá Nóc này. Trứng có giá trị độc tính trung bình (ĐT trung bình) là 387,81 MU/g, còn gan có giá trị độc tính trung bình là 253,30 MU/g. Tuy nhiên, bộ phận có độc tính cao nhất (ĐT max) trong các bộ phận phân tích là gan với 2255,61 MU/g. Bộ phận có giá trị độc tính trung bình thấp nhất là da với 27,83 MU/g.
Căn cứ vào giá trị độc tính cao nhất của từng bộ phận trong các kết quả phân tích có thể sắp xếp thứ tự từ cao xuống thấp mức độ độc các bộ phận của loài cá Nóc này nhƣ sau: Gan (2255,61 MU/g) > Ruột (747,19 MU/g) > Trứng (602,60 MU/g) > Thịt (199,97 MU/g) > Da (139,97 MU/g) > Tinh sào (138,17 MU/g). Với kết quả phân tích nhƣ trên, nếu ăn phải loài cá Nóc này, chỉ cần ăn chƣa đến 5g gan, hoặc khoảng 50 gam thịt, cũng đủ gây tử vong cho một ngƣời trƣởng thành. 3.1.1.2. Cá Nóc đầu thỏ chấm tròn Lagocephalus sceleratus (Gmelin, 1789) Trong giống Lagocephalus, đây là loài có kích thƣớc tối đa tƣơng đối lớn, chiều dài toàn thân (TL) có thể đạt tới 120 cm. Tuy nhiên, ở biển Việt Nam loài này thƣờng đánh bắt đƣợc có kích thƣớc chỉ đạt khoảng 12 - 20 cm. Trong mẫu thu thập đƣợc của chúng tôi, có vài cá thể đạt kích thƣớc trên 40 cm với khối lƣợng khoảng 3 kg. Kết quả phân tích độc tính bằng MBA của 11 mẫu loài Lagocephalus sceleratus đƣợc tổng hợp trong phụ lục 3 và hình 6 cho thấy đây cũng là loài có độc tính khá cao. Có thể thấy rõ độc tính biến động phức tạp giữa các bộ phận qua số liệu tổng hợp ở bảng 5. Bảng 5: Độc tính (ĐT) trong các bộ phận của loài cá Nóc Lagocephalus sceleratus Kết quả phân tích cho thấy ở loài này có những mẫu cho kết quả âm tính theo MBA, nhiều mẫu khác cho kết quả độc tính rất cao, trong đó độc tính đạt mức cao nhất ở mẫu gan là 1841,80 MU/g. Tuy nhiên, tính trung bình trên nhiều mẫu thì cho thấy mức độ tập trung độc tố trong gan là cao nhất (ĐT trung bình là 248,21 MU/g), tiếp đến là trứng với ĐT trung bình là 217,42MU/g. Tinh sào có mức độc tính trung bình thấp nhất với giá trị độc tính trung bình là 6,88 MU/g.
Có thể sắp xếp thứ tự từ cao xuống thấp về mức độc tính cao nhất trong các bộ phận của loài Lagocephalus sceleratus nhƣ sau: Gan (1841,80 MU/g) > Ruột (472,24 MU/g) > trứng (385,36 MU/g) > thịt (68,51 MU/g) > da (56,78 MU/g) > mật (47,22 MU/g) > tinh sào (23,81 MU/g). 3.1.1.3. Cá Nóc vằn Takifugu oblongus (Bloch, 1786) Loài này có kích thƣớc tƣơng đối lớn, chiều dài TL tối đa khoảng 40 cm. Nhóm chiều dài thƣờng bắt gặp nằm trong khoảng 15 – 25 cm. Đây là loài thƣờng bắt gặp, phân bố ven bờ từ Bắc vào Nam. Chúng tôi đã thu thập và phân tích độc tính đƣợc 21 mẫu của loài này. Kết quả phân tích độc tính trình bày ở phụ lục 3 và biểu thị trên hình 6 cho thấy loài Takifugu oblongus thuộc nhóm loài có độc tính mạnh. Sự biến động độc tính phức tạp giữa các bộ phận đƣợc thể hiện rõ trong bảng 6 dƣới đây. Bảng 6: Độc tính (ĐT) trong các bộ phận của loài cá Nóc Takifugu oblongus Độc tố ở loài này tập trung nhiều nhất ở các bộ phận trứng và gan. Độc tính trung bình ở trứng có giá trị là 297,93 MU/g, còn ở gan thì thấp hơn trứng 4 lần với 69,07 MU/g. Thịt có mức độc tính trung bình thấp nhất với 2,51 MU/g. Trong các bộ phận phân tích, chỉ riêng tất cả các mẫu trứng là cho kết quả dƣơng tính với MBA, còn các bộ phận khác có những mẫu cho kết quả âm tính (ND). Điều này cho thấy sự biến động về độc tính không chỉ ở mức độ loài mà còn ở mức độ cá thể trong loài. Ở loài cá Nóc này, mẫu phân tích có độc tính cao nhất là trứng với 1553 MU/g. Mức độ độc cao nhất của từng bộ phận có thể đƣợc sắp xếp theo thứ tự giảm dần nhƣ sau: Trứng (1553,00 MU/g) > Gan (698,25 MU/g) > Ruột (250,13 MU/g) > tinh sào (67,33 MU/g) > Mật (54,31 MU/g) > Da (21,41 MU/g) > Thịt (11,55 MU/g).
3.1.1.4. Cá Nóc chuột vằn bụng Arothron hispidus (Linnaeus, 1758) Loài cá Nóc này có kích thƣớc khá lớn, chiều dài thân tối đa khoảng 50 cm, là loài thƣờng gặp ở biển Việt Nam. Chúng tôi đã thu đƣợc các mẫu loài này ở vùng biển miền Trung và Đông Nam bộ và phân tích độc tính 16 mẫu. Kết quả đƣợc thể hiện tổng quát trong bảng 7 và đồ thị hình 8 sau đây. Bảng 7: Độc tính (ĐT) trong các bộ phận của loài cá Nóc Arothron hispidus Hình 8: Độc tính trong các bộ phận loài cá Nóc Arothron hispidus Từ đồ thị trên dễ dàng nhận thấy ở loài này, độc tính tập trung nhiều ở trứng và da. Trứng có độc tính cao nhất trong các bộ phận với mức độc tính trung bình là 740,17 MU/g. Da có độc tính trung bình đạt mức cao thứ 2, nhƣng chỉ với 64,33 MU/g. Tuy nhiên, mức độc tính cao nhất đã phân tích đƣợc của mẫu da ở loài này là 201,96 MU/g.
Hầu hết các bộ phận phân tích của loài này (trừ tinh sào) đều có những mẫu cho những kết quả âm tính, và cũng có những mẫu có độc tính rất cao. Mẫu trứng có mức độc cao nhất (ĐT max) lên tới 3131,5 MU/g. Nhƣ vậy, ở loài cá Nóc này: độc tính cao nhất ở trứng là 3131,52 MU/g, ở da là 201,96 MU/g, ở tinh sào là 145,01 MU/g, ở gan là 30,96 MU/g, ở ruột là 30,39 MU/g, ở thịt là 15,64 MU/g và ở mật là 5,84 MU/g. 3.1.1.5. Cá Nóc chuột chấm đen Arothron stellatus (Bloch & Schneider, 1801) Loài cá Nóc này có kích thƣớc khá lớn, chiều dài thân tối đa khoảng 120 cm. Chiều dài khai thác thƣờng là 15 – 25 cm. Là loài khá phổ biến, bắt gặp ở vịnh Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ và quần đảo Trƣờng Sa. Tuy nhiên, chúng tôi mới chỉ thu mẫu, phân tích đƣợc 14 mẫu loài này ở vùng biển Khánh Hòa và Bình Thuận. Kết quả phân tích đầy đủ ở phụ lục 3 và đƣợc tổng hợp trong bảng 8. Bảng 8: Độc tính (ĐT) trong các bộ phận của loài cá Nóc Arothron stellatus Từ số liệu ở bảng 8, chúng tôi thấy rằng: trứng và tinh sào có mức độc cao nhất. Mẫu trứng có mức độc cao nhất là 2487 MU/g, trung bình là 746 MU/g. Tinh sào có mức độc tính cao nhất là 355,40 MU/g, mức độc trung bình là 105,45 MU/g. Các bộ phận còn lại mức độc tính chênh lệch nhau không nhiều, trong đó thịt và mật có độc tính trung bình thấp nhất. Số liệu phân tích cho thấy ở loài Arothron stellatus, độc tính cao nhất ở trứng là 2487,00 MU/g, ở tinh sào là 355,40 MU/g, ở da là 85,25 MU/g, ở ruột là 48,16 MU/g, ở gan là 46,70 MU/g, ở thịt là 17,63 MU/g và ở mật là 14,17 MU/g. Nhận xét chung: Sau khi phân tích độc tính cụ thể của từng loài cá Nóc nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau đây:
- Đây là những loài có mức độc rất cao. Tất cả các loài này đều có hơn một mẫu có mức độc tính trên 1000 MU/g (mức độc rất mạnh). Trong đó, mẫu trứng của loài Arothron stellatus có độc tính cao nhất (3131,52 MU/g). - Mức độc tính biến động không những theo loài, theo các bộ phận mà còn biến đổi khác nhau ở các cá thể trong cùng một loài. Cùng một bộ phận của một loài, mẫu của cá thể này cho kết quả âm tính (ND), nhƣng mẫu của cá thể lại cho kết quả độc nhẹ hay độc mạnh. - Nhìn chung, độc tố tập trung chủ yếu ở trứng và gan. Trứng của các loài Arothron stellatus, Arothron hispidus, Takifugu oblongus và gan của các loài Torquigener brevipinnis, Lagocephalus sceleratus có mức độc rất mạnh (trên 1000 MU/g). Ngoài ra, mức độc tính mạnh (từ 100 – 999 MU/g) còn có ở các mẫu phân tích các bộ phận khác. - Thịt và da thƣờng là các bộ phận mức tập trung độc tố thấp nhất. Tuy nhiên, ở loài cá Nóc chuột vằn bụng Arothron hispidus, trứng có mức độc cao nhất, tiếp đến là da có mức độc tính trung bình ở độ độc mạnh. Có thể biểu diễn mức độc tính của từng bộ phận của các loài một cách trực quan trong bảng sau: Bảng 9: Bảng tổng hợp về mức độ độc cao nhất trong các bộ phận của các loài cá Nóc. Các ký hiệu trong bảng: : Độc rất mạnh (gây chết): Với dưới 10 gam các bộ phận mà lượng độc tố trên 1000 MU/g thì sẽ gây chết người ◎: Độc mạnh: Từ 10 – 100 gam các bộ phận mà lượng độc tố trên 100 MU/g và chưa đến 1000MU/g thì gây chết người. : Độc nhẹ: Từ 100 – 1000 gam các bộ phận mà lượng độc tố trên 10MU/g và chưa đến 1000MU/g thì sẽ gây chết người. ○: Không độc: Với dưới 1 kg các bộ phận mà lượng độc tố chưa đến 10MU/g thì không gây chết người (liều không gây hại).
