Triệu Đà xâm lược nước ta cách đây bao nhiêu năm

Năm 179 TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta. Em hãy tính khoảng thời gian theo thế kỉ, theo năm của sự kiện so với năm 2013.

A. Năm 179 TCN thuộc thế kỉ II TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta cách nay 2,102 năm

B.Năm 179 TCN thuộc thế kỉ II TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta cách nay 2,192 năm

Đáp án chính xác

C.Năm 179 TCN thuộc thế kỉ III TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta cách nay 3,000 năm

D. Năm 179 TCN thuộc thế kỉ II TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta cách nay 2,000 năm

Xem lời giải

Mục lục

Tiểu sửSửa đổi

Sách Đại Việt sử ký toàn thư dẫn lại ghi chép của Sử ký Tư Mã Thiên, theo đó Triệu Đà vốn người huyện Chân Định [真定], quận Hằng Sơn [恒山], đời nhà Tần [ngày nay là huyện Chính Định [正定], tỉnh Hà Bắc], Trung Quốc[1].

Triệu Đà là tướng của nhà Tần, được lệnh Tần Thủy Hoàng đem quân đánh xuống phía Nam, mở rộng lãnh thổ cho nhà Tần. Khi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà khi đó đang làm quan cai trị ở phía Nam [nay là tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây]. Nhân cơ hội Trung Hoa rối loạn, Triệu Đà tự xưng vương để lập nên nước Nam Việt, trị vì khoảng từ năm 207 TCN đến năm 137 TCN, xưng là Nam Việt Vũ Vương hay là Nam Việt Vũ Đế.

Năm mất của Triệu Đà được các nguồn sử liệu thống nhất là 137 TCN. Về năm sinh của Triệu Đà, các nguồn tài liệu đề cập khác nhau. Đại Việt sử ký toàn thư của sử thần Ngô Sĩ Liên chép rằng ông sinh năm 258 TCN, tức là thọ 121 tuổi[3].

Các nhà nghiên cứu hiện nay lại căn cứ theo một dòng trong Hán thư của Ban Cố cho biết ông tham gia nam chinh từ năm 20 tuổi[cần dẫn nguồn] và đó là thời điểm 13 năm trước khi Lưu Bang thành lập nhà Hán [202 TCN], tức là ông sinh năm 235 TCN và tham gia nam chinh từ năm 215 TCN, năm 214 TCN được Tần Thủy Hoàng phong huyện lệnh Long Xuyên.[4] Theo giả thuyết này, Triệu Đà thọ 99 tuổi.

Sự nghiệpSửa đổi

Bình định đất Lĩnh NamSửa đổi

Xem thêm: Chiến tranh Tần-Việt
Bản đồ các khu vực lẻ tẻ do nhà Tần chiếm được của các nhóm tộc Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử sau năm 210 TCN.
Bản đồ vùng đất Lĩnh Nam thời Trưng Vương [40-43 sau Công nguyên].

Sau khi thống nhất bảy nước, Tần Thuỷ Hoàng bắt tay bình định vùng đất Bách Việt ở Lĩnh Nam.

Năm 218 trước Công Nguyên, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư [屠睢][5] làm chủ tướng, chỉ huy 50 vạn quân đi bình định miền Lĩnh Nam. Khi Đồ Thư chiếm được vùng đất Lĩnh Nam, Tần Thủy Hoàng lập nên ba quận là Nam Hải [Quảng Đông], Quế Lâm [đông bắc Quảng Tây] và Tượng quận. Đồ Thư chiếm được nhiều đất đai nhưng cuối cùng bị tử trận.

Tần Thủy Hoàng sai Nhâm Ngao [壬嚣][6] cùng Triệu Đà đến cai trị vùng Lĩnh Nam. Nhâm Ngao làm Quận úy quận Nam Hải. Nam Hải gồm bốn huyện Bác La, Long Xuyên,[7] Phiên Ngung và Yết Dương; trong đó huyện Long Xuyên có vị trí quan trọng nhất về địa lý và quân sự, được giao dưới quyền Triệu Đà làm Huyện lệnh.

