Top 5 chiều cao trung bình của nam mở trục năm 2022

Kích thước cậu nhỏ bao nhiêu là bình thường là mối quan tâm của không ít nam giới. Độ dài và chu vi của dương vật có ảnh hưởng gì đến phong độ và chất lượng “cuộc yêu” không? Các chuyên gia sinh lý nói gì về vấn đề tế nhị này? Mời các bạn xem ngay trong bài viết sau đây.

Show

1. Kích thước dương vật bình thường là bao nhiêu?

Dương vật là phần chính của cơ quan sinh dục nam giới, được cấu tạo bởi các mô cương, xung quanh bao bọc ba lớp gồm: lớp cân, lớp mô dưới da và lớp da. Bên trong dương vật gồm thể hang và thể xốp.

Top 5 chiều cao trung bình của nam mở trục năm 2022

Cậu nhỏ có kích thước trung bình bao nhiêu? Bộ phận sinh dục ở mỗi người có độ dài ngắn, lớn nhỏ khác nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu được thực hiện đã ghi nhận kết quả:

  • Chiều dài trung bình của “cậu nhỏ” khi “xìu”: 8,63 – 9,4cm
  • Chiều dài trung bình của “cậu nhỏ” khi cương: 12,95 – 14,47cm
  • Chu vi trung bình của “cậu nhỏ” khi cương: 8,63 – 9,9cm

Theo thống kê, 95% nam giới có kích thước dương vật ngắn hơn 16cm và có khoảng 5% có kích thước ngắn hơn 10cm.

Top 5 chiều cao trung bình của nam mở trục năm 2022

2. Kích thước dương vật của người Việt Nam bao nhiêu là chuẩn?

Độ lớn nhỏ của “cậu nhỏ” nam giới ở mỗi quốc gia, khu vực lại có sự khác biệt. Cụ thể, ở Việt Nam, nam giới thường có kích thước dương vật trung bình như sau:

  • Chiều dài dương vật khi cương: 11,2cm
  • Chu vi dương vật khi “xìu”: 6,6cm
  • Chu vi dương vật khi cương: 8,8cm

Kích thước dương vật ở các quốc gia trên thế giới có gì khác biệt? Nghiên cứu cho thấy người Hàn Quốc có kích cỡ “cậu nhỏ” chưa tới 10cm, Trung Quốc: gần 11cm. Trong đó, đàn ông Ecuador ở khu vực Mỹ La tinh có kích cỡ dương vật lớn nhất thế giới với chiều dài 17,59cm. Tiếp đó là đàn ông Colombia: 17,3cm.

Dương vật kích thước bao nhiêu là ngắn? Theo các chuyên gia Nam học, “cậu nhỏ” lúc cương ngắn hơn 9cm thì được coi là ngắn.

3. Cách đo kích thước “cậu nhỏ”

Để đánh giá kích thước dương vật bao nhiêu là chuẩn, các chuyên gia đưa ra hướng dẫn về cách kiểm tra độ dài và chu vi cậu nhỏ như sau:

Dùng thước dây hoặc thước thẳng để đo chiều dài. Chiều dài “cậu nhỏ” được tính từ gốc dương vật (vị trí kết nối với xương mu) đến đầu dương vật. Không tính phần da bao quy đầu. Ngoài ra, nam giới có thể dùng thước mềm để đo chu vi xung quanh gốc dương vật hoặc giữa thân khi cương cứng.

4. “Cậu nhỏ” phát triển đến bao nhiêu tuổi?

Bộ phận sinh dục của nam giới bắt đầu phát triển từ 10 đến 14 tuổi. Dưới sự tác động của hormone sinh lý, kích thước dương vật sẽ phát triển theo thứ tự lần lượt từ chiều dài đến chiều rộng.

Quá trình phát triển của dương vật tập trung mạnh mẽ vào một khoảng thời gian nhất định rồi ngừng lại. Sau đó mới tiếp tục gia tăng kích thước và hoàn thiện chức năng. Song song đó là quá trình phát triển của tinh hoàn, lông mu bắt đầu mọc.

Dương vật phát triển đến bao nhiêu tuổi? Thông thường, “cậu nhỏ” sẽ ngừng phát triển khi nam giới 16-21 tuổi. Tuy nhiên, khi ngừng tăng trưởng chiều cao (kết thúc giai đoạn dậy thì) khoảng 1-2 năm, dương vật vẫn có thể phát triển thêm để hoàn thiện chức năng.

Kích thước dương vật không phụ thuộc vào thời điểm bắt đầu phát triển mà bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi hormone sinh lý tiết ra trong độ tuổi dậy thì.

5. Yếu tố nào ảnh hưởng đến kích thước “cậu nhỏ”?

Top 5 chiều cao trung bình của nam mở trục năm 2022

Như đã nói ở trên, độ dài ngắn, lớn bé của cơ quan sinh dục phụ thuộc phần lớn vào nội tiết tố của phái mạnh trong giai đoạn dậy thì. Ngoài ra, bộ phận sinh dục to nhỏ còn phụ thuộc vào nguồn gen, chủng tộc, chế độ dinh dưỡng trong giai đoạn phát triển của nam giới.

Đặc biệt, kích thước của dương vật bị ảnh hưởng bởi hội chứng dương vật nhỏ (micropenis). Trẻ nam mắc hội chứng này khiến dương vật không thể phát triển cả về chiều dài, chiều rộng. Do vậy, đến tuổi trưởng thành, “cậu nhỏ” vẫn không đạt được kích thước như bình thường.

6. Kích thước cậu nhỏ có ảnh hưởng đến khoái cảm không?

Đa phần nam giới đều tự “ngộ nhận” và mặc cảm về kích thước của “cậu nhỏ”. Họ lo lắng bộ phận tế nhị không đủ lớn để làm thỏa mãn bạn tình. Tuy nhiên, sau khi đi khám và kiểm tra bộ phận sinh dục, hầu hết độ dài đều đạt yêu cầu.

Theo các chuyên gia nam học, khoái cảm trong quá trình quan hệ không bị ảnh hưởng nhiều bởi kích thước “cậu nhỏ”. Vấn đề phần lớn nằm ở thời gian quan hệ và những kỹ thuật tình dục có mang lại cảm xúc, sự hài lòng cho cả 2 hay không. Vì thế, trước khi quyết định sử dụng bất kỳ phương pháp can thiệp nào để tăng độ lớn “cậu nhỏ”, các anh cần thăm khám và được sự tư vấn từ chuyên gia y tế.