3.1.2. Biến động độc tính theo thời gian trong năm 3.1.2.1. Cá Nóc chấm cam vằn mắt Torquigener brevipinnis (Regan, 1903) Loài cá Nóc chấm cam vằn mắt Torquigener brevipinnis là loài ít bắt gặp, chúng tôi đã tiến hành thu đƣợc mẫu của 5 tháng trong năm: tháng 3, 5, 6, 7 và tháng 10. Đây là loài có kích thƣớc bé nhƣng lại có độc tính rất mạnh và độc ở tất cả các bộ phận. Kết quả phân tích các mẫu ở từng bộ phận của loài này trong các tháng đƣợc biểu diễn trên đồ thị hình 9 sau đây. 1 10 100 1000 10000 012345678910 11 12 ThÞt Da Gan Ruét MËt Trøng Tinh sµo §-êng trung b×nh Hình 9: Đồ thị biểu diễn biến động độc tính theo các tháng trong các bộ phận của loài T. brevipinnis Kết quả trên đồ thị cho thấy, loài này có độc tính cao tập trung vào tháng 5 và tháng 6. Hầu hết các bộ phận đều đạt mức cao nhất vào tháng 6: gan có độc tính cao nhất với 1448,59 MU/g, ruột là 721,94 MU/g. Thịt có độc tính là 192,22 MU/g, và da là 80,78 MU/g. Mẫu trứng đạt mức độc cao nhất vào tháng 3 với 602,60 MU/g. Khi tiến hành giải phẫu mẫu vật, chúng tôi thấy rằng thời điểm phát hiện độc tính cao trong mẫu trứng trùng hợp với giai đoạn thành thục của buồng trứng. Buồng trứng phát triển lớn, chiếm thể tích lớn trong khoang bụng, lúc này buồng trứng đã ở giai đoạn V. Đây là giai đoạn sẵn sàng cho cá để trứng. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của tác giả Hashimoto (1979), độc tính sẽ tăng cao khi cá đến mùa sinh sản.
Tuy nhiên, các bộ phận khác của loài này trong tháng 3 không ở mức cao: ruột chỉ ở mức 51,96 MU/g, da là 29,17 MU/g, gan là 13,68 MU/g, thịt là 5,35 MU/g. Tinh sào là 2,65 MU/g. Các tháng 7 và 10, độc tính trong các bộ phận có xu hƣớng giảm xuống. Trong tháng 10, mẫu da và thịt đều ở mức không độc (dƣới 10 MU/g). Nhƣ vậy, nhìn chung ở loài này, từ tháng 7 đến tháng 10 độc tính trong các bộ phận giảm xuống, sau đó tăng dần lên cho đến giữa năm sau và đạt mức cao nhất vào tháng 6. 3.1.2.2. Cá Nóc đầu thỏ chấm tròn Lagocephalus sceleratus (Gmelin, 1789) Cá Nóc đầu thỏ chấm tròn L. sceleratus, có kích thƣớc khá lớn, phổ biến ở vùng biển Trung bộ và Nam bộ và là loài có độc tính rất mạnh. Chúng tôi đã thu mẫu và phân tích độc tính trong các bộ phận của loài này đƣợc 5 tháng: tháng 1, 4, 5, 6 và tháng 10. Kết quả phân tích về sự biến động độc tính theo các tháng trong các bộ phận của loài cá Nóc đầu thỏ chấm tròn L. sceleratus đƣợc trình bày ở đồ thị hình 10. 0 1 10 100 1000 10000 012345678910 11 12 ThÞt Da Gan Ruét MËt Trøng Tinh sµo §-êng trung b×nh Hình 10: Đồ thị biểu diễn biến động độc tính theo các tháng trong các bộ phận của loài L. sceleratus
Từ đồ thị hình 10, chúng ta thấy sự biến đổi độc tính trong các bộ phận của loài cá Nóc L. sceleratus theo các tháng nghiên cứu là rất rõ ràng và có chung một quy luật biến đổi. Mức độc tính ở các bộ phận của loài này đều thấp nhất vào tháng 10. Vào thời gian này, tinh sào có độc tính là 5,36 MU/g, ruột là 4,86 MU/g, ở thịt là 2,44 MU/g, ở gan là 0,80 MU/g. Da và mật có kết quả âm tính với MBA. Nhƣ vậy, ở tháng này mức độc của loài này là rất thấp. Theo quy định về độ độc, các bộ phận có mức độc dƣới 10 MU/g thì đƣợc coi là không độc. Tuy nhiên vào tháng 1 và các tháng sau đó thì mức độc ở các bộ phận đều tăng lên. Đặc biệt vào tháng 4, độc tính ở trứng đạt mức độc mạnh với 385,36 MU/g. Đây là thời điểm loài cá Nóc này mang trứng đang ở giai đoạn V, giai đoạn chuẩn bị cho đẻ trứng. Các bộ phận khác có mức độc tính tăng lên mức cao nhất khi đến thời điểm tháng 5. Trong tháng này, gan ở mức độc rất mạnh với 1841,80 MU/g. Độc tính ở ruột là ở độ độc mạnh với 435,02 MU/g, ở thịt là 68,51 MU/g, ở da là 46,51 MU/g. Đến tháng 6, và các tháng sau đó, độc tính trong các bộ phận của loài này lại giảm xuống. Nhƣ vậy, cá Nóc đầu thỏ chấm tròn L. scleratus là loài có mức độ độc mạnh, mức độc đó không chỉ biến động khác nhau giữa các bộ phận mà biến động rất rõ ràng theo thời gian trong năm. Loài này có độc tính cực độc vào tháng 4, 5 và 6 và giảm độc tính đến mức thấp nhất khi đến tháng 10. Là loài cá Nóc thƣờng gặp, có kích thƣớc lớn, thịt trắng và trông hấp dẫn, nhƣng chúng ta hoàn toàn tuyệt đối không đƣợc sử dụng loài cá Nóc này làm thực phẩm. 3.1.2.3. Cá Nóc vằn Takifugu oblongus (Bloch, 1786) Loài cá Nóc này có kích thƣớc vừa phải, thƣờng sống ở cửa sông, vùng nƣớc ven bờ và là loài thƣờng gặp. Chúng tôi đã thu mẫu, phân tích độc tính của loài này với 6 tháng trong năm, trong đó có 5 tháng liên tiếp từ tháng 1 đến tháng 5 và các mẫu tháng 10.
Kết quả phân tích đã cho thấy ở loài này trứng độc rất mạnh, gan và ruột độc mạnh, thịt, da, mật, tinh sào độc nhẹ. Sự biến động độc tính không chỉ giữa các bộ phận mà theo các tháng trong năm, các bộ phận còn có sự biến động rất khác nhau, thể hiện rõ trên đồ thị hình 11. 0.1 1 10 100 1000 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 ThÞt Da Gan Ruét MËt Trøng Tinh sµo §-êng trung b×nh Hình 11: Đồ thị biểu diễn biến động độc tính theo các tháng trong các bộ phận của loài T. oblongus Nhìn trên đồ thị chúng ta thấy rằng sự biến động về hàm lƣợng độc tố trong các bộ phận của cơ thể cá Nóc loài T. oblongus theo các tháng là không giống nhau và phức tạp. Trứng có mức độc mạnh vào tháng 2 và độc rất mạnh vào tháng 10. Vào tháng 2, mức độc là 203,21 MU/g, đây là lúc cá thể cái vừa sinh sản xong, trứng đang ở giai đoạn VI-2. Còn ở tháng 10, trứng ở giai đoạn IV và V, cá chuẩn bị đẻ trứng, mức độc tăng vọt lên đến 1553 MU/g. Độc tính ở gan, da, thịt, ruột có sự biến đổi khá giống nhau. Vào tháng 2, mặc dù trứng có mức độc mạnh nhƣng các bộ phận này lại cho kết quả âm tính với MBA. Đến tháng 10, độc tính trong các bộ phận này đều tăng và đạt mức cao, trong đó gan có mức độc cao nhất với 698,25 MU/g. Độc tính ở ruột là 250,13 MU/g, ở da là 12,51 MU/g.
Kết quả nghiên cứu cho thấy loài cá Nóc này có sự biến động độc tố giữa các tháng khá phức tạp, là loài có mức độc mạnh, trứng thì độc rất mạnh, nhƣng nhìn chung do có hiểu biết và kinh nghiệm nên ngƣ dân thƣờng vứt bỏ loài cá này trên biển, ngay sau khi đánh bắt, một số lƣợng ít loài này đƣợc mang về bờ vì có lẫn trong nhiều loài cá khác. Vì thế đã không xẩy ra các vụ ngộ độc gây tử vong do ăn phải loài cá Nóc này. 3.1.2.4. Cá Nóc chuột vằn bụng Arothron hispidus (Linnaeus, 1758) Cá Nóc chuột vân bụng A. hispidus là loài thƣờng bắt gặp ở biển Trung bộ và biển Nam bộ. Các nghiên cứu của Đỗ Tuyết Nga và cs., 2003, Võ Sĩ Tuấn và cs., 2004 đã ghi nhận loài này chỉ có độc tố trong da và trứng. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, kết quả phân tích cho thấy đây là loài độc rất mạnh, thêm vào đó mức độ độc cũng thay đổi khá lớn theo các tháng thu mẫu. Sự biến động độc tính đó đƣợc thể hiện rõ trên đồ thị hình 12. 0.1 1 10 100 1000 10000 012345678910 11 12 ThÞt Da Gan Ruét MËt Trøng Tinh sµo §-êng trung b×nh Hình 12: Đồ thị biểu diễn biến động độc tính theo các tháng trong năm của các bộ phận loài A. hispidus Ở loài này, mùa vụ sinh sản của chúng là vào khoảng tháng 8 - 9, đây cũng là thời điểm có mức độ độc rất mạnh, độc tính ở buồng trứng lên đến 2343,60 MU/g. Tuy nhiên, độc tính trung bình cao nhất của loài A. hispidus trong nghiên cứu này là
các mẫu bắt gặp vào tháng 1. Vào thời điểm này, trứng có độc tính lên tới 3131,52 MU/g. Giai đoạn này, mẫu trứng phân tích cũng đang ở độ V (giai đoạn V), cá chuẩn bị cho đẻ trứng. Điều đặc biệt dễ nhận thấy khi so sánh mức độ độc với các loài khác, ở loài này là độc tính ở da đạt mức độc mạnh và cao hơn so với bộ phận gan mà đƣợc coi là nơi tích tụ độc tố và cao hơn một số bộ phận khác. Mức độc tính trong da đạt giá trị cao nhất vào thời điểm tháng 1 và tháng 9. Vào tháng 1, độc tính lên tới 201,96 MU/g, còn tháng 9 là 133,81 MU/g. Tuy rằng độc tính ở các bộ phận khác nhƣ thịt, gan, ruột, mật là không cao, nhƣng theo các nhà khoa học Nhật Bản, độc tố có thể tích lũy trong các cơ quan khác nhau của cơ thể tùy thuộc vào từng thời điểm khác nhau. Các kết quả phân tích cho thấy vào tháng 5 và tháng 10 độc tính của loài này giảm mạnh. Kết quả phân tích theo MBA là âm tính đối với các mẫu thu đƣợc ở tháng 10. Cá Nóc chuột vân bụng Arothron hispidus là một trong những loài cá Nóc có kích thƣớc lớn, thịt cá dai, trắng nên khá hấp dẫn. Tuy nhiên, nếu ăn phải một buồng trứng vào mùa sinh sản của loài cá Nóc này, khoảng 20 gam hoặc hơn, có thể gây tử vong 4 - 5 ngƣời. Trên thực tế, ở Việt Nam, đã từng xẩy ra trƣờng hợp cả gia đình bị tử vong do ăn phải buồng trứng cá Nóc. Do vậy, các cơ quan có chức năng cần tuyên truyền để ngƣời dân, đặc biệt là ngƣ dân ven biển tuyệt đối không đƣợc sử dụng loài này làm thực phẩm. 3.1.2.5. Cá Nóc chuột chấm đen Arothron stellatus (Bloch & Schneider, 1801) Nóc chuột chấm đen A. stellatus là loài thƣờng bắt gặp ở biển Trung bộ và biển Nam bộ. Trong các nghiên cứu của Đỗ Tuyết Nga và cs., 2004, chỉ phát hiện độc tính trong trứng của loài này với hàm lƣợng khá cao. Nghiên cứu của Tabeta (1984), Shiomi và Nagashima (2000) ghi nhận độc tính rất mạnh ở trứng, độc nhẹ ở gan, không độc ở thịt, da, ruột. Trong nghiên cứu này, tất cả các bộ phận thịt, da, gan, ruột, mật, trứng và tinh sào đều cho kết quả dƣơng tính khi thử nghiệm MBA. Sự biến động độc tính của loài
này theo các tháng trong năm là khá rõ ràng. Trong đó, trứng là nơi tập trung độc tố cao nhất. Vào tháng 9 và tháng 10 độc tính ở trứng lên tới 2487,01 MU/g. Vào tháng 5, trứng có độc tính thấp nhất là 19,51 MU/g. Một số bộ phận khác đạt mức độc tính cao nhất ở các tháng khác nhau. Gan đạt mức cao nhất vào tháng 10 (46,70 MU/g). Tinh sào cũng có mức cao nhất vào tháng này (355,40 MU/g). Phần thịt của các mẫu thu vào tháng 3 có độc tính là 17,63 MU/g, ở mức độc nhẹ. Trong tháng 3, da cũng đạt mức độc tính cao nhất với 85,25 MU/g. Riêng các mẫu thu đƣợc vào tháng 1 đều cho kết quả âm tính khi thử nghiệm MBA. Cũng nhƣ loài Arothron hispidus, loài này có kích thƣớc lớn, thịt dai, trắng và thƣờng dễ bắt gặp. Tuy nhiên, tránh sử dụng loài này để làm thực phẩm. Nhận xét chung: Qua kết quả nghiên cứu về biến động độc tính theo các tháng trong năm của 5 loài cá Nóc trên đây, chúng tôi đi đến một số kết luận: - Tính độc trong các loài biến động khá phức tạp theo thời gian. Độc tố trong một bộ phận có thể có hàm lƣợng ở mức thấp vào tháng này nhƣng sẽ đạt mức cao vào tháng khác. Trứng và gan là những bộ phận có độc tính cao và cho thấy sự biến động độc tính rõ ràng nhất. - Thời điểm cá Nóc vào mùa sinh sản (thông thƣờng là các tháng 2 - 3 hoặc các tháng 7-9), độc tính trong trứng và một số bộ phận khác ở mức cao nhất, đạt mức độc rất mạnh. Ở 2 loài Torquigener brevipinnis và Lagocephalus sceleratus, độc tính trong các bộ phận cao nhất vào tháng 5 và tháng 6. - Phần thịt có thể cho kết quả âm tính với MBA hoặc có mức không độc (dƣới 10 MU/g) vào một số tháng trong năm. Tuy nhiên, tuyệt đối không đƣợc sử dụng thịt hay bất kỳ một bộ phận nào của các loài cá Nóc này làm thực phẩm, rất nguy hiểm cho sức khỏe và tính mạng con ngƣời.