Giếng Việt Vương ở huyện Long Xuyên, TP. Hà Nguyên, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, tương truyền được đào bởi Triệu Đà khi ông còn làm Huyện lệnh Long Xuyên.

Sau khi tới thủ phủ Long Xuyên nhậm chức, Triệu Đà áp dụng chính sách "hoà tập Bách Việt" đồng thời xin Tần Thủy Hoàng di dân 50 vạn người từ Trung Nguyên đến vùng này, tăng cường chính sách "Hoa Việt dung hợp" [hòa lẫn người Hoa Hạ và người Lĩnh Nam].

Ly khai nhà TầnSửa đổi

Tần Thủy Hoàng chết [210 TCN], Tần Nhị Thế nối ngôi, khởi nghĩa Trần Thắng, Ngô Quảng nổ ra năm 209 TCN, rồi tiếp theo là chiến tranh Hán-Sở giữa Lưu Bang và Hạng Vũ [từ năm 206 TCN], Trung Nguyên rơi vào cảnh rối ren loạn lạc.

Tượng Triệu Đà, phía trước Nhà ga đường sắt Hà Nguyên

Năm 208 TCN, Quận uý Nam Hải là Nhâm Ngao bị bệnh nặng, trước khi chết cho gọi Triệu Đà đang tạm thời làm Huyện lệnh Long Xuyên đến, dặn dò đại ý rằng:

Vùng đất Nam Hải có núi chắn, có biển kề, rất thuận lợi cho việc dựng nước và phòng thủ chống lại quân đội từ Trung Nguyên [tức khu vực trung ương Trung Quốc] đánh xuống,

và đồng thời chính thức bổ nhiệm Triệu Đà nối quyền cai trị quận Nam Hải.

Không lâu, Nhâm Ngao chết, Triệu Đà gửi lệnh đến quan quân các cửa ngõ Lĩnh Nam, canh giữ phòng chống quân đội Trung nguyên xâm phạm, và nhân dịp đó, giết hết những quan lại nhà Tần bổ nhiệm ở Lĩnh Nam, cho tay chân của mình thay vào những chức vụ đó.

Chinh phục Âu Lạc, lên ngôi vua nước Nam ViệtSửa đổi

Bản đồ nước Nam Việt

Sử sách ghi chép không thống nhất về việc Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc, cả về cách đánh lẫn thời gian và địa lý.

Sử ký Tư Mã Thiên ghi chép vắn tắt rằng Triệu Đà dùng tài ngoại giao và đút lót mua chuộc các thủ lĩnh người Mân Việt, Tây Âu Lạc mà thu phục các vùng này vào thời điểm "sau khi Lã hậu chết" [năm 180 TCN]. Các sách giáo khoa tại Việt Nam hiện nay đều thống nhất lấy thời điểm ước lệ này trong Sử ký và lấy năm ngay sau 180 TCN là 179 TCN [Xem mục về Niên đại và tư liệu ở dưới].

Lần xâm phạm đầu tiên, Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du [thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay] giao chiến với An Dương Vương bị thất bại và bỏ chạy. Sau này, nhờ sự trợ giúp của các thủ lĩnh làm nội gián cung cấp thông tin bí mật về bố phòng quân sự và bản đồ địa lý của Âu Lạc, Triệu Đà tiếp tục tiến hành âm mưu xâm lược.