7. Biện pháp tăng kích thước dương vật cho nam giới

Cậu nhỏ kích thước khiêm tốn khiến nam giới mất tự tin, giảm độ hài lòng về phong độ giường chiếu. Vì vậy, các biện pháp giúp tăng kích thước dương vật được khá nhiều người tìm hiểu. Dưới đây là tổng hợp các biện pháp được áp dụng phổ biến nhất:

7.1 Biện pháp tăng kích thước “cậu nhỏ” có can thiệp y khoa

Đây là các phương pháp mang lại tác dụng nhanh, được thực hiện trực tiếp tại cơ quan sinh dục nhằm tăng chiều dài, kích cỡ của bộ phận kín.

7.1.1 Phẫu thuật

Phẫu thuật có thể bao gồm các thủ thuật như chuyển mô mỡ, đặt silicon, cắt da… Phương pháp này chỉ thực sự cần thiết nếu nam giới mắc chứng micropenis (dương vật ngắn dưới 7,5cm).

– Đặt silicon: Bác sĩ thực hiện rạch 1 đường bên phía trên dương vật rồi đưa silicon vào phía trên trục. Định hình miếng silicon sao cho vừa với kích thước và hình dáng của “cậu nhỏ”.

– Chuyển mô mỡ: Là phương pháp lấy các tế bào mỡ ở vị trí khác trên cơ thể và tiêm vào trục dương vật.

– Cắt dây chằng treo dương vật: Là cách loại bỏ các dây chằng nối dương vật vào xương mu rồi lấy phần da từ bụng xuống trục dương vật. Thực tế, tiểu phẫu này giúp dương vật treo thấp hơn nhưng không làm thay đổi kích thước “cậu nhỏ”.

7.1.2 Tiêm filler

Tùy thuộc vào mong muốn tăng nhiều hay tăng ít, bác sĩ hoặc kỹ thuật viên sẽ chỉ định lượng filler được sử dụng. Trung bình, lượng dùng khoảng 15-20 cc. Vị trí tiêm là gốc, giữa và đầu dương vật. Thời gian thực hiện tiêm filler ở dương vật chỉ khoảng 60 phút. Sau 7 ngày, có thể sinh hoạt tình dục bình thường.

Tăng kích thước “cậu nhỏ” bằng cách can thiệp y khoa trên thực tế rất hiếm khi được bác sĩ khuyến khích. Nguyên nhân bởi các phương pháp này có thể gây ra các biến chứng. Từ đó có thể gây ảnh hưởng đến chức năng của cơ quan sinh dục. Mặt khác, chỉ sau một thời gian, dương vật sẽ có xu hướng trở về trạng thái ban đầu.

7.2 Biện pháp tự nhiên giúp tăng kích thước dương vật

Top 5 chiều cao trung bình của nam mở trục năm 2022

Để cải thiện kích thước cơ quan sinh dục, bên cạnh các phương pháp can thiệp trên, nam giới có thể áp dụng các phương pháp tự nhiên như sau:

7.2.1 Tăng cường Testosterone nội sinh trong giai đoạn dậy thì

Như đã nói ở trên, giai đoạn dậy thì là “thời điểm vàng” quyết định kích thước “cậu nhỏ”. Ở giai đoạn này, nam giới cần được ăn uống đầy đủ dưỡng chất để phát triển toàn diện về thể chất. Trong đó đặc biệt là cơ quan sinh dục.

Nam giới nên hạn chế thực phẩm chứa nhiều cholesterol và các loại đồ uống chứa chất kích thích như rượu, bia… Nguyên nhân bởi chúng tác động không tốt đến động mạch. Từ đó ảnh hưởng đến tốc độ và lưu lượng máu đến cơ quan sinh dục, làm giảm kích thước khi cương.

Đặc biệt, đối với những người thể chất kém, cần bổ sung thêm các vitamin và khoáng chất như Kẽm, Magie… để giúp kích thích cơ thể sản sinh Testosterone. Nam giới nên sử dụng các sản phẩm chứa thành phần có nguồn gốc tự nhiên như tinh chất Hàu, tinh chất Testofen từ cỏ cà ri… để đảm bảo an toàn, không gây tác dụng phụ.

7.2.2 Các bài tập giúp tăng độ lớn “cậu nhỏ”

Nam giới nên thường xuyên luyện tập thể dục thể thao để nâng cao sức khỏe, nhất là thực hiện các bài tập giúp tăng kích cỡ “cậu nhỏ” như:

– Bài tập Backward Puller

Đây là bài tập được đánh giá cao bởi hiệu quả kích thích gia tăng độ lớn của dương vật. Cách thực hiện cũng không quá khó. Hầu hết nam giới đều có thể tự làm theo hướng dẫn.

Cách thực hiện như sau:

  • Vuốt ve, kích thích dương vật nhẹ nhàng
  • Lột bao quy đầu rồi từ từ kéo căng “cậu nhỏ” lên
  • Đặt ngón cái ở gốc dương vật và kéo ngước “cậu nhỏ” vào trong

Tiến hành liên tục trong khoảng 10 phút rồi dừng lại. Thực hiện đều đặn hàng ngày.

– Bài tập Ultimate Stretch

Tương tự như bài tập trên, ở bài tập này, dương vật được kích thích để nhạy bén hơn với cơ chế cương dương. Do lượng máu được tăng cường đến bộ phận sinh dục nên “cậu nhỏ” cũng có xu hướng gia tăng kích thước.

Thực hiện bài tập như sau:

  • Dùng tay nắm chặt bao quy đầu với 1 lực vừa đủ
  • Từ từ kéo dương vật ra ngoài
  • Giữ nguyên khoảng 20-30 giây
  • Lặp lại động tác theo các hướng trên, dưới, trái, phải

Lưu ý: Không nắm cơ quan sinh dục quá chặt bởi có thể gây tắc nghẽn mạch máu. Thực hiện giãn cách theo ngày.

7.2.3 Giảm cân

Cân nặng tưởng chừng không liên quan gì đến kích thước dương vật. Tuy nhiên, nếu nam giới thừa cân, béo phì thì lượng mỡ ở phần mu sẽ dày lên, có thể làm “cậu nhỏ” trở nên ngắn hơn. Bên cạnh đó, cân nặng cũng ảnh hưởng đến sức khỏe, có thể khiến phái mạnh giảm độ sung mãn trong khi quan hệ.

Trên đây là tổng hợp những thông tin trả lời câu hỏi kích thước cậu nhỏ bao nhiêu là bình thường và những biện pháp để cải thiện kích thước của cơ quan sinh dục. Nếu bạn có băn khoăn, thắc mắc cần giải đáp, hãy liên hệ ngay đến số tổng đài 0343 44 66 99 của chúng tôi.