3.1.3. Biến động độc tính theo giai đoạn chín sinh dục Để tiến hành nội dung nghiên cứu này, chúng tôi nghiên cứu sự biến động độc tính theo giai đoạn chín sinh dục riêng rẽ cho từng giới tính ở từng loài cá Nóc. Đối với cá thể đực, độ chín sinh dục ở tinh sào bao gồm 5 giai đoạn, đƣợc ký hiệu theo quy định bằng chữ số La Mã từ I đến V. Đối với cá thể cái, độ chín sinh dục ở trứng gồm 6 giai đoạn, đƣợc đánh ký hiệu từ I đến VI. Việc thu đƣợc đầy đủ các giai đoạn chín sinh dục của các loài là vô cùng khó khăn vì phụ thuộc khách quan vào khả năng bắt gặp, số lƣợng mẫu, biến động của thời tiết, địa điểm thu mẫu và tập tính của từng loài cá Nóc. Ngoài ra, sự khó khăn trong thu mẫu còn do hiện nay Chính phủ đang có lệnh cấm thu mua, chế biến và kinh doanh cá Nóc, nên hầu hết ngƣ dân sau khi đánh bắt cá, thƣờng đổ hết cá Nóc trên biển, chỉ một số ít lƣợng cá Nóc có lẫn trong các mẻ cá đƣợc đƣa về bờ. Tuy nhiên, chúng tôi đã cố gắng thu thập mẫu trên tàu nghiên cứu, thu thập mẫu tại các bến cá, cảng cá để phục vụ nội dung nghiên cứu này. Các cá thể từng loài sau khi đã xác định độ chín sinh dục, đƣợc phân tích độc tính trong các bộ phận bằng phƣơng pháp thử sinh học trên chuột (MBA). Sau đây là số liệu phân tích độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục của các loài nghiên cứu. 3.1.3.1. Cá Nóc vằn Takifugu oblongus (Bloch, 1786) Trong số các loài nghiên cứu, loài cá Nóc vằn T. oblongus có số mẫu thu đƣợc theo các giai đoạn chín sinh dục đầy đủ nhất, bao gồm: 4 giai đoạn cho giới tính đực, 5 giai đoạn cho giới tính cái. Dƣới đây là độc tính theo từng giai đoạn cho từng giới tính. a/ Độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục ở cá thể đực Các giai đoạn chín sinh dục ở cá thể đực loài T. oblongus đã thu thập đƣợc gồm các giai đoạn II, III, IV và V. Kết quả phân tích độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục đƣợc thể hiện trên hình 13.
ThÞt Da Gan Ruét MËt Tinh sµo §-êng trung b×nh Hình 13: Độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục ở cá thể đực T. oblongus Hình 13 cho thấy độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục ở cá thể đực thay đổi theo kiểu hàm số sin. Ở giai đoạn II, độc tính của các bộ phận đang ở mức độ cao, đến giai đoạn III độc tính giảm xuống cực tiểu (các bộ phận đều có độc tính ở mức ND). Sau đó độc tính lại tăng nhanh và đạt cực đại ở giai đoạn IV đối với tất cả các bộ phận, đặc biệt gan chứa độc tố cao nhất. Nhƣng đến giai đoạn V, độc tính ở các bộ phận đều giảm xuống. Đƣờng trung bình trên hình 14 cũng cho thấy các cá thể đực đang ở độ chín sinh dục giai đoạn IV có độc tính cao nhất. b/ Độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục ở cá thể cái Các giai đoạn chín sinh dục ở cá thể cá Nóc cái T. oblongus chúng tôi đã phân tích đƣợc gồm các giai đoạn II, III, IV, V và VI. Kết quả xử lý số liệu phân tích độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục đƣợc thể hiện trên hình 14. Kết quả phân tích cho thấy ở phần thịt không có sự thay đổi độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục, các cá thể đã phân tích đều không có độc tính ở thịt (ND). Riêng trứng là bộ phận có độc tính lớn nhất và có sự thay đổi độc tính theo giai đoạn nhiều nhất.
Xét về mức độ tính độc của các cá thể đã phân tích thì thấy ở giai đoạn II trứng có độc tính cao nhất, đến giai đoạn III lại giảm xuống, đến giai đoạn IV độc tính lại tăng dần lên và đạt tƣơng đối cao ở giai đoạn V, sau đó thì giảm xuống cực tiểu ở giai đoạn VI. Giai đoạn này, cá đã hoàn thành chu trình sinh sản trong năm. ThÞt Da Gan Ruét MËt Trøng §-êng trung b×nh Hình 14: Độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục ở cá thể cái T. oblongus Nếu xét tổng thể về mức độ độc của tất cả các bộ phận thì ở giai đoạn V, T.oblongus tập trung hàm lƣợng độc tố cao nhất. Có lẽ đây là mùa sinh sản chính của chúng. 3.1.3.2. Cá Nóc chấm cam vằn mắt Torquigener brevipinnis (Regan, 1903) Ở loài cá Nóc này, chúng tôi đã thu đƣợc các mẫu của một số giai đoạn chín sinh dục. Đối với cá thể đực, bao gồm giai đoạn II và IV; cá thể cái là các giai đoạn II và III. Kết quả phân tích độc tính trong các giai đoạn chín sinh dục đƣợc trình bày sau đây. a/ Độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục của các cá thể đực Sự biến động độc tính trong các bộ phận theo các giai đoạn II và IV ở loài này đƣợc biểu thị trong bảng 10. Kết quả phân tích các cá thể đực loài này cho thấy, có 2 xu hƣớng biến động độc tính trái ngƣợc nhau trong các bộ phận ở hai giai đoạn chín sinh dục II và IV. Bộ phận tinh sào của các cá thể đực ở giai đoạn IV có độc tính cao
hơn 3,2 lần so với các các thể đực ở giai đoạn II (19,76 MU/g). Điều này cho thấy bộ phận sinh dục đực sẽ chứa độc tố cao hơn khi càng đến gần giai đoạn thành thục. Bảng 10: Độc tính trong các bộ phận của các cá thể đực loài cá Nóc T. brevipinnis ở các giai đoạn chín sinh dục khác nhau Các bộ phận khác gồm thịt, da, gan, ruột của các cá thể đực có xu hƣớng biến động độc tính theo xu hƣớng ngƣợc lại với sự biến động độc tính ở tinh sào. Các bộ phận này ở các cá thể đực giai đoạn II có độc tính ở cao hơn so với các cá thể giai đoạn IV. Trong đó, bộ phận gan và ruột biểu hiện về sự biến động rõ ràng nhất. Độc tính ở gan chênh lệch 5,32 lần giữa 2 giai đoạn, còn ruột là 20,08 lần. b/ Độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục ở các cá thể cái Các giai đoạn chín sinh dục ở cá thể cá Nóc cái T. brevipinnis đã phân tích đƣợc gồm các giai đoạn II và III. Từ bảng 11 cho thấy, tất cả các bộ phận phân tích ở các cá thể cái giai đoạn chín sinh dục II đều cho kết quả cao hơn so với giai đoạn III. Mức chênh lệch độc tính ở trứng giữa giai đoạn II và III không lớn, trứng giai đoạn II có độc tính chỉ cao hơn 4,6 lần so với giai đoạn III. Tuy nhiên, ở các bộ phận khác, sự chênh lệch về độc giữa 2 giai đoạn là rất lớn. Gan ở các cá thể giai đoạn II có độc tính gấp 31 lần so với giai đoạn III, ở ruột chênh lệch 26 lần, thịt là 21 lần và da là 17 lần. Bảng 11: Độc tính trong các bộ phận của các cá thể cái loài cá Nóc T. brevipinnis ở các giai đoạn chín sinh dục khác nhau
Nhƣ vậy, so sánh và phân tích số liệu ở 2 bảng 10 và 11 , có thể thấy độc tính ở các cá thể cái loài T. brevipinnis có độc tính cao hơn so với cá thể đực. Các bộ phận thịt, da, gan, ruột, trứng ở các cá thể có độ chín sinh dục thấp hơn nhƣng lại có độc tính cao hơn. Tuy nhiên, cần thiết phải nghiên cứu thêm các giai đoạn khác để có kết luận chính xác hơn nữa. 3.1.3.3. Cá Nóc đầu thỏ chấm tròn Lagocephalus sceleratus (Gmelin, 1789) a/ Độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục của các cá thể đực Ở loài cá Nóc này, chúng tôi đã thu mẫu và phân tích độc tính theo độ chín sinh dục của các cá thể đực đƣợc 3 giai đoạn II, III và V. Kết quả xử lý số liệu phân tích độc tính trên bảng 12 cho thấy sự biến động độc tính trong các bộ phận theo các giai đoạn chín sinh dục ở giới tính đực loài này khá phức tạp. Độc tính trong các bộ phận biến đổi theo các giai đoạn theo các chiều hƣớng khác nhau. Bảng 12: Độc tính trong các bộ phận của các cá thể đực loài cá Nóc L. sceleratus ở các giai đoạn chín sinh dục khác nhau Tinh sào ở giai đoạn III có độc tính cao hơn so với các giai đoạn II và V thì các bộ phận khác ở giai đoạn này lại có độc tính rất thấp: thịt, da, gan, mật đều cho kết quả âm tính với MBA, ruột có độc tính là 9,93 MU/g. Các bộ phận thịt, da, gan ở các cá thể giai đoạn II cao hơn so với giai đoạn V, nhƣng ruột, mật và tinh sào thì có độc tính thấp hơn. b/ Độc tính theo các giai đoạn chín sinh dục ở các cá thể cái Đối với các cá thể cái, chúng tôi chỉ thu đƣợc 2 giai đoạn II và V để phân tích. Có thể so sánh độc tính giữa 2 giai đoạn này qua số liệu bảng 13.