Theo truyền thuyết ghi rằng Triệu Đà lập mưu gả con trai là Trọng Thủy cho con gái An Dương Vương là Mỵ Châu để trộm nỏ thần và bản đồ Loa Thành. Sau khi kết thông gia, cả hai lập ranh giới từ sông Bình Giang [nay là sông Đuống] trở lên phía Bắc thuộc quyền cai trị của Triệu Đà, trở về phía Nam thuộc quyền cai trị của An Dương Vương.[8] Cần lưu ý là truyền thuyết này không có bất cứ bằng chứng lịch sử nào. Theo truyền thuyết thì nỏ thần của thần Kim Quy không hoạt động nữa sau khi bị lấy cái móng thần làm lẫy [9]. Nếu nỏ sát thương cao có thật thì không thể hiệu quả chỉ dựa trên cái lẫy, và không thể chỉ hiệu quả đối với một cái nỏ duy nhất. Ngoài ra, trong số 436 người được khắc trên các trống đồng có 175 người cầm vũ khí [40,1%]. Các loại vũ khí gồm: giáo, rìu, cung, dao găm và mộc, không có nỏ [10].

Năm 208 TCN, Triệu Đà đánh thắng Âu Lạc của An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập nước Nam Việt. Theo truyền thuyết của người Việt, sau khi nghe tin Mỵ Châu bị An Dương Vương giết, Trọng Thủy nhảy xuống giếng tự vẫn để trọn tình với vợ là Mỵ Châu.

Năm 207 TCN, Triệu Đà cất quân đánh chiếm quận Quế Lâm, Tượng quận; tự xưng "Nam Việt Vũ Vương".

Năm 206 TCN, nhà Tần diệt vong.

Nước Nam Việt bấy giờ, bao gồm từ núi Nam Lĩnh,[11] phía tây đến Dạ Lang,[12] phía nam đến dãy Hoành Sơn,[13] phía đông đến Mân Việt.[14] Thủ đô nước Nam Việt lúc ấy là thành Phiên Ngung [thành phố Quảng Châu ngày nay].

Một số tài liệu nghiên cứu ngày nay cho rằng vùng đất miền Bắc Việt Nam bây giờ nằm trong quận Tượng [象郡] của nước Nam Việt lúc đó.

Thần phục nhà HánSửa đổi

Nước Nam Việt phía Tây giáp hai nước Dạ Lang và Câu Đinh, phía Đông giáp nước Mân Việt, phía Nam giáp với dãy Hoành Sơn, phía Bắc giáp nhà Hán.

Trải qua chinh chiến, Lưu Bang đã lập được chính quyền nhà Tây Hán [202 TCN], bình định Trung Nguyên, bao gồm cả thế lực thu phục được của Hạng Vũ. Lưu Bang quyết định không lấy chiến tranh đối phó với nước Nam Việt để dân chúng Trung nguyên khỏi mất người mất của sau bao năm loạn lạc.

Năm 196 TCN, Hán Cao Tổ Lưu Bang sai quan đại phu Lục Giả đi sứ đến nước Nam Việt khuyên Triệu Đà quy phục nhà Hán.

Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:

Vũ Vương vốn là người kiêu căng, có ý không muốn phục nhà Hán, đến khi Lục Giả sang đến nơi, vào yết kiến Vũ Vương, Vũ Vương ngồi xếp vành tròn, không đứng dậy tiếp. Lục Giả thấy vậy mới nói rằng: "Nhà vua là người nước Tần, mồ mả và thân thích ở cả châu Chân Định. Nay nhà Hán đã làm vua thiên hạ, sai sứ sang phong vương cho nhà vua, nếu nhà vua kháng cự sứ thần, không làm lễ thụ phong, Hán đế tất là tức giận, hủy hoại mồ mả và giết hại thân thích của nhà vua, rồi đem quân ra đánh thì nhà vua làm thế nào?" Vũ Vương nghe lời ấy vội vàng đứng dậy làm lễ tạ, rồi cười mà nói rằng: "Tiếc thay ta không được khởi nghiệp ở nước Tần, chứ không thì ta cũng chẳng kém gì Hán Đế!"