>>> XEM THÊM:

  • Tổng hợp những bài hát tạo hưng phấn, giúp cuộc “yêu” thăng hoa
  • TOP 10 bài tập chữa liệt dương cho phái mạnh
  • Yếu sinh lý ăn gì, kiêng gì? Gợi ý 11 thực phẩm người nội trợ phải biết
  • Tập gym có bị yếu sinh lý không? Xem ngay 7 bài tập nâng cao sức khỏe

Main

Over the past decades, human height has increased in most industrialized countries. This trend has been the result of improvements in the nutritional, hygienic, economic, and health status of the populations in question (1). Such factors may allow disadvantaged individuals in particular to grow taller. However, we have not found any reduction in height variation (2). It appears that individuals benefit more or less equally from improvements in living conditions. Do we believe that we could all be giants if living conditions for humans were to improve further, or is there some maximum (and presumably optimal) population average beyond which our species will not grow, no matter how favorable the circumstances? Although being tall is often associated with being healthy, this may not always be the case. Taller adults have, for example, higher rates of several types of cancer (3). The question of whether there is a maximum population average is almost impossible to answer, but studies of trends in mean height and of height variations in tall populations could suggest a possible direction.

The Dutch population is the tallest in the world and has been well studied. Before 1955, population height in The Netherlands was estimated on the basis of data for conscripts, i.e., men, and nonrandom samples from the population. Between 1955 and 1997, there were four large cross-sectional nationwide growth studies. These studies showed that young Dutch adults are among the tallest people in the world, with women measuring almost 171 cm on average and men 184 cm on average in 1997 (4).

In The Netherlands, people have been getting taller since 1858 (2,5). At that time, conscripts were an average of 163 cm. This indicates a height gain of 21 cm over a period of 140 y. In The Netherlands, as in most Northern European countries, the upward trend is slowing down significantly (2,6), and it even appears to be reversing in the United States (7).

This article presents new data about height from the Fifth Dutch Growth Study, which was carried out in 2009. The main research questions are: Is the 140-y trend of increasing height in the world’s tallest nation still continuing? If not, has there been a compression of height variation? Do geographical region and educational levels affect the development of mean height?

Results

The sample comprised of 10,030 children of Dutch origin and 1,975 imputed cases, resulting in an analysis sample of 12,005 children (5,811 boys and 6,194 girls) aged 0–21 y. Table 1 lists the numbers of children in each age group.

Table 1 Number of observations per age and sex in the Fifth Dutch Growth Study 2009

Full size table

Height by age and sex was normally distributed, and therefore standard deviation scores (SDS) could easily be calculated as (height − mean height)/SD. Table 2 summarizes the mean and SD for height extracted from the height references, classified according to age and sex. Extended tables are available from the authors on request.

Table 2 Mean height and SD extracted from height references for boys and girls per age

Full size table

New growth diagrams were constructed for boys and girls aged 0–21 y, including 2.5, 2, 1, 0, −1, −2, −2.5, and −3 SD lines. The −3 SD line was added for practical reasons because the Dutch referral criteria require children with a height SDS of less than −3 SD to be referred for short stature. Figure 1a,b shows the new growth diagrams for boys and girls aged 1–21 y. Similar growth diagrams were established for children aged 0–15 mo and 0–4 y. Note that there is no visual evidence of the pubertal height growth spurt in the growth diagram for girls.

Figure 1

Top 5 chiều cao trung bình của nam mở trục năm 2022

New Dutch growth diagrams, including height by age references for (a) boys and (b) girls aged 1–21 y.

Full size image

Figure 2 shows the trend in the mean final height in boys and girls from 1955 to 2009. The figure illustrates that the upward secular trend in the mean final height of young Dutch adults has stopped. Mean final height was 183.8 cm (SD = 7.1 cm) in Dutch boys and 170.7 cm (SD = 6.3 cm) in Dutch girls. These heights do not differ significantly from the heights in 1997 (184.0 cm for boys and 170.6 cm for girls). Figure 2 indicates that the pace of the increase in secular height over the years slowed down both in boys and girls, falling to almost zero in 2009.

Figure 2

Top 5 chiều cao trung bình của nam mở trục năm 2022

Mean final height in Dutch boys (filled circles) and girls (open circles) in 1955–2009.

Full size image

Figure 3 shows, for Dutch children aged 1–21 y, the height difference with respect to 1955 in 1965, 1980, 1997, and 2009 for each age. The figure clearly shows an increase in height for the period 1955–1997, especially from the age of 4 y onward, with the increase being more marked in boys than in girls. This figure also shows that the secular trend has stopped since 1997, not only for final height but also for all ages, with the 1997 and 2009 lines being a close match for all ages. There is only a small difference in height at the ages of 11–13 y in boys and girls and at the age of 15 y in boys. These differences are more pronounced in boys (0.7–1.2 cm) than in girls (0.4–0.5 cm). This may indicate slightly earlier puberty.

Figure 3

Top 5 chiều cao trung bình của nam mở trục năm 2022

Height increase since 1955 by age in Dutch (a) boys and (b) girls in 2009 (solid line), 1997 (striped line), 1980 (dotted line), and 1965 (gray striped lines).

Full size image

Figure 4 presents the mean height SDS of Dutch children aged 0–21 y by geographical region, level of child education, and level of parental education in 1997 and 2009, corrected for each of the two other factors. Variation across the geographical regions has lessened since 1997. The mean height SDS in the north and in the south are closer to the overall mean ( Figure 4a). The mean height SDS in the north of the country is still significantly higher than that in the south (difference = 0.22 SDS; P < 0.001) and the major cities (0.12 SDS; P = 0.018). This means that 21-y-old boys and girls from the north are on average 1.6 and 1.4 cm taller, respectively, than those from the south. Figure 4b,c shows that, in 2009, as in 1997, mean height SDS increased in line with the educational levels of children and their parents. Since 1997, mean height SDS has not changed significantly. Nevertheless, the mean height SDS of children with lower levels of education was significantly lower than that of those with higher levels of education in 2009 (P = 0.003), whereas this difference was nonsignificant in 1997 (P = 0.438), indicating that 21 y olds with lower levels of education are on average 1.4 cm (boys) and 1.2 cm (girls) shorter than those with higher levels of education. At the age of 21 y, boys of lower-educated parents are on average 0.8 cm shorter than those of higher-educated parents. For girls, this difference is 0.7 cm.

Figure 4

Top 5 chiều cao trung bình của nam mở trục năm 2022

Differences in height SDS by (a) geographical region, (b) educational level of the child, and (c) highest completed education of parents between 1997 (open circles) and 2009 (filled circles). Values are means, adjusted for the effects of the other factors. SDS, standard deviation scores.

Full size image

Discussion

This study shows that the height of Dutch children in 2009 is very similar to that in 1997. There was a slight increase in mean height in early puberty in boys and girls, indicating that they were taller at a younger age than in 1997. However, this did not affect the final height, as no significant differences in final height were seen as compared with 1997. There was no compression of height variation observed.

