Trình bày đặc điểm cuộc sống nhà trường tiểu học

Đặc điểm tâm lí của HS lớp 3 như thế nào đối với việc học Tập đọc

Do hoạt động chủ đạo của học sinh có nhiều thay đổi vào thời điểm đầu cấp và cuối cấp tiểu học, tạo ra những nét mới, đặc thù trong sự phát triển tâm lí nên bên cạnh những đặc điểm chung nêu trên, tài liệu cũng mô tả một số đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học ở hai giai đoạn này. a. Đặc điểm tâm lí của học sinh đầu cấp tiểu học Bước vào tuổi thứ 6, trong môi trường văn hoá tiền học đường (gia đình và trường mẫu giáo), trẻ đã đạt được một số thành tựu phát triển tâm lí nhất định để chuẩn bị cho việc vào lớp 1. Đây là mốc chuyển tiếp quan trọng để học sinh đầu cấp tiểu học thực sự bước vào môi trường mới và chuyển dạng hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Những đặc điểm tâm lí nổi bật của giai đoạn này gồm: [a1] Hình thành được tâm thế “sẵn sàng đi học”. Trẻ 6 tuổi đã tích lũy được một số điều kiện tâm sinh lí cần thiết để đáp ứng yêu cầu của hoạt động học tập. Thể hiện ở việc, trẻ có thể thực hiện được vận động thô và vận động tinh tương đối nhanh chóng, khéo léo; có vốn hiểu biết nhất định về thế giới sự vật hiện tượng xung quanh; các thao tác trí tuệ đã có bước phát triển mới; sử dụng tương đối thành thạo tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp; có khả năng tự điều khiển, điều chỉnh hoạt động của bản thân; tự kiểm soát được hành vi; bắt đầu biết phục tùng kỉ luật…Tâm thế này càng vững chắc, ổn định thì càng làm cho học sinh thích đến trường, đi học, gặp gỡ thầy cô, bạn bè, thuận lợi cho việc thích ứng với hoạt động học tập về sau. [a2] Đặc điểm hoạt động nhận thức - Về nhận thức cảm tính: Các cơ quan cảm giác (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác) đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện. Tri giác của học sinh tiểu học dần tăng tính chủ định, đã biết tuân thủ mục đích của hoạt động học. Tuy nhiên, còn mang tính đại thể, chưa rõ ràng về chi tiết, chưa ổn định và thường gắn với hành động trực quan. - Về nhận thức lí tính: Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm. Loại tư duy trực quan hành động và trực quan hình ảnh chiếm ưu thế rõ rệt. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát. Tưởng tượng đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi. -Về ngôn ngữ: Đa số học sinh đầu cấp tiểu học đã phát âm “tròn vành rõ chữ”, sử dụng ngôn ngữ nói tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp tương đối thành thạo. Kĩ năng đọc ở nhiều trẻ được hình thành khá nhanh và ổn định, thậm chí có trẻ có thể “đọc bằng mắt”. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều trẻ phát âm lệch chuẩn, đánh vần, ghép từ, hiểu nghĩa của câu…còn chậm. Ngoài ra, ở học sinh lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết nhưng vì trong giai đoạn mới hình thành nên tốc độ viết của trẻ còn chậm, lỗi chính tả, ngữ pháp còn nhiều. Nhìn chung, trẻ mới ở giai đoạn tập viết chữ là chính, chứ chưa đạt đến trình độ sử dụng chữ viết để thể hiện ý. - Về khả năng chú ý: Chú ý không chủ định chiếm ưu thế. Chú ý có chủ định còn kém. Khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu, thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài, dễ bị phân tán trong quá trình học tập. Giáo viên nên giao cho trẻ những công việc hoặc bài tập đòi hỏi sự chú ý cao hơn và giới hạn thời gian cụ thể. - Về trí nhớ: Trẻ đầu bậc tiểu học phát triển trí nhớ tốt hơn giai đoạn trước. Trong đó, loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic. Ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt, chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Tuy nhiên, nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu. Giáo viên nên giúp các em biết cách khái quát hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em sự hứng thú, vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức. [a3] Đặc điểm đời sống tình cảm - Đời sống tình cảm của trẻ đầu bậc tiểu học rất phong phú, nhạy cảm. Trẻ giàu xúc cảm, dễ xúc động trước những đối tượng cụ thể, trực tiếp. Trẻ cũng dễ bộc lộ cảm xúc của mình một cách chân thực và hồn nhiên. - Nhu cầu được bộc lộ và đáp lại tình cảm của trẻ đầu bậc tiểu học là rất lớn. Trẻ vẫn thích được cha mẹ, giáo viên thể hiện tình yêu thương bằng những biểu hiện ôm ấp, vỗ về, đối xử nhẹ nhàng, khen ngợi, động viên. Đồng thời, trẻ cũng cảm nhận và đánh giá tình cảm người khác dành cho mình chủ yếu dựa vào các biểu hiện tương tự như vậy. - Nội dung đời sống tình cảm