Bảng 13: Độc tính trong các bộ phận của các cá thể cái loài cá Nóc L. sceleratus ở các giai đoạn chín sinh dục khác nhau Các giai đoạn chín sinh dục Ở các cá thể cái loài L. sceleratus, cũng có sự biến động độc tính theo 2 chiều hƣớng ngƣợc nhau của các bộ phận giữa 2 giai đoạn. Trứng ở giai đoạn V có độc tính cao hơn so với giai đoạn II. Giai đoạn chín sinh dục V là giai đoạn chuẩn bị cho quá trình đẻ trứng ở cá, vì vậy mức tập trung cao của độc tố trong trứng ở giai đoạn này có thể là yếu tố rất quan trọng trong quá trình sinh sản của các loài cá Nóc. Ngƣợc với xu hƣớng tăng mức độc tính ở giai đoạn V của trứng, các bộ phận khác giảm mức độc tính xuống. Có thể thấy rõ nhất sự giảm độc tính ở gan: từ 206,48 MU/g ở giai đoạn II giảm xuống còn 61,05 MU/g ở giai đoạn V. Độc tính ở ruột là giảm ít nhất. Ở loài này các cá thể cái cũng có độc tính cao hơn so với các cá thể đực. Chúng ta có thể nhận thấy, khi độc tính của bộ phận sinh dục tăng thì mức tập trung độc tố trong các bộ phận khác giảm xuống rõ rệt. Qua đó thấy rằng độc tố có thể có vai trò nhất định nào đó trong quá trình sinh sản của cá Nóc. 3.1.3.4. Cá Nóc chuột vằn bụng Arothron hispidus (Linnaeus, 1758) Mặc dù đã cố gắng theo các chuyến điều tra khảo sát thu thập mẫu, song chúng tôi cũng mới chỉ thu mẫu và phân tích đƣợc độc tính của 2 giai đoạn chín sinh dục ở các cá thể cái ở loài cá Nóc này: giai đoạn II và giai đoạn VI. Bảng 14: Độc tính trong các bộ phận của các cá thể cái loài cá Nóc A. hispidus ở các giai đoạn chín sinh dục khác nhau Các giai đoạn chín sinh dục
Số liệu trên bảng 14 cho thấy tất cả mẫu các cá thể ở giai đoạn VI đều cho kết quả âm tính với MBA. Các bộ phận phân tích ở các cá thể có trứng đang ở giai đoạn II đều cho kết quả độc tính từ mức độc nhẹ đến độc mạnh. Trong đó, da là bộ phận có độc tính mạnh nhất với trung bình là 125,34 MU/g. Trứng ở mức độc nhẹ với 11,45 MU/g. Giai đoạn VI là giai đoạn cá đã hoàn thành việc đẻ trứng. Khi phẫu thuật các mẫu này, không còn thấy trứng trong buồng trứng mà chỉ còn vỏ bao bên ngoài. Chúng tôi đã phân tích độc tính của toàn bộ phần còn lại của buồng trứng và cho kết quả nhƣ trên. 3.1.3.5. Cá Nóc chuột chấm đen Arothron stellatus (Bloch & Schneider, 1801) Với loài này, chúng tôi cũng mới chỉ phân tích đƣợc độc tính 2 giai đoạn chín sinh dục ở các cá thể đực: giai đoạn II và giai đoạn III. Bảng 15: Độc tính trong các bộ phận của các cá thể đực loài cá Nóc A. stellatus ở các giai đoạn chín sinh dục khác nhau Các giai đoạn chín sinh dục Từ bảng số liệu trên có thể thấy rằng sự biến động độc tính ở loài này theo 2 giai đoạn chín sinh dục không đƣợc rõ ràng. Các bộ phận da, ruột và tinh sào của các cá thể đang ở giai đoạn II có độc tính cao hơn so với các cá thể giai đoạn III. Mẫu tinh sào ở giai đoạn III cho kết quả âm tính với MBA. Tuy nhiên, mức độc tính ở tinh sào giai đoạn II đƣợc phát hiện ở mức thấp (2,86 MU/g), mức này đƣợc coi là không độc. Bộ phận da cho thấy sự chênh lệch rõ ràng nhất về độc tính giữa 2 giai đoạn. Độc tính trong mẫu da của các cá thể giai đoạn II gấp 5,38 lần so với các cá thể ở giai đoạn III. Thịt và gan có sự chênh lệch độc tính không đáng kể giữa 2 giai đoạn chín sinh dục này.
Nhận xét chung: Qua kết quả phân tích độc tính của 5 loài nghiên cứu theo từng giai đoạn chín sinh dục, chúng tôi đƣa ra một số nhận xét cơ bản nhƣ sau: - Độc tính trong các bộ phận của các cá thể cái cao hơn so với các thể đực. - Có sự biến động độc tính trong các bộ phận cùa mỗi loài theo các giai đoạn chín sinh dục khác nhau. - Khi độc tố tập trung trong các bộ phận sinh dục tăng lên thì độc tố trong các bộ phận khác lại giảm đi. - Các bộ phận sinh dục khi đạt đến độ chín chuẩn bị cho sinh sản thì thƣờng có mức độc tính cao. Sau khi sinh sản thì mức độc tính giảm xuống. 3.1.3. Biến động độc tính theo vùng địa lý Độc tính trong các loài cá Nóc không chỉ biến động theo loài, theo thời gian, theo giai đoạn chín sinh dục, theo giới tính mà nhiều nhà khoa học trên thế giới đã chứng minh đƣợc độc tính trong cá Nóc còn biến động theo vùng địa lý. Nghĩa là một loài cá Nóc có thể sẽ không độc ở vùng biển này, nhƣng lại rất độc ở vùng biển khác. Biển Việt Nam trải dài từ Bắc đến Nam với hơn 3200 km và rất đa dạng về thành phần loài cá Nóc, trong đó có nhiều loài cá Nóc độc. Chúng tôi chia các vùng biển Việt Nam thành: vịnh Bắc bộ (vùng biển từ Quảng Ninh - Quảng Bình), biển Trung bộ (vùng biển từ Quảng Trị - Ninh Thuận), biển Nam bộ (vùng biển Bình Thuận - Kiên Giang) để nghiên cứu sự biến động độc tố theo vùng biển trong một số loài cá Nóc. Trong nghiên cứu này của chúng tôi thì chỉ có loài cá Nóc vằn T. oblongus thu đƣợc trên cả 3 vùng biển: Bắc, Trung, Nam. Còn các loài T. brevipinnis, L. sceleratus và A. stellatus chỉ thu đƣợc các mẫu ở 2 vùng biển Trung Bộ và Nam Bộ. Các mẫu đƣợc thu thập và phân tích độc tính có sự đồng đều về khối lƣợng, kích thƣớc, cùng tháng thu mẫu, cùng giai đoạn chín sinh dục. Sau đây là các kết quả phân tích độc tố của từng loài cho nội dung này.
3.1.3.1. Cá Nóc vằn Takifugu oblongus (Bloch, 1786). Loài cá Nóc vằn Takifugu oblongus thu đƣợc ở cả 3 vùng biển: Hải Phòng, Nghệ An (vịnh Bắc bộ), Khánh Hòa (biển Trung bộ) và Bình Thuận (biển Nam Bộ). Số liệu phân tích ở bảng 16 cho thấy có sự biến động khá lớn về độc tố của loài giữa 3 vùng. Bảng 16: Độc tính trong các bộ phận của loài T. oblongus ở 3 vùng biển Việt Nam Các mẫu thu đƣợc ở biển Trung bộ có độc tính trung bình cao nhất là 192,44 MU/g, gấp 2,4 lần độc tính trung bình các mẫu thu đƣợc ở biển Nam bộ (78,92 MU/g) và gấp 12,3 lần độc tính trung bình các mẫu thu đƣợc ở vịnh Bắc bộ (15,60 MU/g). Các kết quả nghiên cứu cho thấy độc tính ở bộ phận gan và trứng có tính biến động theo vùng địa lý rõ ràng nhất. Gan của các mẫu thu đƣợc ở vùng biển Trung Bộ có độc tính mạnh (260,56 MU/g), trong khi ở vùng biển Nam Bộ và vịnh Bắc bộ độc tính yếu hơn rất nhiều (42,90 MU/g và 13,70 MU/g). Trứng của các mẫu thu đƣợc ở vùng biển Vịnh Bắc bộ có độc tính yếu (69,68 MU/g), còn các mẫu thu đƣợc tại 2 vùng biển Trung Bộ và Nam bộ có độc tính mạnh (780,73 MU/g và 432,57 MU/g). Ngoài ra, ruột và tinh sào của các mẫu cá Nóc vùng biển Trung bộ cũng có độc tính cao hơn so với 2 vùng biển vịnh Bắc bộ và biển Nam bộ. 3.1.3.2. Cá Nóc chuột chấm đen Arothron stellatus (Bloch & Schneider, 1801) Trong các đợt khảo sát và thu mẫu, chúng tôi đã thu đƣợc các mẫu của loài này thuộc 2 vùng biển: Vùng biển Nha Trang thuộc tỉnh Khánh Hòa (biển trung Bộ) và vùng biển Phan Thiết - Bình Thuận. Số liệu ở trên bảng 17 cho thấy có sự biến động rất lớn về độc tính của loài giữa 2 vùng biển. Các mẫu thu đƣợc ở vùng biển Trung
bộ có độc tính trung bình là 174,02 MU/g, gấp 31 lần độc tính các mẫu thu đƣợc ở vùng biển Nam bộ (5,59 MU/g). Bảng 17: Độc tính trong các bộ phận của loài cá Nóc A. stellatus thuộc 2 vùng biển Trung bộ và Nam bộ Kết quả phân tích cho thấy tất cả các bộ phận phân tích gồm: trứng, gan, ruột, da và tinh sào ở các cá thể sống vùng biển Trung bộ độc hơn nhiều so với các cá thể sống ở vùng biển Nam bộ. Trong đó mức chênh lệch độc tính ở mẫu trứng giữa 2 vùng là lớn nhất với 53 lần. Mẫu thịt và mẫu tinh sào của các cá thể thu đƣợc ở biển Nam bộ cho kết quả âm tính với MBA. Mẫu thịt của các cá thể thu đƣợc ở vùng biển Trung bộ có độc tính thấp (5,34 MU/g), còn mẫu tinh sào của các cá thể này thì lại có mức độc mạnh (105,55 MU/g). Nhƣ vậy, kết quả nghiên cứu đã cho thấy loài cá Nóc chuột Arothron stellatus sống ở vùng biển Trung bộ có độc tính cao hơn so với khi chúng sống ở vùng biển Nam bộ. 3.1.3.3. Cá Nóc chấm cam vằn mắt Torquigener brevipinnis (Regan, 1903) Loài cá Nóc chấm cam vằn mắt T. brevipinnis là cũng loài có độc tính rất cao, có thể bắt gặp nhiều ở 2 vùng biển Trung bộ và Nam bộ. Các mẫu loài này đã đƣợc thu thập ở các bến cá tại Khánh Hòa và trên tàu đánh cá của ngƣ dân tại vùng biển Quảng Ngãi, Khánh Hòa và vùng biển Bình Thuận. Tuy nhiên, phần lớn các mẫu thu đƣợc đều là giới tính đực và đang ở giai đoạn chín sinh dục II. Số liệu về phân tích độc tính của loài T. brevipinnis ở 2 vùng biển Trung bộ và Nam bộ ở bảng 18 cho thấy: các mẫu thu đƣợc ở vùng biển Trung bộ cho kết quả phân tích độc tính trung bình ở mức độc mạnh (152,14 MU/g), gấp hơn 6 lần so với mức độc trung bình của các mẫu thu đƣợc ở vùng biển Nam bộ (24,24 MU/g).