It is remarkable that the secular height trend spanning 150 y has come to an end, at least temporarily. The cause is not yet clear. Economic factors are not likely to be involved because gross domestic product in The Netherlands did not level off; indeed, it rose exponentially between 1920 and 2008 (8). We also looked at the course of the Life Situation Index (LSI) between 1974 and 2008. This index was established by The Netherlands Institute for Social Research to measure the progress of Dutch society using indicators that go beyond mere economic growth. The index incorporates indicators in eight domains: health, sport, social participation (loneliness, volunteering), cultural/leisure activities, housing, mobility, holidays, and possession of assets (9,10). The LSI rose substantially between 1974 and 2008. Between 1990 and 2008, the differences in LSI scores between socioeconomic classes decreased. This was mainly due to a higher rise in the LSI score for lower socioeconomic groups (9). A correlation between height and LSI has not been demonstrated, but one would expect a positive correlation, as with economic growth. The rise in LSI mentioned here and the reduction in the variation in LSI scores across socioeconomic groups do not therefore explain the break in the Dutch height trend. Children of parents born outside The Netherlands were excluded from the analyses. The so-called third-generation immigrants—those with parents born in The Netherlands but grandparents born outside The Netherlands—were not excluded. This group makes up an increasing proportion of the population in The Netherlands but is still relatively small. On the basis of data on the country of birth of the grandparents, only 4–5% of our study population were from the third generation. Although the third-generation immigrants may be partly accountable for the flattening of the Dutch growth trend, this group is too small to fully explain the stagnation in height. Moreover, children known to have a diagnosed growth disorder or who were on growth-interfering medication were excluded from the sample. It is possible that some growth disorders and growth-interfering medication were not mentioned by a child or parent, or were not in the medical records and therefore were missed by the health-care provider. This could lead to an underestimation of mean height per age. However, we believe that even if we missed some children, they would form only a very small part of the sample size per age. Moreover, the same method for inquiring about and exclusion of growth disorders and medication was applied in 1997. Therefore, it is unlikely that growth disorders and growth-interfering medication influenced the height difference between 1997 and 2009.

Sẽ luôn có một số khác biệt trong, ví dụ, nền tảng di truyền và tình trạng kinh tế xã hội trong một dân số nhất định, dẫn đến sự thay đổi chiều cao. Cho rằng người Hà Lan là những người cao nhất trên thế giới và họ không còn cao hơn nữa, chúng ta có thể đưa ra giả thuyết rằng chiều cao trung bình của dân số đã đạt đến mức tối đa có thể. Có thể là việc phân phối các đặc điểm dân số ở Hà Lan, bao gồm các yếu tố môi trường, là tốt nhất có thể đạt được ở cấp quốc gia, dẫn đến chiều cao dân số trung bình là 184 cm đối với bé trai và 171 cm đối với trẻ em gái.

Ngoài ra, các yếu tố môi trường thúc đẩy tăng trưởng có thể đã ổn định trong thập kỷ qua, ngăn người Hà Lan hoàn thành tiềm năng tăng trưởng đầy đủ của họ. Chúng ta có thể đưa ra giả thuyết rằng lối sống hiện tại có ảnh hưởng tiêu cực đến chiều cao. Komlos (11), người đã xem xét sự khác biệt về chiều cao và BMI giữa trẻ em Hà Lan và Hoa Kỳ, cũng đề xuất điều này. Trường hợp không đủ lượng thức ăn có thể dẫn đến các hàng thập kỷ trước đây, ngày nay dễ dàng tiếp cận với thực phẩm/thức ăn nhanh dẫn đến thói quen ăn uống không lành mạnh. Ví dụ, mức tiêu thụ sữa cao ở Hà Lan, có liên quan đến độ cao (12), đã giảm trong thập kỷ qua từ 63 L trên đầu người mỗi năm vào năm 2000 xuống còn 60 vào năm 2010 (13). Thói quen ăn uống không lành mạnh có thể dẫn đến lượng chất dinh dưỡng không đủ, có thể dẫn đến chiều cao thấp hơn. Hơn nữa, một chế độ ăn uống không lành mạnh kết hợp với chi tiêu năng lượng ít hơn do lối sống ít vận động dẫn đến sự gia tăng quá cân và béo phì, một hiện tượng cũng đã được quan sát thấy ở trẻ em Hà Lan (14). BMI cao hơn có liên quan đến sự khởi đầu sớm hơn của sự trưởng thành và menarche, do đó, có liên quan đến chiều cao thấp hơn (15,16). Nếu giả thuyết của chúng tôi là hợp lệ, việc áp dụng lối sống lành mạnh hơn (bao gồm chế độ ăn uống lành mạnh hơn và hoạt động nhiều hơn) có thể dẫn đến sự tái hiện của xu hướng chiều cao tích cực trong tương lai.

Không thể quan sát thấy sự tăng trưởng của độ cao tuổi tuổi dậy thì trong sơ đồ tăng trưởng cho bé gái. Điều này là do thực tế là các nghiên cứu tăng trưởng của Hà Lan là các nghiên cứu cắt ngang. Các sơ đồ tăng trưởng này phù hợp để theo dõi chiều cao của trẻ theo thời gian, nhưng người ta nên nhớ rằng các biểu đồ này không thể hiện đầy đủ cách một trẻ em thường phát triển.

Chỉ có những đứa trẻ có cả cha mẹ sinh ra ở Hà Lan mới được đưa vào. Việc lựa chọn trẻ em của Hà Lan đàng hoàng có thể làm phức tạp các so sánh về chiều cao/chiều cao cuối cùng giữa các quốc gia vì một số quốc gia bao gồm tất cả các nhóm dân tộc trong dữ liệu của họ. Trên cơ sở dữ liệu cho các nhóm dân tộc khác trong bộ dữ liệu của nghiên cứu tăng trưởng thứ năm của Hà Lan, chúng tôi ước tính chiều cao cuối cùng được điều chỉnh bao gồm các nhóm dân tộc khác. Chiều cao cuối cùng trung bình được điều chỉnh sẽ là 183,8 - 0,4 = 183,4 cm ở bé trai và 170,7 - 0,3 = 170,4 cm ở trẻ em gái. Những con số này là một ước tính về chiều cao cuối cùng cho tất cả trẻ em sống ở Hà Lan, không phân biệt dân tộc. Vì sự khác biệt giữa các nhóm Hà Lan và không phải là Hà Lan là đáng kể, các tài liệu tham khảo tăng trưởng riêng biệt được xây dựng cho trẻ em của Ma-rốc và Thổ Nhĩ Kỳ, hai nhóm thiểu số lớn nhất ở Hà Lan. Những điều này sẽ được trình bày ở nơi khác.