Được Lục Giả khuyên, Triệu Đà chịu nhận ấn tước Nam Việt Vương [chúa đất vùng Nam Việt] của Hán Cao Tổ gửi, thần phục nhà Hán, đưa Nam Việt thành một nước chư hầu [nhưng chỉ trên danh nghĩa] của nhà Hán. Từ đó, Nam Việt và nhà Hán trao đổi sứ giả và buôn bán. Lưu Bang đã lấy hoà bình mà quy phục Triệu Đà, không còn mối lo thế lực chống đối nhà Hán ở miền nam nữa.

Xưng đế chống HánSửa đổi

Hán Cao Tổ Lưu Bang và Hán Huệ Đế Lưu Doanh chết đi, Lã Hậu nắm quyền, bắt đầu gây sự với Triệu Đà. Lã Hậu ra lệnh cấm vận với nước Nam Việt. Triệu Đà thấy Lã Hậu có thể qua nước Trường Sa[15] mà thôn tính Nam Việt. Thế là Triệu Đà bèn tuyên bố độc lập hoàn toàn khỏi nhà Hán, tự xưng "Nam Việt Vũ Đế" và cất quân đánh nước Trường Sa, chiếm được mấy huyện biên giới của Trường Sa mới chịu thôi.

Lã Hậu bèn sai đại tướng Long Lư hầu là Chu Táo đi đánh Triệu Đà. Quân lính Trung Nguyên không quen khí hậu nóng nực và ẩm thấp miền nam, ùn ùn đổ bệnh, ngay dãy núi Ngũ Lĩnh cũng chưa đi qua nổi. Một năm sau, Lã Hậu chết, mưu đồ đánh Triệu Đà của quân nhà Hán bỏ hẳn.

Lúc đó Triệu Đà dựa vào tiếng tăm tài quân sự của mình lừng lẫy cả vùng Lĩnh Nam, lại nhờ tài hối lộ của cải, làm cả Mân Việt và phía Tây nước Âu Lạc cũ ùn ùn quy thuộc Nam Việt. Lúc ấy nước Nam Việt bành trướng đến mức cực thịnh. Triệu Đà bắt đầu lấy tên uy Hoàng Đế mà ra lệnh ra oai, thanh thế ngang ngửa đối lập với nhà Hán.

Lại thần phục nhà HánSửa đổi

Năm 180 TCN, Lã Hậu chết, Hán Văn Đế Lưu Hằng nối ngôi.

Năm 179 TCN, vua Hán sai người tu sửa mồ mả cha ông Triệu Đà, cắt đặt hàng năm đúng ngày thờ cúng, ban thưởng chức vụ và của cải cho bà con Triệu Đà còn ở trong đất Hán. Nghe thừa tướng Trần Bình tiến cử, Lưu Hằng sai Lục Giả, người từng được Hán Cao Tổ sai sứ đi Nam Việt nhiều lần, làm chức Thái Trung Đại Phu, lại đi thuyết phục Triệu Đà quy Hán. Lục Giả đến Nam Việt, lại trổ tài thuyết phục Triệu Đà. Triệu Đà nghe thuyết phục phải trái hơn thiệt, quyết định bỏ danh hiệu Đế, quy phục nhà Hán [nhưng vẫn tiếm hiệu xưng Hoàng Đế ở trong nước Nam Việt]. Nhân đó, Triệu Đà viết thư nhờ Lục Giả gửi cho vua Hán, rằng:

Man Di đại trưởng lão phu, thần Đà, mạo muội đáng chết, hai lạy dâng thư lên Hoàng đế bệ hạ. Lão phu vốn là lại cũ ở đất Việt, Cao Đế ban cho ấn thao làm Nam Việt Vương. Hiếu Huệ Hoàng Đế lên ngôi, vì nghĩa không nỡ tuyệt nên ban cho lão phu rất hậu. Cao Hậu lên coi việc nước lại phân biệt Hoa - Di, ra lệnh không cho Nam Việt những khí cụ làm ruộng bằng sắt và đồng; ngựa, trâu, dê nếu cho thì cũng chỉ cho con đực, không cho con cái. Lão phu ở đất hẻo lánh, ngựa, trâu, dê đã già. Tự nghĩ nếu không sắm lễ vật cúng tế, thì tội thực đáng chết, mới sai quan Nội sử [內使] là Phan [潘], quan Trung úy [中尉] là Cao [高], quan Ngự sử [御史] là Bình [平], ba bọn dâng thư tạ lỗi, nhưng đều không thấy trở về. Lại nghe đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lão phu bị đập phá, anh em họ hàng đều bị giết. Vì vậy, bọn lại bàn nhau rằng: "Nay bên trong không được phấn chấn với nhà Hán, bên ngoài không lấy gì để tự cao khác với nước Ngô". Vì vậy mới đổi xưng hiệu là Đế, để tự làm Đế nước mình, không dám làm điều gì hại đến thiên hạ. Cao Hoàng Hậu nghe tin cả giận, tước bỏ sổ sách của Nam Việt, khiến cho việc sai người đi sứ không thông. Lão phu trộm ngờ là vì Trường Sa Vương gièm pha, cho nên mới đem quân đến đánh biên giới. Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi, những vẫn phải dậy sớm, ngủ muộn, nằm không yên chiếu, ăn không biết ngon, mắt không trông sắc đẹp, tai không nghe tiếng chuông trống, chỉ vì không được làm tôi nhà Hán mà thôi. Nay may được bệ hạ có lòng thương đến, được khôi phục hiệu cũ, cho thông sứ như trước, lão phu dù chết xương cũng không nát. Vậy xin đổi tước hiệu, không dám xưng Đế nữa. Kính cẩn sai sứ giả dâng một đôi ngọc bích trắng, 1.000 bộ lông chim trả, 10 sừng tê, 500 vỏ ốc màu tía, 1 giỏ cà cuống, 40 đôi chim trả sống, 2 đôi chim công. Mạo muội liều chết, hai lạy dâng lên Hoàng đế bệ hạ.[2]

Kể từ đó đến đời Hán Cảnh Đế, Triệu Đà một mực xưng thần, hàng năm cứ mùa Xuân và mùa Thu, đều đưa đoàn sứ đến Trường An triều cống hoàng đế nhà Hán, chịu mệnh lệnh làm chư hầu [trên danh nghĩa] của nhà Hán. Năm 137 TCN, Nam Việt Vương Triệu Đà qua đời, sống được ước chừng hơn trăm tuổi [theo Đại Việt Sử ký Toàn thư là 121 tuổi], chôn ở Phiên Ngung [tức thành phố Quảng Châu ngày nay].

Triệu Đà chết đi, con cháu tiếp tục được bốn đời vua Nam Việt, cho đến năm 111 trước Công Nguyên mới bị nhà Hán chiếm.

Triệu Đà và 76 năm sống trên đất Việt

21/08/2013

Đại Việt sử ký toàn thư, bộ quốc sử đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam khẳng định Triệu Đà là một nhân vật có thực và đã dành riêng một chương để chép về kỷ nhà Triệu trong đó Triệu Đà [Triệu Vũ Đế] được xem là người khởi lập một triều đại mới trên đất nước ta.

Đương nhiên, chúng ta không thể chấp nhận quan niệm sai lạc của các nhà sử học phong kiến trước đây khi coi nhà Triệu là triều đại mở đầu nghiệp đế vương của đất nước, nhưng với 76 năm sống trên đất Việt [từ 213 đến 137 TCN], có thể khẳng định rằng nhân vật Triệu Đà sẽ vẫn còn để lại những dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa của dân tộc ta.

Căn cứ vào ghi chép trong các thư tịch cổ thì Triệu Đà vốn người Hán, quê ở huyện Chân Định [tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc], đất nước của Triệu thời Chiến Quốc. Năm 208 TCN, sau khi thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược địa bàn của các tộc người Âu Việt và Lạc Việt, nhà Tần cũng cắt đặt quan lại cai trị, thành lập chính quyền cấp quận và cấp huyện ở những vùng mới chiếm được ở phương Nam trong đó Nhâm Ngao được cử giữ chức Quan úy [chức võ quan] quận Nam Hải còn Triệu Đà làm quan lệnh huyện Long Xuyên.