Bảng 18: Độc tính trong các bộ phận của loài cá Nóc T. brevipinnis thuộc 2 vùng biển Trung bộ và Nam bộ Trong các bộ phận đƣợc phân tích, ruột, thịt và gan cho thấy sự biến động độc tính lớn nhất. Ruột của mẫu thu đƣợc ở biển Trung bộ có độc tính cao gấp 18,8 lần so với mẫu thu đƣợc ở biển Nam bộ. Độc tính ở thịt cao hơn 7 lần và ở gan cao hơn gần 6 lần. Chênh lệch độc tính ở tinh sào của các mẫu giữa 2 vùng là không đáng kể. Mẫu này ở biển Trung bộ là 55,70 MU/g còn ở biển Nam bộ là 43,65 MU/g. 3.1.3.4. Cá Nóc đầu thỏ chấm tròn Lagocephalus sceleratus (Gmelin, 1789) Số mẫu cá nóc loài này thu đƣợc ở 2 vùng biển Khánh Hòa và Bình Thuận hầu hết là giới tính cái ở độ chín sinh dục giai đoạn V. Chính vì vậy mà kết quả phân tích độc tính trong các bộ phận của loài này đều có mức độ cao (xem bảng 19) và thể hiện khá rõ về sự biến động độc tính giữa 2 vùng biển. Bảng 19: Độc tính trong các bộ phận của loài cá Nóc L. sceleratus thu thập đƣợc 2 vùng biển Trung bộ và Nam bộ Sự biến động độc tính theo vùng biển ở loài này khác với các loài trên. Độc tính trung bình của các mẫu thu đƣợc ở biển Nam bộ (207,98 MU/g) cao hơn so với các mẫu thu đƣợc ở biển Trung bộ (77,74 MU/g). Các bộ phận ruột và trứng cho thấy sự biến động độc tính lớn nhất. Độc tính ở ruột của mẫu thu đƣợc từ vùng biển Nam bộ (350 MU/g) cao gấp 3,5 lần so với mẫu thu đƣợc từ biển Trung bộ. Chênh lệch độc tính ở trứng là 2,8 lần.
Độc lực trong gan của các mẫu ở 2 vùng biển đều ở mức độc mạnh và có sự chênh lệch nhau không đáng kể. Mức độc của mẫu này ở biển Trung bộ là 351 MU/g còn ở biển Nam bộ là 235,68 MU/g. Nhận xét chung: Với các kết quả nghiên cứu trên về biến động độc tính theo vùng biển của từng loài, chúng tôi rút ra nhận xét rằng: có sự biến động rất rõ ràng về độc tính khi các loài cá Nóc sống ở các vùng biển khác nhau. Các loài cá Nóc sống ở vùng biển Trung bộ thƣờng có độc tính mạnh và rất mạnh, cao hơn nhiều lần so với các loài đó ở các vùng biển vịnh Bắc bộ và Nam bộ. Tuy nhiên, cũng có loài khi sống ở vùng biển Nam bộ thì có độc tính cao hơn, chẳng hạn nhƣ loài Lagocephalus sceleratus. Sự biến động độc tính thể hiện rõ ràng nhất ở các bộ phận sinh dục, gan và ruột. Đây là những bộ phận thƣờng có độc tính mạnh và rất mạnh. Theo Nguyễn Văn Lệ (2006), Trung bộ là vùng biển có số lƣợng loài cá Nóc đa dạng nhất ở Việt Nam (38 loài). Sản lƣợng cá Nóc đánh bắt đƣợc ở vùng biển này cũng đạt cao nhất cả nƣớc, trong đó đáng chú ý nhất là tỉnh Khánh Hòa. Theo kết quả phân tích độc tính cho thấy cá Nóc ở biển Trung bộ có độc tính ở mức rất cao và gấp nhiều lần so với vùng biển khác tại Việt Nam. Có thể đây là lý do giải thích tại sao các tỉnh miền Trung thƣờng xẩy ra phần lớn các vụ ngộ độc cá Nóc nhiều nhất cả nƣớc. 3.2. NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN ĐỘC TỐ TRONG MỘT SỐ LOÀI CÁ NÓC ĐỘC Ở BIỂN VIỆT NAM TRÊN HPLC Ngoài việc phân tích độc tố theo phƣơng pháp thử sinh học trên chuột (MBA), chúng tôi đã tiến hành phân tích độc trong 5 loài cá Nóc nghiên cứu trên hệ thống sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC tại phòng thí nghiệm thuộc trƣờng Khoa học Nghề cá - Đại Học Kitasato, Nhật Bản. Dịch độc tố để phân tích trên hệ thốngHPLC đƣợc tách chiết tại phòng thí nghiệm Hóa sinh thuộc Phòng Nghiên cứu Công nghệ Sau thu hoạch, Viện Nghiên cứu Hải sản theo quy trình đã đƣợc mô tả trong phần phƣơng pháp nghiên cứu. Để
giữ bảo quản đƣợc mẫu gửi sang Nhật Bản, chúng tôi đã tiến hành nhƣ sau: cho 1 ml mỗi dịch chiết đƣợc của từng bộ phận từng loài vào từng ống Eppendorf 1,5 ml. Cho thêm 10µl axit axetic băng vào mỗi 1 ml dịch chiết này. Các ống Eppendorf đƣợc gắn kín chặt và gửi sang phòng thí nghiệm ở Nhật Bản để phân tích. Kết quả phân tích hàm lƣợng độc tố trong 5 loài: T. brevipinnis, L. sceleratus, T. oblongus, A. hispidus và A. stellatus bằng HPLC đƣợc trình bày chi tiết tại phụ lục 4 và các sắc ký đồ ở phụ lục 5. Kết quả phân tích cho thấy rằng: trong dịch chiết từ các bộ phận của những loài này cá Nóc này có các thành phần độc tố sau: 1/ Nhóm TTXs gồm TTX và các dẫn xuất của nó là 4-epi TTX, 4,9-anhydro TTX 2/ Nhóm độc tố PSPs gồm STX và các dẫn xuất của nó là neo-STX, dc-STX, GTX6, GTX5. Các độc tố này có mặt với các tỷ lệ thành phần khác nhau tùy thuộc theo từng loài cụ thể. Tỷ lệ % các loại độc tố trong 5 loài cá Nóc ở biển Việt Nam đƣợc trình bày ở bảng sau đây: Bảng 20: Tỷ lệ % các thành phần độc tố trong 5 loài cá Nóc độc ở biển Việt Nam Tỷ lệ % các thành phần độc tố Bảng trên cho thấy, các độc tố nhóm TTXs chiếm tỷ lệ cao hơn rất nhiều lần so với các độc tố thuộc nhóm PSPs. Các độc tố TTXs chiếm tỷ lệ đến 97,47%, trong khi các độc tố PSPs chỉ chiếm 2,53%.
Nhóm độc tố TTXs Hầu hết các mẫu phân tích trên HPLC đều phát hiện có các thành độc tố TTX và các dẫn xuất của nó với tỷ lệ khác nhau. TTX chiếm tỷ lệ cao nhất trong loài Lagocephalus sceleratus với 60,08%. Cá thể đực loài Arothron stellatus không phát hiện thấy có độc tố này, song lại có tỷ lệ thành phần 4,9 - anhydro TTX rất cao (94,55%). Trong nhóm TTXs thì 4,9 - anhydro TTX có tỷ lệ thành phần độc tố trung bình cao nhất (55,82%), tiếp đến là TTX với 35,38%. Dẫn xuất 4-epi TTX có ở tất cả các mẫu nhƣng có tỷ lệ thấp nhất, tỷ lệ trung bình là 6,27% so với các độc tố khác trong nhóm. Nhóm độc tố PSPs Ngoài độc tố TTX và các dẫn xuất của TTX (4-epi TTX, 4,9-anhydro TTX), trong dịch chiết các loài cá Nóc nghiên cứu còn chứa các độc tố PSPs (GTX6, GTX5, STX và các dẫn xuất khác của STX là dcSTX và neoSTX). Sự có mặt và tỷ lệ % các thành phần độc tố trong nhóm PSPs cũng rất khác nhau tùy thuộc theo loài, theo từng bộ phận. Số liệu trên bảng 20 cho thấy thành phần các độc tố PSPs chiếm tỷ lệ rất thấp trong các dịch chiết đƣợc phân tích. Mẫu có tỷ lệ độc tố PSPs cao nhất là loài T. brevipinnis. Ở loài này, thành phần các độc tố PSPs chiếm 8,44%, trong đó thành phần GTX5 chiếm 4,42%, GTX5 chiếm 3,79%, STX chiếm 0,08%, còn dẫn xuất của STX là neo STX chiếm 0,15%. Mẫu này không thấy có mặt của dcSTX. Các loài còn lại đều không thấy sự có mặt của GTX6 và GTX5. Loài A. stellatus không có cả thành phần dcSTX. Tất cả các mẫu phân tích trên HPLC đều phát hiện đƣợc độc tố STX, tỷ lệ trung bình của độc tố này trong các loài là 0,92%. Dẫn xuất của nó là neoSTX cũng có mặt ở hầu hết các loài, cá thể đực Arothron stellatus không phát hiện thấy độc tố này nhƣng cá thể cái loài này lại có độc tố này với tỷ lệ là 0,26%.