Chúng tôi thấy rằng sự khác biệt về chiều cao giữa phía bắc và phía nam của Hà Lan đã giảm từ năm 1997. Điều này được nhìn thấy bất kể trình độ học vấn của trẻ em và phụ huynh. Sự thay đổi này có thể được giải thích bởi các yếu tố như ít bất bình đẳng về sức khỏe hoặc thay đổi về sự vận động của quốc gia, nói cách khác là di cư nhiều hơn giữa các khu vực địa lý. Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy việc giảm sự bất bình đẳng về sức khỏe giữa các khu vực này và không có sự thay đổi lớn nào về sự vận động ở Hà Lan kể từ năm 1997 có thể giải thích hiện tượng này (17). Sự thay đổi lấy mẫu ngẫu nhiên giữa nghiên cứu năm 1997 và 2009 có thể góp phần vào sự khác biệt nhỏ hơn ở phía nam. Tuy nhiên, cả hai nghiên cứu đều có đại diện trên toàn quốc. Dân số nghiên cứu của nghiên cứu tăng trưởng thứ năm của Hà Lan là lớn và được lựa chọn ngẫu nhiên, và các kỹ thuật cắt bỏ tiên tiến đã được thực hiện cho các nhóm được đại diện để có được một mẫu đại diện. Mặc dù chúng tôi không có lời giải thích vững chắc về việc giảm bất bình đẳng chiều cao giữa phía bắc và phía nam của Hà Lan, sự khác biệt 1,6 cm (bé trai) và 1,4 cm (bé gái) ở những người 21 tuổi có vẻ rất hợp lý vì chúng tương tự như Sự khác biệt 2 cm phía bắc phía nam được tìm thấy trong một nghiên cứu lớn của Hà Lan dựa trên dữ liệu tăng trưởng tự báo cáo (18).

Điều đáng chú ý là sự khác biệt về độ cao trung bình SDS cho trẻ em có trình độ học vấn thấp hơn và đại học đã tăng từ năm 1997. Điều này cho thấy rằng sự bất bình đẳng liên quan đến giáo dục đã tăng lên. Chúng tôi không tìm thấy giải thích cho điều này trong văn học của các cơ quan đăng ký quốc gia. Cần lưu ý rằng không có thay đổi đáng kể nào về SDS Chiều cao trung bình trong bất kỳ loại nào kể từ năm 1997. Theo dõi xu hướng này rất quan trọng vì sự khác biệt về chiều cao lớn hơn có thể là dấu hiệu của sự bất bình đẳng về sức khỏe.

The upward secular height trend has slowed in most Northern European countries (2,6). Conscript data show that height in Danish and Norwegian men remained stable between 2000 and 2009, and an earlier study based on self-reported data from Dutch adults also indicated that the secular increase in height had come to a halt (18,19,20). Despite the stagnating secular trend, the Dutch are still the tallest people in the world, followed directly by the Danish, who are reported to have a mean height of 183.7 cm (men) and 168.6 cm (women), and the Norwegians, with averages of 182 cm (men) and 169 cm (women) (21,22). Pineau et al. (23) found boys in the Dinaric Alps to be 1.5 cm taller than their Dutch counterparts, whereas girls reach heights similar to their Dutch counterparts. Although this study looks at a region rather than a country, and corrects boys’ height for growth after the age of 17 y, it indicates that young adults from this region in Eastern Europe are also tall. In fact, men in the Balkans were already among the tallest in Europe in the 19th century (11). Future studies of population height are expected to reveal whether the maximum mean population height is indeed 184 cm for boys and 171 for girls. The new Dutch reference charts are available at http://www.tno.nl/growth.

Methods

Data Sources

Data for the earlier Dutch growth studies were collected in 1955, 1965, 1980, and 1997 and published elsewhere (2,24,25,26). The Fifth Dutch Growth Study was a cross-sectional study that collected data for a representative sample of children aged 0–21 y in The Netherlands between May 2008 and October 2009. The sample was stratified by region (regions of Municipal Health Services), sex, and age in line with national distributions (27). Until the age of 4 y, measurements were performed during regular periodical health examinations in 28 Well Baby Clinics at the ages of 1, 2, 3, 6, 9, 12, 15, 18, 21, 24, 30, 36, and 45 mo. Between the ages of 4 and 8 y, children were measured at 23 Municipal Health Service offices during two regular preventive health assessments performed at the ages of ~5.5 and 7.5 y. From the age of 9 y onward, children were invited personally by the Municipal Health Services after being selected in an age- and sex-stratified random sampling procedure from the registers of the Municipal Register Office. Furthermore, we conducted measurements at randomly selected primary and secondary schools, at two colleges and two universities across the country, and at a national youth festival. The collection was supplemented by data from two recent large, high-quality studies performed by trained staff at primary schools in Amsterdam (Municipal Health Services in Amsterdam) and at a vocational education institution in the east of The Netherlands (Deltion College Zwolle/OPOZ VU-Windesheim). Random samples from these data (n = 270 and n = 342, respectively) were added to the data for this study.

Ethics Statement

Data collection for growth studies is a part of routine youth health care in The Netherlands and is not regarded as medical research. Before the measurement, oral consent was obtained from each child (and from the parent when children were younger than 16 y). Cooperation, or lack thereof, was recorded on the questionnaire. Data were analyzed anonymously. The Medical Ethics Review Board of Leiden University Medical Center approved the study and the manner in which consent was obtained.

Exclusion Criteria

Exclusion criteria for the Fifth Dutch Growth Study were similar to those for the previous Dutch growth studies: children with diagnosed growth disorders and those on growth-interfering medication were excluded (2.4% of the total population). Children with one or two parents born outside The Netherlands (28) were excluded from the analyses presented in this article. Results with respect to children of Turkish and Moroccan origin will be described elsewhere.

Measurements

Trained health-care professionals carried out the standardized measurements. Infant length was measured to the nearest 0.1 cm in the supine position until 2 y of age. From 2 y of age onward, standing height was measured to the nearest 0.1 cm. The children’s demographic characteristics were obtained from the parents or from adolescents themselves by health-care professionals using a questionnaire.

Variable Definitions

The sample was divided into five geographical regions: North (Friesland, Groningen, Drenthe), East (Overijssel, Gelderland, Flevoland), West (Noord-Holland, Zuid-Holland, Utrecht – not including the four major cities), South (Zeeland, Noord-Brabant, Limburg), and the four major Dutch cities (Amsterdam, Rotterdam, Utrecht, and The Hague). The educational level of the child was determined at the time of measurement. If an adolescent older than 15 y had left the educational system, the highest completed education was recorded. The educational level of the parents was defined as the educational level of the highest educated parent and broken down into low, middle, high, and unknown (29). For the purposes of data cleaning and the comparison of height changes between 1997 and 2009, SDS were calculated for each age using the 1997 height references (2,30).