Khi Tần Thủy Hoàng chết, đế chế Tần bị lung lay, bốn quận mới thành lập ở phía Nam, trên thực tế, đã thoát khỏi sự quản lý và kiểm soát của triều đình trung ương. Đông Việt và Mân Việt ở quận Mân Trung nổi dậy chống Tần, cố phục hồi nước cũ. Nhâm Ngao và Triệu Đà âm mưu cát cứ Nam Hải. Trước khi chết, Nhâm Ngao cho mời Triệu Đà đến Phiên Ngung [Quảng Châu, trị sở của quận Nam Hải] giao phó toàn bộ mưu đồ cát cứ và viết giấy cử Triệu Đà thay mình cai quản quận Nam Hải. Được sự giao phó của Nhâm Ngao, Triệu Đà liền chiếm lấy quận Nam Hải, giữ các cửa ải và chặn các đường giao thông từ bắc xuống, diệt trừ những quan lại là Tần có ý chống đối và thay bằng những người thân cận, cùng phe cánh. Chính quyền Phiên Ngung trở thành chính quyền cát cứ của họ Triệu.

Năm 206 TCN, nhà Tần bị diệt. Triệu Đà lập tức đánh chiếm cả quận Quế Lâm và quận Tượng, thành lập nước Nam Việt và tự xưng là Nam Việt Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung. Nước Nam Việt của nhà Triệu chính thức ra đời từ đó. Năm 183 TCN, Triệu Đà liền tự xưng là Nam Việt Vũ Đế, lập thành một nước riêng, không chịu thần phục nhà Hán và đẩy mạnh các hoạt động bành trướng lãnh thổ. Đây là giai đoạn phát triển cao nhất trong mưu đồ cát cứ và bành trướng của Nam Việt trong đó một trong những mục tiêu chủ yếu của nhà Triệu là nước Âu Lạc giàu có ở phương Nam.

Truyền thuyết dân gian vùng ven thành Cổ Loa còn kể lại rằng khi đi đánh An Dương Vương, Triệu Đà đã cho thuyền ngược sông Hồng và cho đóng quân ở bến sông, nay là đoạn cuối làng Dâu hay có tên khác là làng Lực Canh [Xuân Canh, Đông Anh] và đầu làng Văn Tinh [Xuân Canh, Đông Anh], nơi rất gần với ngã ba Dâu [nơi hợp lưu của sông Đuống và sông Hồng]. Nhiều nơi xung quanh khu vực Cổ Loa như các làng Văn Tinh, Lực Canh [Xuân Canh], Thạc Quả [Dục Tú] thờ Triệu Đà. Tương truyền, làng Văn Tinh là nơi Triệu Đà đóng đại bản doanh còn dân Lực canh chỉ làm nhiệm vụ như cắt cỏ ngựa, khuân vác, phục vụ cho quân đội. Vì thế, đình Văn Tinh được coi là nơi thờ chính còn các nơi khác chỉ là nơi thờ vọng. Lễ hội làng Văn Tinh được tổ chức từ ngày mùng 6 đến mùng 8 tháng 3 hàng năm để tưởng nhớ Triệu Đà. Ngày 7 tháng 3, nhân dân làng Lực Canh rước tượng Trọng Thủy đến Văn Tinh với ý nghĩa con về thăm cha.

Sau thất bại của An Dương Vương, Triệu Đà đã tiến hành sát nhập toàn bộ đất đai Âu Lạc vào nước Nam Việt và chia Âu Lạc ra làm hai quận là Giao Chỉ và Cửu Chân đặt dưới sự thống trị của chính quyền Nam Việt ở Phiên Ngung [Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc]. Tuy nhiên, về cơ bản chính sách cai trị của Triệu Đà và sau này là nhà Triệu còn hết sức nới lỏng. Tại các quận Giao Chỉ và Cửu Chân, Triệu Đà các đại diện nhằm cai quản các công việc trong quận, trong đó chủ yếu là thực hiện chế độ thuế khóa theo phương thức cống nạp.