3.2.1. Thành phần và hàm lƣợng các độc tố trong loài cá Nóc T. brevipinnis Tỷ lệ % các thành phần độc tố trên bảng 20 cho thấy loài cá Nóc này có hầu hết các thành phần độc tố, trong đó các độc tố TTXs chiếm đến 91,56%, và các độc tố PSPs chiếm 8,44%. Tuy nhiên, trong từng bộ phận của loài này hàm lƣợng và thành phần các độc tố đó cũng biến động rất khác nhau. Kết quả phân tích định lƣợng các độc tố trong dịch chiết của loài này đƣợc thể hiện ở bảng sau. Bảng 21: Hàm lƣợng các độc tố trong các bộ phận của loài T. brevipinnis Hàm lượng độc tố ( M~nmol/ml) Số liệu phân tích cho thấy, hàm lƣợng các độc tố TTXs cao hơn so với các độc tố PSPs. Bộ phận gan và tinh sào cho thấy sự chênh lệch rất lớn, hàm lƣợng các độc tố TTXs trong các bộ phận này gấp 14,7 và 12,2 lần so với độc tố PSPs. Ở thịt và da, sự chênh lệch về hàm lƣợng độc tố TTXs và PSPs tƣơng ứng là 5 và 7 lần. Về hàm lượng các độc tố TTXs Số liệu cho thấy các bộ phận đều phát hiện đƣợc các độc tố nhóm TTXs. Gan có hàm lƣợng tổng cộng các độc tố TTXs cao nhất. Bộ phận này có hàm lƣợng TTX là 18,055 M và 4,9-anhydro TTX là 9,458 M, đạt mức cao nhất trong các bộ phận phân tích. Tiếp đến là tinh sào cũng có hàm lƣợng các độc tố này rất cao, TTX là 16,555 M còn 4,9-anhydro TTX là 8,164 M. Thịt có hàm lƣợng tổng cộng các độc tố TTXs thấp nhất (5,60 M), trong đó 4-epi TTX là 0,073 M, 4,9-anhydro TTX là 1,409 M. Da có hàm lƣợng TTX thấp nhất trong các bộ phận với 3,69 M. Về hàm lượng các độc tố PSPs Các mẫu phân tích đều có mặt của GTX6 và GTX5, tuy nhiên với hàm lƣợng rất thấp, trong mẫu gan chỉ là 1,315 M GTX6, mẫu tinh sào là 1,142 M. Mẫu da
có hàm lƣợng GTX6 thấp nhất với 0,156 M, còn GTX5 thấp nhất ở mẫu thịt (0,315 M). STX chỉ có mặt trong mẫu gan và tinh sào, với hàm lƣợng rất nhỏ, chỉ với 0,02 M và 0,04 M. Mẫu các bộ phận phân tích đều không phát hiện đƣợc dẫn xuất dcSTX, còn neoSTX có mặt trong da, gan và tinh sào với hàm lƣợng rất nhỏ (0,03 và 0,04 M). Nhƣ vậy, ở loài T. brevipinnis, trong nhóm độc tố TTXs, TTX có hàm lƣợng chiếm ƣu thế hơn cả, với hàm lƣợng tổng cộng là 42,5 M; trong nhóm PSPs, GTX5 có hàm lƣợng cao nhất với tổng cộng 3,22 M. 3.2.2. Thành phần và hàm lƣợng các độc tố trong loài cá Nóc L. sceleratus Các mẫu loài cá Nóc này có hầu hết các thành phần độc tố, trong đó các độc tố TTXs chiếm đến 95,87 %, và các độc tố PSPs chiếm 4,13%. Kết quả phân tích cho thấy, trong từng bộ phận của loài này hàm lƣợng và thành phần các độc tố đó cũng biến động rất khác nhau. Hàm lƣợng các độc tố tổng số TTXs cao hơn 14 lần so với các độc tố PSPs. Bộ phận ruột ở loài này có hàm lƣợng độc tố tổng số TTXs và PSPs chênh lệch nhau rất lớn, hàm lƣợng các độc tố TTXs là 7,986 M còn các độc tố PSPs là 0,078 M. Không phát hiện thấy sự có mặt của các độc tố trong mẫu da, còn ở tinh sào chỉ phát hiện có độc tố STX với hàm lƣợng rất nhỏ. Bảng 22: Hàm lƣợng các độc tố trong các bộ phận của loài L. sceleratus Hàm lượng độc tố ( M~nmol/ml)
Về hàm lượng các độc tố TTXs 4/6 bộ phận phân tích là: thịt, gan, ruột, mật đều phát hiện đƣợc 1 hoặc 2 thành phần độc tố nhóm TTXs. Ruột và mật đều có mặt của TTX và dẫn xuất 4,9-anhydro TTX. Các mẫu khác không có mặt của 4,9-anhydro TTX. TTX có hàm lƣợng cao nhất ở ruột với 6,760 M; 4,9-anhydro TTX có hàm lƣợng cao nhất ở mật với 2,136 M. Hàm lƣợng tổng cộng độc tố trong các bộ phận cho thấy TTX là thành phần chiếm ƣu thế với 6,93 M, tiếp đến là 4,9-anhydro TTX. 4-epi chỉ có mặt trong mẫu thịt với hàm lƣợng 0,71 M. Về hàm lượng các độc tố PSPs Các mẫu phân tích đều không phát hiện có GTX6 và GTX5. Mẫu da không có độc tố nào trong nhóm PSPs. Gan và tinh sào chỉ phát hiện có thành phần STX với hàm lƣợng tƣơng ứng là 0,043 M và 0,004 M. Ruột và mật đều phát hiện thấy có mặt của STX và các dẫn xuất neoSTX, dcSTX. Mẫu thịt chỉ có thành phần dẫn xuất neo STX với hàm lƣợng 0,103 M. Độc tố STX và dẫn xuất neoSTX tập trung cao nhất ở mật với hàm lƣợng tƣơng ứng là 0,125 M và 0,122 M. dc STX có hàm lƣợng cao nhất ở ruột (0,005 M). Nhƣ vậy, ở loài L. sceleratus, trong nhóm độc tố TTXs, TTX có hàm lƣợng chiếm ƣu thế hơn cả, với hàm lƣợng tổng cộng là 6,93 M; trong nhóm PSPs, neoSTX có hàm lƣợng cao nhất với tổng cộng 0,26 M. 3.2.3. Thành phần và hàm lƣợng các độc tố trong loài cá Nóc T. oblongus Phân tích độc tố loài cá Nóc này trên HPLC phát hiện đƣợc 6 thành phần độc tố có trong dịch chiết, trong đó các độc tố TTXs chiếm đến 99,83%, còn các độc tố PSPs chiếm tỷ lệ rất nhỏ, dƣới 0,17%. Hàm lƣợng của từng thành phần độc tố biến động rất khác nhau trong từng bộ phận, từng giới tính. Kết quả phân tích ở bảng 23 cho thấy các độc tố TTXs trong cả cá thể đực và cá thể cái đều có hàm lƣợng cao hơn rất nhiều lần so với với các độc tố PSPs. Hàm lƣợng tổng số các độc tố TTXs ở cá thể đực là 84,9 M, gấp 1249 lần so với các độc tố PSPs (0,07 M). Sự chênh
lệch này ở cá thể cái là 356 lần. Kết quả phân tích cũng cho thấy hàm lƣợng độc tố ở cá thể cái cao hơn so với cá thể đực. Bảng 23: Hàm lƣợng các độc tố trong các bộ phận của loài T. oblongus Hàm lượng độc tố ( M~nmol/ml) Về hàm lượng các độc tố TTXs Số liệu tổng số trên bảng cho thấy, hàm lƣợng các độc tố TTXs ở cá thể cái là 337,29 M, cao gấp gần 4 lần so với cá thể đực. Các bộ phận cá thể cái đều phát hiện một hay nhiều thành phần độc tố TTXs, còn thịt và tinh sào ở cá thể đực không phát hiện có các thành phần độc tố này. Ở cá thể đực, các độc tố TTXs tập trung cao nhất ở gan với hàm lƣợng tổng số là 78,089 M. Trong đó dẫn xuất 4,9-anhydro TTX chiếm tỷ lệ cao nhất với 42,366 M, tiếp đến là TTX (28,276 M), 4-epi TTX là 7,447 M. Hàm lƣợng các độc tố TTXs trong gan ở cá thể đực cũng cao hơn so với cá thể cái. Ở cá thể cái, ruột và trứng đều có mặt của cả TTX và các dẫn xuất. Trong đó, mẫu trứng tập trung hàm lƣợng các độc tố TTXs rất cao (279,475 M), 4,9- anhydro TTX là 132,150 M, TTX là 127,380 M, còn 4-epi TTX là 19,945 M. Mẫu thịt chỉ phát hiện đƣợc sự có mặt của TTX với hàm lƣợng thấp, 1,096 M.
Tất cả các mẫu phân tích ở cá thể cái đều có mặt độc tố TTX. 4-epi TTX chỉ có ở trứng và ruột, còn 4,9-anhydro TTX không có mặt trong mẫu thịt. Số liệu tổng cộng cho thấy, ở cả cá thể đực và cá thể cái, độc tố TTX và dẫn xuất 4,9-anhydro TTX chiếm tỷ lệ ƣu thể, trong đó 4,9-anhydro TTX có hàm lƣợng cao nhất: ở cá thể cái là 164,80 M, ở cá thể đực là 45,37 M. Về hàm lượng các độc tố PSPs Trong các mẫu phân tích, ở cả cá thể đực và cái đều không có các thành phần GTX6 và GTX5. Hàm lƣợng các độc tố PSPs ở cá thể cái cũng cao hơn ở cá thể đực (gấp 14 lần). Ruột ở cá thể đực, thịt ở cá thể cái không có các độc tố này. Ở cá thể đực, hàm lƣợng các độc tố PSPs phát hiện đƣợc ở mức rất thấp. Dẫn xuất neoSTX tập trung cao nhất ở bộ phận tinh sào cũng chỉ với hàm lƣợng 0,026 M. Còn gan và ruột không có mặt của neoSTX. dcSTX phát hiện có trong tinh sào nhƣng cũng với hàm lƣợng rất nhỏ (0,005 M). Độc tố STX tập trung cao nhất trong da với 0,019 M. Ở cá thể cái, các độc tố PSPs cũng đƣợc phát hiện với hàm lƣợng rất thấp. Gan, ruột và trứng đều phát hiện thấy có mặt của cả STX và các dẫn xuất. Mẫu da phát hiện đƣợc STX và dẫn xuất neoSTX. neoSTX là thành phần chiếm ƣu thế, độc tố này tập trung cao nhất ở ruột với 0,263 M. dcSTX có hàm lƣợng cao nhất cũng ở ruột. Còn STX tập trung chủ yếu ở trứng với 0,236 M. Nhƣ vậy, ở loài T. oblongus, trong nhóm độc tố TTXs, dẫn xuất 4,9-anhydro TTX và TTX có hàm lƣợng chiếm ƣu thế hơn cả, tập trung chủ yếu ở gan và trứng. Dẫn xuất 4-epi TTX có hàm lƣợng thấp hơn. Trong nhóm các độc tố PSPs, dẫn xuất neoSTX có hàm lƣợng cao nhất. 3.2.4. Thành phần và hàm lƣợng các độc tố trong loài cá Nóc A. hispidus Mẫu loài cá Nóc này cũng phát hiện có 6 thành phần độc tố là TTX và 2 dẫn xuất, STX và 2 dẫn xuất, trong đó các độc tố TTXs chiếm đến 99,68%, và các độc tố PSPs chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ với 0,32%.
Bảng 24: Hàm lƣợng các độc tố trong các bộ phận của loài A. hispidus Hàm lượng độc tố ( M~nmol/ml) Hàm lƣợng các độc tố tổng số TTXs cao hơn 313 lần so với các độc tố PSPs. Bộ phận tinh sào, da và ruột ở loài này có hàm lƣợng độc tố tổng số TTXs và PSPs cao nhất. Trong đó hàm lƣợng các độc tố TTXs tập trung cao nhất ở tinh sào (33,713 M) còn các độc tố PSPs tập trung cao nhất ở da với hàm lƣợng 0,051 M. Ở mẫu thịt, chỉ phát hiện thấy STX với hàm lƣợng rất nhỏ (0,047 M). Về hàm lượng độc tố TTXs Ở thịt không phát hiện có các độc tố TTXs, các mẫu còn lại đều phát hiện đƣợc 2 hoặc 3 thành phần độc tố nhóm này. Tinh sào, ruột và da đều có mặt cả TTX và 2 dẫn xuất. 4,9-anhydro TTX tập trung cao nhất ở tinh sào, với hàm lƣợng 33,713 M. TTX có hàm lƣợng cao nhất ở da, tuy nhiên ở bộ phận này, 4,9-anhydro TTX có tỷ lệ cao hơn (24,203 M). Dẫn xuất 4-epi TTX chiếm tỷ lệ thấp nhất trong các thành phần độc tố TTXs, dẫn xuất này chủ yếu tập trung ở ruột (2,570 M) và tinh sào (1,970 M). Hàm lƣợng tổng cộng độc tố trong các bộ phận cho thấy 4,9-anhydro TTX là thành phần chiếm ƣu thế với 55,36 M, tiếp đến là TTX (23,53 M). 4-epi có mặt trong các mẫu với hàm lƣợng tổng cộng là 6,69 M. Về hàm lượng các độc tố PSPs Các mẫu phân tích ở loài này cũng không phát hiện có GTX6 và GTX5. Các mẫu thịt, da và gan chỉ phát hiện có một thành phần độc tố trong nhóm PSPs, đó là
STX ở da (0,116 M) và thịt (0,047 M), dẫn xuất neoSTX ở gan (0,02 M). Ruột, mật và tinh sào đều có mặt cả 2 thành phần STX và dẫn xuất dcSTX. Thành phần độc tố STX tập trung cao nhất ở da, dẫn xuất dcSTX tập trung chủ yếu ở tinh sào, nhƣng với hàm lƣợng rất nhỏ (0,023 M). Nhƣ vậy, ở loài A. hispidus, trong nhóm độc tố TTXs, 4,9-anhydro TTX có hàm lƣợng chiếm ƣu thế nhất, với hàm lƣợng tổng cộng là 55,36 M; trong nhóm PSPs, STX có hàm lƣợng cao nhất (0,21 M), các dẫn xuất của nó chiếm tỷ lệ rất thấp: neoSTX là 0,02 M và dcSTX là 0,05 M. 3.2.5. Thành phần và hàm lƣợng các độc tố trong loài cá Nóc A. stellatus Ở loài này, chúng tôi đã gửi mẫu phân tích trên HPLC cả cá thể đực và cái. Kết quả phân tích phát hiện 4 thành phần độc tố có mặt trong các mẫu ở giới tính đực, 5 thành phần độc tố có trong các mẫu ở giới tính cái. Ở giới tính đực, các độc tố TTXs chiếm đến 97,51%, còn các độc tố PSPs chiếm tỷ lệ 2,49%. Còn ở giới tính cái, các độc tố TTXs chiếm đến 98,05%, còn các độc tố PSPs chiếm tỷ lệ 1,95%. Kết quả phân tích thành phần độc tố của loài này ở bảng 25 cho thấy hàm lƣợng độc tổng số ở cá thể cái là 118,11 M, cao hơn 71 lần so với cá thể đực (1,67 M). Hàm lƣợng của từng độc tố phát hiện đƣợc trong cá thể đực đều ở mức rất thấp. Các độc tố TTXs có hàm lƣợng tổng số là 1,63 M, gấp 39,2 lần so với các độc tố PSPs. Trong khi ở cá thể cái, các độc tố TTXs là 115,81 uM, gấp 50 lần các độc tố PSPs (2,31 M). Về hàm lượng độc tố TTXs Số liệu tổng số trên bảng cho thấy, hàm lƣợng các độc tố TTXs ở cá thể cái là 115,81 M, cao gấp gần 71 lần so với cá thể đực. Các bộ phận thịt, mật, tinh sào của cá thể đực và các bộ phận thịt, mật của cá thể cái đều không phát hiện thấy có các độc tố TTXs. Ở cá thể đực, các mẫu phân tích đều không có mặt của TTX. Dẫn xuất 4-epi TTX chỉ có ở da với hàm lƣợng 0,049 M, còn dẫn xuất 4,9-anhydro TTX có ở da (0,562 M), gan (0,169 M) và ruột (0,847 M).