Phân tích thống kê

Dữ liệu được làm sạch bằng cách sử dụng các số liệu thống kê mô tả bao gồm các bảng tần số, bảng dự phòng và các sơ đồ phân tán. Các ngoại lệ, được xác định là các giá trị nhiều hơn +5 SD hoặc nhỏ hơn −5 SDS, đã được kiểm tra các lỗi nhập dữ liệu và sửa chữa bất cứ khi nào có thể. Nếu không có hiệu chỉnh, các phép đo này được coi là sai lầm và được định nghĩa là thiếu. Các phân phối cho trình độ học vấn của trẻ em và phụ huynh và cho các khu vực địa lý được so sánh với các phân phối quốc gia (31) để kiểm tra tính đại diện. Chúng tôi đã sử dụng phương pháp cắt bỏ đa biến bằng phương pháp Trình Chaine (32,33) để sửa chữa cho các cấp độ giáo dục hoặc các khu vực địa lý được đại diện. Mô hình cắt giảm dựa trên tuổi, giới tính, SDS chiều cao, SD trọng lượng, SDS eo, SDS hông, chiều cao của cha mẹ, cân nặng khi sinh, dân tộc, điểm tình trạng kinh tế xã hội (34), trình độ học vấn của trẻ em và phụ huynh, và khu vực địa lý. Việc cắt giảm thụ động được thực hiện trên các tương tác giữa tuổi và vùng, tuổi và tất cả các SD, bình phương tuổi và bình phương tuổi và tất cả các SD. Không có sự điều chỉnh cho quá trình chuyển đổi từ các phép đo chiều dài sang chiều cao, cho rằng tuổi của quá trình chuyển từ chiều dài sang đo chiều cao khác nhau từ trẻ sang trẻ trong thực hành hàng ngày. Chiều dài và chiều cao được nối trơn.

Các giá trị tham chiếu SDS theo chiều cao theo tuổi năm 2009 được tính toán bằng phương pháp LMS (35). Đối với các tính toán này, dữ liệu của 146 trẻ em trong độ tuổi 222525 y đã được thêm vào bộ dữ liệu để có được kết quả phù hợp ổn định ở tuổi 21 năm. Những đối tượng này đã được loại trừ khỏi phân tích sâu hơn. Phương pháp LMS tính toán ba đường cong mịn biểu thị độ lệch (đường cong L), đường cong trung bình (M) và hệ số biến đổi (đường cong S) để thiết lập các đường SDS. L Giá trị của 1 biểu thị tính quy tắc và các giá trị nhỏ hơn biểu thị độ lệch lớn hơn dần. Đường cong M là đường 0 SDS hoặc đường cong centile 50. Đường cong S xác định hệ số biến đổi và khi nhân với 100, nó có thể được hiểu là phần trăm. Các thông số làm mịn (mức độ tự do hiệu quả) cho các đường cong L, M và S đã được chọn bằng cách tạo ra các lô sâu: các ô định lượng được loại bỏ cục bộ của SDS của các mẫu tham chiếu trên 16 nhóm tuổi (36). Một chuyển đổi nhật ký đã được áp dụng cho trục tuổi. Các đường cong được trang bị như các spline khối. Cuối cùng, các ước tính được thực hiện từ các giá trị tham chiếu SDS liên quan đến tuổi về chiều cao năm 2009.

Sự khác biệt về chiều cao trung bình giữa các mẫu năm 2009, 1997, 1980, 1965 và 1955 được tính toán cho từng nhóm tuổi. Chiều cao có nghĩa là trong bài viết này đề cập đến phần trăm thứ 50 của các biểu đồ tham chiếu, trừ khi có chỉ định khác. Trẻ em từ nghiên cứu năm 2009 với cân nặng khi sinh

Phân tích đa biến (ANOVA) đã được thực hiện để đánh giá các hiệp hội và xu hướng cho các biến số nhân khẩu học (khu vực địa lý, trình độ học vấn trẻ em và trình độ học vấn của cha mẹ) với SDS chiều cao năm 2009 và sự khác biệt giữa năm 1997 và 2009. Ảnh hưởng của hai yếu tố khác.

R Phiên bản 2.9.0 (Nhóm Phát triển R, Vienna, Áo) với gói GAMLSS (37) đã được sử dụng để cắt bỏ và để ước tính các giá trị tham chiếu SDS chiều cao. Tất cả các phân tích thống kê khác đã được thực hiện trong SPSS phiên bản 17.0 cho Windows (SPSS, Chicago, IL).

Báo cáo hỗ trợ tài chính

Nghiên cứu này được tài trợ bởi Bộ Phúc lợi và Thể thao Hà Lan (tài trợ 310434, 312617 và 315319). Các nhà nghiên cứu độc lập với nhà tài trợ.

Chiều cao nam giới trung bình trên thế giới là gì?

  1. Chiều cao trung bình của những người đàn ông trên khắp thế giới. Chiều cao nam giới trung bình trên toàn thế giới thường được đo bằng centimet bởi các bác sĩ và nhà khoa học. Một người đàn ông Mỹ trung bình chỉ dưới 5 feet, 10 inch - hoặc khoảng 5 feet, chính xác là 9,3 inch. Đó là khoảng 176 cm.45:Suppl 2:8–17.

    Bài viết & NBSP; CAS & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  2. Chiều cao hoàn hảo cho một người đàn ông là gì?47:316–23.

    Bài viết & NBSP; CAS & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  3. Người ta có thể kết luận từ Komlos rằng chiều cao đáng nể của sáu feet cũng là chiều cao lý tưởng cho nam giới.7:137–52.

    Bài viết & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  4. Stasinopoulos DM, Rigby RA. Các mô hình phụ gia tổng quát cho tỷ lệ và hình dạng vị trí (GAMLSS) trong R. J Stat Softw 2007; 23: 1 Phản46.

  5. Tải xuống tài liệu tham khảo

  6. Gohlke B, Woelfle J. Tăng trưởng và tuổi dậy thì ở trẻ em Đức: Vẫn còn một xu hướng thế tục tích cực? DTSCH ARZTEBL INT 2009; 106: 377 Từ82.106:377–82.

    PubMed & NBSP; PubMed Central & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  7. Komlos j. Sự suy giảm gần đây về chiều cao của phụ nữ Mỹ gốc Phi. ECON HUM BIOL 2010; 8: 58 Từ66.8:58–66.