Qua các tài liệu thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam chúng ta được biết Triệu Đà và chính quyền nhà Triệu đã hòa nhập tương đối nhanh với đời sống của người Việt, thực thi nhiều chính sách và biện pháp khôn khéo nhằm tranh thủ các thủ lĩnh người Việt , tìm hậu thuẫn trong đông đảo nhân dân. Bên cạnh đó, Triệu Đà tự xưng là “ Man Di đại trưởng lão phu”, lấy vợ Việt, theo phong tục tập quán Việt [búi tó, ngồi xổm], chứng tỏ như một thủ lĩnh, một tù trưởng của người Việt. Mặt khác, chính quyền nhà Triệu còn có tư tưởng chống nhà Hán tương đối mạnh mẽ. Điều đó, được thể hiện rõ nét nhất khi đặt tên quốc gia của mình là Nam Việt [chứ không phải là Nam Hán như tập đoàn Lưu Cung thế kỷ X khi vùng Lưỡng Quãng đã bị Hán hóa hoàn toàn] cũng như thái độ tự chủ, không chịu thần phục triều đình nhà Hán. Tư tưởng chống Hán và hòa nhập cộng đồng người Việt của Triệu Đà trước hết được xuất phát từ quyền lợi của bản thân chính quyền nhà Triệu nhưng nhân tố ấy lại góp phần giúp Triệu Đà giành được thiện cảm trong tình cảm, tư tưởng người dân Âu Lạc.

2013-08-21
Chia sẻ
  • Facebook
  • Twitter
  • Google +

Năm 179 TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta, tính khoảng thời gian theo thế kỉ

19/08/2020 292

Câu hỏi Đáp án và lời giải
Câu Hỏi:
Năm 179 TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta. Em hãy tính khoảng thời gian theo thế kỉ, theo năm của sự kiện so với năm 2013.
A. Năm 179 TCN thuộc thế kỉ II TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta cách nay 2,102 năm B. Năm 179 TCN thuộc thế kỉ II TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta cách nay 2,192 năm C. Năm 179 TCN thuộc thế kỉ III TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta cách nay 3,000 năm D. Năm 179 TCN thuộc thế kỉ II TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta cách nay 2,000 năm
Câu hỏi trong đề: Trắc nghiệm Sử 6 bài 2: Cách tính thời gian trong lịch sử
Đáp án và lời giải
đáp án đúng: B
Năm 179 TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta. Năm 179 TCN thuộc thế kỉ II TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta cách nay 2,192 năm. Phép tính như sau: 2013 + 179 = 2192 [năm]

Dương [Tổng hợp]

Câu hỏi liên quan
Năm 111 TCN nhà Hán chiếm Âu Lạc cách năm 2016 bao nhiêu năm?

A. 2124 năm

B. 2125 năm

C. 2126 năm

D. 2127 năm

Một năm có 365 ngày, còn năm nhuận là bao nhiêu ngày?

A. 265 ngày

B. 365 ngày

C. 366 ngày

D. 385 ngày

Một bình gốm được chôn dưới đất năm 1885 TCN. Theo cách tính của các nhà khảo cổ học, bình gốm đã nằm dưới đất 3877 năm. Hỏi người ta phát hiện bình gốm vào năm nào?

A. Người ta phát hiện bình gốm vào năm 2003

B. Người ta phát hiện bình gốm vào năm 2002

C. Người ta phát hiện bình gốm vào năm 2004

D. Người ta phát hiện bình gốm vào năm 2005

Báo đáp án sai
Đang xử lý...

Cảm ơn Quý khách đã gửi thông báo.

Quý khách vui lòng thử lại sau.

Video liên quan

Chủ Đề