Bảng 25: Hàm lƣợng các độc tố trong các bộ phận của loài A. stellatus Hàm lượng độc tố ( M~nmol/ml) Ở cá thể cái, mẫu gan và ruột đều có mặt của TTX và các dẫn xuất của nó. Các thành phần độc tố này đều tập trung cao nhất ở mẫu ruột, trong đó 4,9-anhydro TTX có hàm lƣợng cao nhất với 79,872 M. Ở mẫu gan, TTX là thành phần độc tố có hàm lƣợng cao nhất (11,365 M). Hàm lƣợng tổng số các độc tố TTXs trong mẫu ruột của cá thể cái là 100 M, cao gấp 118 lần so với mẫu ruột của cá thể đực (0,847 M). Còn ở gan, sự chênh lệch đó là 77 lần. Mẫu trứng ở cá thể cái chỉ phát hiện có dẫn xuất 4,9-anhydro TTX với hàm lƣợng tƣơng đối thấp (1,7 M). Mẫu da có cả TTX (0,927 M) và 4,9-anhydro TTX (0,107 M). Số liệu tổng cộng cho thấy, ở cả cá thể đực và cá thể cái, dẫn xuất 4,9-anhydro TTX đều chiếm tỷ lệ ƣu thế. Hàm lƣợng độc tố này ở cá thể cái là 83,36 M, gấp 53 lần so với ở cá thể đực (1,58 M). Các bộ phận của cá thể đực đều không phát hiện
có TTX, trong khi ở cá thể cái, hàm lƣợng độc TTX có trong các bộ phận là 24,77 M. Về hàm lượng các độc tố PSPs Trong các mẫu phân tích, ở cả cá thể đực và cái đều không có các thành phần GTX6 và GTX5, mà chỉ có các thành phần STX và dẫn xuất khác của STX. Hàm lƣợng các độc tố PSPs ở cá thể cái là 2,31 M còn ở cá thể đực là 0,04 M. Mẫu gan ở cá thể đực và mẫu thịt ở cá thể cái không phát hiện có các độc tố này. Ở cá thể đực, STX là thành phần duy nhất có mặt của nhóm độc tố PSPs, các mẫu đều không phát hiện có các dẫn xuất của nó. Hàm lƣợng tổng số của STX trong các bộ phận là 0,04 M, trong đó mẫu ruột tập trung độc tố STX cao nhất với hàm lƣợng 0,012 M. Ở cá thể cái, các độc tố trong nhóm PSPs phát hiện đƣợc trên HPLC là STX và dẫn xuất neoSTX, không thấy sự có mặt của dẫn xuất dcSTX. Mẫu ruột phát hiện thấy có mặt của cả STX và dẫn xuất neoSTX. Mẫu da phát hiện đƣợc STX và dẫn xuất neoSTX. Mẫu gan và trứng chỉ có mặt của STX với hàm lƣợng tƣơng ứng là 1,989 M và 0,004 M. Mẫu da chỉ phát hiện thấy sự có mặt của neoSTX (0,3 M) Nhƣ vậy, ở loài A. stellatus, trong nhóm độc tố TTXs, dẫn xuất 4,9-anhydro TTX có hàm lƣợng cao nhất, tập trung chủ yếu ở gan và ruột của cá thể cái. Cá thể đực không thấy có mặt độc tố TTX, ở cá thể cái độc tố TTX chủ yếu tập trung trong gan và ruột. Trong nhóm các độc tố PSPs, STX là thành phần chủ yếu. Ở cá thể cái không có mặt của dẫn xuất dcSTX, ở cá thể đực không có mặt của cả dẫn xuất neoSTX.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 1. KẾT LUẬN Từ các kết quả phân tích độc tố trong 5 loài cá Nóc nghiên cứu là Torquigener brevipinnis, Lagocephalus sceleratus, Takifugu oblongus, Arothron hispidus và Arothron stellatus, chúng tôi đƣa ra một số kết luận sau: 1/ Các loài cá Nóc này đều có mức độc tính rất cao, sự biến động về độc tính không chỉ khác nhau giữa các loài, mà ở từng loài còn có sự biến động rất phức tạp giữa các bộ phận, biến động của từng loài theo thời gian, theo giai đoạn chín sinh dục và vùng biển nơi các loài sinh sống. Sự biến động về độc tính còn biểu hiện ở mức cá thể. Do vậy, tuyệt đối không đƣợc sử dụng 5 loài loài cá Nóc độc này với bất kỳ hình thức chế biến nào cho mục đích làm thực phẩm. 2/ Độc tố thƣờng tập trung nhiều ở trứng và gan. Thịt và da thƣờng ít độc hơn. Riêng ở 2 loài Arothron stellatus và Arothron hispidus có hàm lƣợng độc tính khá cao ở da. 3/ Các loài cá Nóc có độc tính rất mạnh ở các bộ phận sinh dục khi đến giai đoạn sinh sản, thông thƣờng vào các thời điểm tháng 2 - 3 và 7 - 9 trong năm. Vào thời kỳ này, trứng có thể đạt tới mức độc tính là 3113,53 MU/g. 4/ Nghiên cứu biến động độc tính của từng loài cá Nóc theo vùng địa lý, chúng tôi thấy rằng: độc tính thƣờng cao hơn khi chúng sinh sống ở vùng biển miền Trung. 5/ Phân tích trên hệ thống sắc ký lỏng hiệu năng cao, chúng tôi khẳng định rằng thành phần độc tố cá Nóc là hỗn hợp nhiều độc tố. Trong đó, nhóm độc tố TTXs (TTX và các dẫn xuất 4,9-anhydro TTX, 4-epi TTX) là thành phần chính, chiếm tỷ lệ 97,47%. Các độc tố thuộc nhóm chất độc thần kinh PSP là saxitoxin và các dẫn xuất của nó (neoSTX, dcSTX, GTX6 và GTX5) chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, khoảng 2,53%. 6/ Tỷ lệ của các các độc tố cũng biến động theo từng loài, từng bộ phận, từng giới tính. Ở các loài T. brevipinnis và L. sceleratus, TTX là thành phần độc tố chính. Ở các loài còn lại, thành phần độc tố chiếm tỷ lệ cao nhất là dẫn xuất 4,9-anhydro TTX. Nhìn chung, các thành phần độc tố thƣờng có hàm lƣợng cao hơn ở cá thể cái.
2. ĐỀ XUẤT Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số đề xuất sau: 1/ Nghiên cứu này cho thấy độc tố trong cá Nóc ở biển Việt Nam biến động rất phức tạp về hàm lƣợng và thành phần độc tố theo loài, theo thời gian, theo vùng địa lý… Biển nƣớc ta rất đa dạng về thành phần loài cá Nóc, sản lƣợng khai thác các loài cá Nóc tƣơng đối cao. Trong đó có số lƣợng lớn các loài có khả năng gây ngộ độc cho con ngƣời. Do vậy, để hạn chế tới mức thấp nhất các vụ ngộ độc do cá Nóc gây nên, các Ban, Ngành và các cơ quan có chức năng cần tiếp tục tiến hành các đề tài nghiên cứu về thành phần loài, đặc điểm sinh học, sự biến động của độc tố…nhằm hoàn thiện bức tranh tổng thể về các cá Nóc biển Việt Nam. Trên cơ sở khoa học đó, đƣa ra các giải pháp sử dụng hợp lý nguồn lợi cá Nóc này. 2/ Độc tố các Nóc, cụ thể là TTX là chất có hoạt tính sinh học đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới nghiên cứu, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Chúng đƣợc dùng với nhiều lĩnh vực khác nhau trong y dƣợc và nghiên cứu khoa học. Hiện nay ở nƣớc ta chƣa có thuốc điều trị ngộ độc do cá Nóc. Vì vậy việc nghiên cứu cơ chế gây độc, thuốc điều trị ngộ độc và các Kit thử nhanh khi nhiễm độc tố là rất cần thiết đối với ngành Y tế. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu tách chiết độc tố cá Nóc và tinh chế dƣới dạng tinh khiết nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nƣớc và xuất khẩu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Bessednov L.N (1963), "Về một số đặc điểm phân vùng địa lý của khu hệ cá miền Tây bắc Biển Đông", Báo cáo của đoàn hợp tác điều tra khảo sát VBB Việt-Xô năm 1960-1961, Bản dịch của Phạm Thị Minh Giang, tr. 442 – 444. 2. Cục Y tế Tokyo – Phòng vệ sinh Thực phẩm - Thuốc (1990), Phổ cập kiến thức về cá Nóc và phòng chống ngộ độc cá Nóc. 3. Trần Đáng và cộng sự (2003), Điều tra tình hình các yếu tố liên quan và mô hình can thiệp nhằm kiểm soát ngộ độc thực phẩm do cá Nóc, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học, Cục An toàn Vệ sinh thực phẩm, Hà Nội. 4. Vũ Việt Hà, Nguyễn Hoài Nam, Đặng Văn Thi (2006), "Hiện trạng nguồn lợi cá Nóc ở biển Việt Nam”, Tuyển tập nghiên cứu nghề cá biển, tập 4, NXB Nông nghiệp. 5. Bùi Thị Thu Hiền (2007), Thăm dò khả năng khử độc tố có trong một số bộ phận của cá Nóc, Luận văn thạc sĩ khoa học, Trƣờng đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Phan Chí Hiếu (2006), Xác định độc tố của một vài loài cá nóc có sản lượng cao và nghiên cứu tách chiết, tinh chế dầu gan cá nóc đảm bảo an toàn thực phẩm, Luận văn thạc sĩ khoa học, Trƣờng đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. 7. Nguyễn Hữu Hoàng (2002), Tinh chế tetrodotoxin và phân tích hàm lượng tetrodotoxin từ cá Nóc bằng phương pháp khối phổ, Khóa luận tốt nghiệp, Trƣờng đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà nội. 8. Nguyễn Khắc Hƣờng (1992), Cá và sinh vật độc hại ở biển, NXB khoa học kỹ thuật. 9. Nguyễn Văn Lệ (2005), Nghiên cứu độc tính cá Nóc và các giải pháp xử lý chế biến, quản lý từ khâu khai thác đến khâu tiêu thụ cá Nóc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học, Bộ Thuỷ sản.