    Bài viết & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  8. CYRAAL CERAUE VOOR DE Statistiek, (Thống kê Hà Lan). [Tổng sản phẩm quốc nội của Hà Lan 2000-2009]. . Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012.

  9. Boelhouwer j. [Tình hình cuộc sống, hạnh phúc và chất lượng cuộc sống]. Trong: Bijl R, Boelhouwer J, Cloïn M, Pommer E, eds. [Trạng thái xã hội của Hà Lan 2011]. Den Haag: Sociaal văn hóa Planbureau, 2011: 307.

  10. Boelhouwer j. [Tình hình cuộc sống]. Trong: ROES T, ed. [Trạng thái xã hội của Hà Lan 2001]. Den Haag: Sociaal văn hóa Planbureau, 2001: 241.

  11. Komlos j. Bằng chứng nhân trắc học về tăng trưởng kinh tế, sức khỏe sinh học và sự hội tụ khu vực trong chế độ quân chủ Habsburg, c. 1850-1910. Cliometrica 2007; 1: 211 Từ37.1:211–37.

    Bài viết & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  12. CYRAAL CERAUE VOOR DE Statistiek, (Thống kê Hà Lan). [Tổng sản phẩm quốc nội của Hà Lan 2000-2009]. . Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012.18:1881–7.

    Boelhouwer j. [Tình hình cuộc sống, hạnh phúc và chất lượng cuộc sống]. Trong: Bijl R, Boelhouwer J, Cloïn M, Pommer E, eds. [Trạng thái xã hội của Hà Lan 2011]. Den Haag: Sociaal văn hóa Planbureau, 2011: 307.

  13. Boelhouwer j. [Tình hình cuộc sống]. Trong: ROES T, ed. [Trạng thái xã hội của Hà Lan 2001]. Den Haag: Sociaal văn hóa Planbureau, 2001: 241.

  14. Komlos j. Bằng chứng nhân trắc học về tăng trưởng kinh tế, sức khỏe sinh học và sự hội tụ khu vực trong chế độ quân chủ Habsburg, c. 1850-1910. Cliometrica 2007; 1: 211 Từ37.6(11):e27608.

    Bài viết & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  15. CYRAAL CERAUE VOOR DE Statistiek, (Thống kê Hà Lan). [Tổng sản phẩm quốc nội của Hà Lan 2000-2009]. . Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012.110:e43.

    Bài viết & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  16. CYRAAL CERAUE VOOR DE Statistiek, (Thống kê Hà Lan). [Tổng sản phẩm quốc nội của Hà Lan 2000-2009]. . Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012.3:3.

    Bài viết & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  17. CYRAAL CERAUE VOOR DE Statistiek, (Thống kê Hà Lan). [Tổng sản phẩm quốc nội của Hà Lan 2000-2009]. . Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012.

  18. Boelhouwer j. [Tình hình cuộc sống, hạnh phúc và chất lượng cuộc sống]. Trong: Bijl R, Boelhouwer J, Cloïn M, Pommer E, eds. [Trạng thái xã hội của Hà Lan 2011]. Den Haag: Sociaal văn hóa Planbureau, 2011: 307.

  19. Boelhouwer j. [Tình hình cuộc sống]. Trong: ROES T, ed. [Trạng thái xã hội của Hà Lan 2001]. Den Haag: Sociaal văn hóa Planbureau, 2001: 241.

  20. Komlos j. Bằng chứng nhân trắc học về tăng trưởng kinh tế, sức khỏe sinh học và sự hội tụ khu vực trong chế độ quân chủ Habsburg, c. 1850-1910. Cliometrica 2007; 1: 211 Từ37.

  21. Berkey CS, Colditz GA, Rockett HR, Frazier AL, Willett WC. Tiêu thụ sữa và tăng trưởng chiều cao của phụ nữ: Nghiên cứu đoàn hệ tương lai. Ung thư Epidemiol Biomarkers Prev 2009; 18: 1881 Từ7.5:340–9.

    Bài viết & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  22. CYRAAL CERAUE VOOR DE Statistiek, (Thống kê Hà Lan). [Tổng sản phẩm quốc nội của Hà Lan 2000-2009]. . Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012.

  23. Boelhouwer j. [Tình hình cuộc sống, hạnh phúc và chất lượng cuộc sống]. Trong: Bijl R, Boelhouwer J, Cloïn M, Pommer E, eds. [Trạng thái xã hội của Hà Lan 2011]. Den Haag: Sociaal văn hóa Planbureau, 2011: 307.328:841–6.

    Bài viết & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  24. CYRAAL CERAUE VOOR DE Statistiek, (Thống kê Hà Lan). [Tổng sản phẩm quốc nội của Hà Lan 2000-2009]. . Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012.

  25. Boelhouwer j. [Tình hình cuộc sống, hạnh phúc và chất lượng cuộc sống]. Trong: Bijl R, Boelhouwer J, Cloïn M, Pommer E, eds. [Trạng thái xã hội của Hà Lan 2011]. Den Haag: Sociaal văn hóa Planbureau, 2011: 307.

  26. Boelhouwer j. [Tình hình cuộc sống]. Trong: ROES T, ed. [Trạng thái xã hội của Hà Lan 2001]. Den Haag: Sociaal văn hóa Planbureau, 2001: 241.63:1–34.

    Komlos j. Bằng chứng nhân trắc học về tăng trưởng kinh tế, sức khỏe sinh học và sự hội tụ khu vực trong chế độ quân chủ Habsburg, c. 1850-1910. Cliometrica 2007; 1: 211 Từ37.

  27. Berkey CS, Colditz GA, Rockett HR, Frazier AL, Willett WC. Tiêu thụ sữa và tăng trưởng chiều cao của phụ nữ: Nghiên cứu đoàn hệ tương lai. Ung thư Epidemiol Biomarkers Prev 2009; 18: 1881 Từ7.

  28. Bài viết & NBSP; CAS & NBSP; Học giả Google & NBSP;10:24–5.

    Komlos j. Bằng chứng nhân trắc học về tăng trưởng kinh tế, sức khỏe sinh học và sự hội tụ khu vực trong chế độ quân chủ Habsburg, c. 1850-1910. Cliometrica 2007; 1: 211 Từ37.

  29. Berkey CS, Colditz GA, Rockett HR, Frazier AL, Willett WC. Tiêu thụ sữa và tăng trưởng chiều cao của phụ nữ: Nghiên cứu đoàn hệ tương lai. Ung thư Epidemiol Biomarkers Prev 2009; 18: 1881 Từ7.

  30. Bài viết & NBSP; CAS & NBSP; Học giả Google & NBSP;44:45–60.

    CAS & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  31. CYRAAL CERAUE VOOR DE Statistiek, (Thống kê Hà Lan). [Thống kê nhân khẩu học 2008]. (http://statline.cbs.nl/statweb/selection/?dm=slnl&pa=37713&vw). Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2009.