10. Nguyễn Văn Lệ, Nguyễn Hữu Hoàng, Bùi Thị Thu Hiền (2006), "Kết quả phân tích độc tố cá Nóc biển Việt Nam”, Tuyển tập nghiên cứu nghề cá biển, tập 4, NXB Nông nghiệp. 11. Diệp Đồng Phong (1962), Nghiên cứu độc tố cá Nóc và giải độc cá Nóc khi ăn phải, Báo cáo khoa học của Trung Quốc tại Hội nghị toàn thể lần thứ 7 của Uỷ ban nghiên cứu nghề cá miền Tây – Thái Bình Dƣơng. 12. Nguyễn Hữu Phụng (1999), Danh mục cá biển Việt Nam, NXB Nông nghiệp, TP Hồ Chí Minh. 13. Đào Mạnh Sơn, Bùi Đình Chung, Chu Tiến Vĩnh, Trần Định và Nguyễn Hữu Đức (1989), "Đặc điểm nguồn lợi cá biển Việt Nam", Báo cáo tổng kết, Viện nghiên cứu Hải Sản, Hải Phòng, trang 93 – 94. 14. Thành Khánh Thái và các cộng sự (1962), Nam Hải ngư loại chí, Bắc Kinh, Trung Quốc, tr. 1054 – 1108. 15. Lê Xuân Tú (2003), Nghiên cứu khai thác và sử dụng một số chất hoạt tính sinh học từ thực vật và động vật phục vụ đời sống, Báo cáo tóm tắt tổng kết đề tài trung tâm năm 2001 – 2002. 16. Trần Thị Thanh Vân (2003), Phân loại cá Nóc ở vùng biển Khánh Hòa, Luận văn tốt nghiệp, trƣờng Đại học Đà Lạt. Tiếng Anh 17. Beaufort L. F. De., Briggs J. C. (1962), The fishes of the Indo. Australian archipelago. Leiden, pp. 345-416. 18. Chen C. Y., Chou H. N. (1998), “Detection of tetrodotoxin by high performance liquid chromatography in lined-moon shell and puffer fish”, Acta Zoologica Taiwanica, 9 (1), pp. 41-48. 19. Chu Y. T., et al (1963), Fish of the East China sea, pp.552-579 20. Fuhrman, F. A. (1986), “Tetrodotoxin, tarichatoxin, and chiriquitoxin: Historical Perspectives”, Tetrodotoxin, saxitoxin, and the molecular biology of the sodium channel, New York Academy of Sciences, Vol 479.
21. Fujii M., Harada K., Matsuda M. (1967), "On the counteracting of the effect of the poison by cysteine”, Sagadaigaku Nougaku Ihou, Agric.Bull. Saga Univ, pp. 1 - 9. 22. Gardiner P. F., Seburn K. L. (1997), “The effects of tetrodotoxin-induced muscle paralysis on the physiological properties of muscle units and their innervating motoneurons in rat”, Journal of Physiology, 499 (1), pp.207-216. 23. Kao, C. Y. (1986), “Structure-activity relations of tetrodotoxin saxitoxin, and analogues”, Tetrodotoxin, and the molecular biology of the sodium channel, New York Academy of Sciences, Vol 479, pp. 52-65. 24. Kirsch G.E., Alam M., Hartmann H. A. (1994), “Differential effects of sulfhydryl reagents on saxitoxin and tetrodotoxin block of voltage- dependent sodium channels”, Biophysical Journal, 67 (6), pp. 2305-2315. 25. Kobayashi T., Nagashima Y., Kimura B., Fujii T. (2004), “Mechanism of the decrease of tetrodotoxin activity in modified seawater medium”, J.Food Hyg.Soc.Japan, Vol.45, No. 2, pp.76-80. 26. Kodama M., Ogata T., Kawamukai K., Oshima Y., Yasumoto T. (1984), “Toxicity of muscle and organs of five species of puffer collected from the Pacific coast of Tohoku area of Japan”, Bulletin of Japanese society of scienific fisheries, Vol. 50, No.4, pp. 703-706. 27. Kodama M., Sato S., Ogata T., Suzuki Y., Kaneko T., Aida K. (1986), “Tetrodotoxin secreting glands in the skin of puffer fishes”, Toxicon, Pergamon press, Vol. 24, No. 8, pp. 819-829. 28. Lin S. J., Liao C. J., Chen S. K., Hwang D. F. (2002), “Survey on toxicity and label of dried dressed fish fillet in 1998”, Journal of food and drug analysis, Vol.10, No.1, pp. 34-38. 29. Mahmud Y., Yamamori K., Noguchi T. (1999), “Toxicity and tetrodotoxin as the toxic principle of a brackish water puffer, Tetraodon steindachneri, collected from Thailand”, J.Food Hyg. Soc. Japan, Vol.40, No.5, pp. 391- 395.
30. Matsui T., Taketsugu S., Kodama K., Ishii A., Yamamori K., Shimizu C. (1989), “Production of tetrodotoxin by the intestinal bacteria of a puffer fish, Takifugu niphobles”, Nippon Suisan Gakkaishi, 55 (12), pp. 2199-2203. 31. Matsui T., Taketsugu S., Sato H, Yamamori K., Hirose H., Shimizu C. (1990), “Toxification of cultured puffer fish by the adiministration of tetrodotoxin producing bacteria”, Nippon Suisan Gakkaishi, 56(4), pp. 705. 32. Matsui T., Yamamori K., Furukawa K., Kono M. (2000), “Purification and some properties of a tetrodotoxin binding protein from the blood plasma of kusafugu”, Toxicon, Pergamon press, Vol.38, pp. 463 - 468. 33. Matsumura, K. (1996), “Tetrodotoxin concentrations in cultured puffer fish, Fugu rubripes”, Journal of Agricultural and Food Chemistry, 44(1). 34. Migita M., Hashimoto Y. (1951), “On the puffer Roe pickled in rice-brain”, Nippon Suisan Gakkaishi 16, pp. 335-340. 35. Mosher, H. S. (1986), “The chemistry of tetrodotoxin”, Tetrodotoxin, saxitoxin, and the molecular biology of the sodium channel, New York Academy of Sciences, Vol 479, pp. 32-42. 36. Nakashima K., Arakawa O., co-worker. (2004), “Occurrence of saxitoxins as a maijor toxin in the ovary of a marine puffer Arothron firmamentum”, Toxicon, Elsevier, Vol. 43, pp. 207 – 212. 37. National Fisheries Products quality inspection service (2004), Instruction of puffer fish processing technique, Korea. 38. Shimizu, Y. (1986), “Chemistry and biochemistry of saxitoxin analogues and tetrodotoxin”, Tetrodotoxin, saxitoxin, and the molecular biology of the sodium channel, New York Academy of Sciences, Vol. 479, pp. 24-30. 39. Tran Thi Hong Hoa, Nguyen Huu Phung, Tran Thi Le Van. (2004), “The fish species of the order Tetraodontiformes from Viet Nam”, Journal of marine science and technology, Institute of Oceanography, Nha Trang, pp. 7. 40. WHO (1984), Aquatic Biotoxin, Environmental Health Criteria 37, Geneva. 41. WorldFish Center (2003), Fishbase DVD, Penang, Malaysia.
42. Yamamori K., Nakamura M., Matsui T., Hara T. J. (1988), “Gustatory responses to terodotoxin and saxitoxin in fish: A possible mechanism for avoiding marine toxins”, Can.J. Fish. Aquat. Sci., Vol. 45. 43. Yamashita, M. Y. (2001), “Chemistry of puffer fish toxin”, J.Toxicol – Toxin Reviews, 20 (1), pp. 51-66. 44. Yasumoto T., et al (1986), “Interspecies distribution and possible origin of tetrodotoxin”, Tetrodotoxin, saxitoxin, and the molecular biology of the sodium channel, Vol 479, New York Academy of Sciences, pp. 44-55. 45. Yotsu M., Endo A., Yasumoto T. (1989), “An improved tetrodotoxin analyzer”, Agric. Biol. Chem. Vol.53, pp. 893-895.
PHỤ LỤC Phụ lục 1: Bảng tra đơn vị MU theo thời gian chuột chết Thời gian chuột chết (phút) Thời gian chuột chết (phút) Thời gian chuột chết (phút) Thời gian chuột chết (phút) 4:00 4:05 4:10 4:15 4:20 4:25 4:30 4:35 4:40 4:45 4:50 4:55 5:00 5:05 5:10 5:15 5:20 5:25 5:30 5:35 5:40 5.62 5.40 5.19 5.00 4.82 4.66 4.50 4.36 4.23 4.10 3.99 3.88 3.77 3.68 3.58 3.50 3.42 3.34 3.26 3.19 3.13 5:45 5:50 5:55 6:00 6:10 6:20 6:30 6:40 6:50 7:00 7:10 7:20 7:30 7:40 7:50 8:00 8:15 8:30 8:45 9:00 9:15 3.07 3.01 2.95 2.89 2.79 2.70 2.61 2.53 2.46 2.39 2.33 2.27 2.22 2.17 2.12 2.08 2.01 1.96 1.91 1.86 1.81 9:30 9:45 10:00 10:15 10:30 10:45 11:00 11:15 11:30 11:45 12:00 12:15 12:30 12:45 13:00 13:15 13:30 13:45 14:00 14:30 15:00 1.77 1.74 1.70 1.67 1.64 1.61 1.58 1.56 1.53 1.51 1.49 1.47 1.45 1.43 1.42 1.40 1.38 1.36 1.34 1.33 1.30 15:30 16:00 16:30 17:00 17:30 18:00 18:30 19:00 19:30 20:00 20:30 21:00 21:30 22:00 22:30 23:00 23:30 24:00 24:30 25:00 30:00 1.28 1.26 1.24 1.23 1.21 1.18 1.17 1.15 1.14 1.13 1.12 1.11 1.10 1.09 1.08 1.08 1.07 1.06 1.06 1.05 1.00
Phụ lục 2: Bảng tra đơn vị MU theo trọng lƣợng chuột 12.0 12.1 12.2 12.3 12.4 12.5 0.60 0.61 0.61 0.62 0.62 0.63 15.5 15.6 15.7 15.8 15.9 16.0 0.78 0.78 0.79 0.79 0.80 0.80 19.0 19.1 19.2 19.3 19.4 19.5 0.95 0.96 0.96 0.97 0.97 0.98
Phụ lục 3: Số liệu phân tích độc tính 5 loài cá Nóc ở biển Việt Nam 1. T. brevipinnis 2. L. sceleratus
3. T. oblongus 4. A. hipidus
5. A. stellatus
Phụ lục 4: Kết quả phân tích độc tố trong các loài cá Nóc ở biển Việt Nam
M: muscle, S: skin, L: liver, I: intestine, G: Gall, O: ovary; T: Testis *µM = micromolar = nmol/mL Specific Toxicity (MU/µmol) of TTXs: Munemoto et al (1985): Tetrodotoxin derivatives in puffer fish. Toxicon, 23(2), 271-276. TTX: 4500MU/mg = 1700 MU/µmol (as TTX.AcOH salt) 4-epiTTX: 710MU/mg = 270MU/µmol 4,9-anhydroTTX: 92MU/mg = 33MU/µmol Detection limit: TTX > 0.1µM, 4epTTX > 0.1µM, anhTTX>1µM Spacific Toxicity of PSP toxins:Oshima(1995):Post column derivatization liquid chromatography method for paralytic shellfish toxins. J. A.O.A.C. Int. 78, 528-532. Detection limit of PSP toxins: neoSTX 0.02µM, STX 0.01µM, GTX6 0.02µM, GTX5 0.01µM TTX and its derivatives were analyzed by a post column derivatization liquid chromatography according to "Yotsu, M., Endo, A. and Yasumoto, T. (1989): An improved tetrodotoxin analyzer. Agric. Biol. Chem. 53, 893-895." PSP toxins were analyzed by a post column derivatization liquid chromatography according to "Oshima(1995):Post column derivatization liquid chromatography method for paralytic shellfish toxins. J. A.O.A.C. Int. 78, 528-532." |