  32. BUUREN VAN S, GROOPHUIS-OUDSHOORN k. Chuột: Cắt bỏ đa biến bằng các phương trình chuỗi trong R. J Stat Softw 2011; 45: 1 Ném67.45:1–67.

    Học giả Google & NBSP;

  33. BUUREN VAN s. Vấn đề lựa chọn. Trong: Buuren Van S, ed. Cắt bỏ linh hoạt của dữ liệu bị thiếu. Boca Raton, FL: Chapman & Hall/CRC Press, 2012: 212 Từ8.

  34. Sociaal en Cultureel Planbureau (Viện Reseach xã hội Hà Lan). [Điểm trạng thái 2006]. . Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2010.

  35. Cole TJ, PJ xanh. Làm mịn các đường cong centile tham chiếu: Phương pháp LMS và khả năng bị phạt. Stat Med 1992; 11: 1305 Từ19.11:1305–19.

    Bài viết & NBSP; CAS & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  36. Buuren Van s, Fredriks m. Lô giông: Một thiết bị chẩn đoán đơn giản để mô hình hóa các đường cong tham chiếu tăng trưởng. Stat Med 2001; 20: 1259 Từ77.20:1259–77.

    Bài viết & NBSP; Học giả Google & NBSP;

  37. Stasinopoulos DM, Rigby RA. Các mô hình phụ gia tổng quát cho tỷ lệ và hình dạng vị trí (GAMLSS) trong R. J Stat Softw 2007; 23: 1 Phản46.23:1–46.

    Bài viết & NBSP; Học giả Google & NBSP;

Stasinopoulos DM, Rigby RA. Các mô hình phụ gia tổng quát cho tỷ lệ và hình dạng vị trí (GAMLSS) trong R. J Stat Softw 2007; 23: 1 Phản46.

Tải xuống tài liệu tham khảo

Sự nhìn nhận

Chúng tôi cảm ơn tất cả trẻ em, cha mẹ của chúng và các nhân viên chăm sóc sức khỏe cộng đồng đã tham gia vào nghiên cứu này. Chúng tôi cảm ơn Actiz và GGD-Lederland vì sự hợp tác của họ trong nghiên cứu. Chúng tôi cảm ơn Deltion College/Opoz Vu-Windesheim và GGD Amsterdam vì đã vui lòng cung cấp các bộ dữ liệu của họ.

Thông tin của tác giả

  1. Tác giả và chi nhánh

    Bộ Y tế Trẻ em, Tổ chức Nghiên cứu Khoa học Ứng dụng (TNO) của Hà Lan, Leiden, Hà Lan

  2. Yvonne Schönbeck & nbsp; && nbsp; Simone E. Buitendijk

    Viện Nghiên cứu Chăm sóc Sức khỏe và Chăm sóc Sức khỏe (EMGO+), Trung tâm Y tế Đại học miễn phí (VUMC), Amsterdam, Hà Lan

  3. Henk Talma & nbsp; && nbsp; Remy A. Hirasing

    Sở Phong cách Đời sống, Tổ chức Nghiên cứu Khoa học Ứng dụng Hà Lan (TNO), Leiden, Hà Lan

  4. Paula van Dommelen & nbsp; && nbsp; Stef van Buuren

    Khoa Nhi, Trung tâm Y tế Đại học Leiden, Leiden, Hà Lan

Boudewijn Bakker

  1. Tác giả

    Yvonne SchönbeckPubMed Google Scholar

  2. Bạn cũng có thể tìm kiếm tác giả này trong PubMed & NBSP; Google Scholar

    Yvonne SchönbeckPubMed Google Scholar

  3. Bạn cũng có thể tìm kiếm tác giả này trong PubMed & NBSP; Google Scholar

    Yvonne SchönbeckPubMed Google Scholar

  4. Khoa Nhi, Trung tâm Y tế Đại học Leiden, Leiden, Hà Lan

    Yvonne SchönbeckPubMed Google Scholar

  5. Bạn cũng có thể tìm kiếm tác giả này trong PubMed & NBSP; Google Scholar

    Yvonne SchönbeckPubMed Google Scholar

  6. Bạn cũng có thể tìm kiếm tác giả này trong PubMed & NBSP; Google Scholar

    Yvonne SchönbeckPubMed Google Scholar

  7. Bạn cũng có thể tìm kiếm tác giả này trong PubMed & NBSP; Google Scholar

    Yvonne SchönbeckPubMed Google Scholar

Bạn cũng có thể tìm kiếm tác giả này trong PubMed & NBSP; Google Scholar

Henk Talma

Paula Van Dommelen

Simone E. Buitendijk

Remy A. Hirasing

Stef Van Buuren73, 371–377 (2013). https://doi.org/10.1038/pr.2012.189

Đồng tác giả

  • Tương ứng với Yvonne Schönbeck.: 05 December 2011

  • Quyền và quyền: 18 October 2012

  • Về bài viết này: 10 December 2012

  • Trích dẫn bài viết này: March 2013

  • Schönbeck, Y., Talma, H., Van Dommelen, P. et al. Quốc gia cao nhất thế giới đã ngừng phát triển cao hơn: chiều cao của trẻ em Hà Lan từ năm 1955 đến 2009. Pediatr Res 73, 371 Phản377 (2013). https://doi.org/10.1038/pr.2012.189: https://doi.org/10.1038/pr.2012.189

Chiều cao phổ biến nhất cho một người đàn ông là gì?

Người đàn ông Mỹ trung bình là khoảng 5 feet 9 inch.

Chiều cao nam giới trung bình trên thế giới là gì?

Chiều cao trung bình của những người đàn ông trên khắp thế giới.Chiều cao nam giới trung bình trên toàn thế giới thường được đo bằng centimet bởi các bác sĩ và nhà khoa học.Một người đàn ông Mỹ trung bình chỉ dưới 5 feet, 10 inch - hoặc khoảng 5 feet, chính xác là 9,3 inch.Đó là khoảng 176 cm.

Chiều cao hoàn hảo cho một người đàn ông là gì?

Người ta có thể kết luận từ Komlos rằng chiều cao đáng nể của sáu feet cũng là chiều cao lý tưởng cho nam giới.

Chiều cao trung bình 5'7 có phải là một người đàn ông không?

Người đàn ông bình thường ở Hoa Kỳ được cho là (năm 2007) để đứng 5 feet 9 inch (khoảng 69 inch) 69 inch.Một thế kỷ trở lại, kích thước trung bình ở Hoa Kỳ chỉ là 5 feet 7 inch hoặc khoảng 170 cm.