của học sinh tiểu học phong phú và đa dạng, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của các loại tình cảm cấp cao: 1- Tình cảm đạo đức: Tình cảm đối với người thân trong gia đình, với thầy cô giáo giữ vị trí quan trọng, thậm chí còn trở thành một trong những động cơ học tập của các em. Tình bạn trong nhóm, tổ, lớp, cũng đã được hình thành dựa trên những cơ sở khác nhau. Tình cảm trách nhiệm, tình cảm tập thể, sự đồng cảm, sự xấu hổ đã bắt đầu được hình thành; 2- Tình cảm trí tuệ: Sự ham hiểu biết, ngạc nhiên, nghi ngờ, hài lòng, tin tưởng, được hình thành và phát triển mạnh ở học sinh tiểu học. Các em đặc biệt nhạy cảm với thành tích học tập của mình; 3- Tình cảm thẩm mĩ cũng được phát triển mạnh ở học sinh. Trẻ yêu cái đẹp trong thiên nhiên, động vật trong nhà; thích văn học, nghệ thuật…Trẻ đã biết trân trọng, giữ gìn và chăm sóc cho cái đẹp (không ngắt hoa, bẻ cành, biết chăm sóc nuôi nấng vật nuôi, giữ gìn, bảo vệ đồ dùng...). - Tuy vậy, tình cảm của học sinh đầu bậc tiểu học chưa được bền vững, còn dễ dàng thay đổi đối tượng cảm xúc và chuyển hoá cảm xúc. Khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn hạn chế, dễ xúc động, dễ nổi giận. [a4] Đặc điểm nhân cách - Học sinh đầu bậc tiểu học tiếp tục phát triển những mầm mống nhân cách đã được tạo lập ở độ tuổi mẫu giáo nhưng vẫn nằm trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành. Ở tuổi này, các thuộc tính của nhân cách tuy chưa được định hình nhưng đã bộc lộ rõ nét hơn lứa tuổi trước đó. Thể hiện ở chỗ: các nhu cầu được xã hội hóa; nhu cầu tinh thần dần chiếm ưu thế trong cuộc sống của trẻ; bước đầu hình thành khả năng tự ý thức; nhu cầu tự đánh giá; khả năng kiềm chế xúc cảm; các hành vi và thói quen đạo đức của người học sinh; xuất hiện sự xấu hổ, tình cảm trách nhiệm, tình cảm tập thể… - Nét đặc trưng trong nhân cách của học sinh tiểu học nói chung, đầu cấp tiểu học nói riêng, là tính hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng và ẩn chứa tiềm năng phát triển lớn. Học sinh tin tưởng một cách tuyệt đối và vô điều kiện vào thầy, cô, người lớn, bạn bè, sách vở và cả bản thân mình. Trẻ suy nghĩ, cảm nhận mọi thứ xung quanh một cách đơn giản, chất phác. - Trẻ đầu cấp tiểu học có một số nét tính cách đáng quý nổi bật như: chân thật (nghĩ sao nói vậy, nghĩ sao làm vậy); tò mò, ham hiểu biết (cảm thấy hào hứng khi được khám phá cuộc sống xung quanh, thích bắt chước); vị tha (dễ giận dễ quên, sẵn sàng tha lỗi cho người khác, không “để bụng”). - Hành vi của học sinh đã chịu sự kiểm soát và điều khiển của ý chí nhưng còn yếu. Đặc biệt, khi phải thực hiện các nhiệm vụ khó khăn, học sinh chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đề ra. Tóm lại, 6 tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn trong cuộc đời của trẻ. Môi trường thay đổi, yêu cầu của hoạt động học tập - với tư cách là hoạt động chủ đạo - ngày càng cao, một mặt, tạo ra những khó khăn, trở ngại nhất định mà học sinh cần đối mặt và vượt qua; mặt khác, lại là điều kiện kích thích sự nảy sinh, hình thành và phát triển các phẩm chất tâm lí, nhân cách mới cho các em. b. Đặc điểm tâm lí của học sinh cuối cấp tiểu học Sau một thời gian thích ứng với môi trường nhà trường và dạng hoạt động chủ đạo mới - hoạt động học tập, học sinh cuối cấp tiểu học đã tích lũy được cho mình thêm nhiều thành tựu về mặt tâm lí để tiếp tục chuẩn bị bước vào một giai đoạn phát triển mới. [b1]. Đặc điểm hoạt động nhận thức - Về nhận thức cảm tính: Đến cuối tuổi tiểu học, cảm giác và tri giác ở học sinh đã nhạy bén và sâu sắc hơn khá nhiều. Các em không chỉ có được cảm nhận cụ thể về các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tương mà còn hiểu biết nhất định về chúng. Tri giác vẫn mang tính xúc cảm, bị thu hút bởi đặc điểm bề ngoài của đối tượng (màu sắc sặc sỡ, hấp dẫn), nhưng đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng. Năng lực quan sát đã được hình thành. - Về nhận thức lí tính: 1- Khả năng khái quát hóa của tư duy phát triển dần theo lứa tuổi. Đến lớp 4, lớp 5, học sinh bắt đầu biết khái quát hóa lí luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức mới ở mức độ sơ đẳng, đơn giản; 2- Tưởng tượng tái tạo được hoàn thiện. Trên cơ sở những hình ảnh, biểu tượng cũ, trẻ đã biết tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tiểu học. Nhiều trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh…Tuy vậy, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này vẫn bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em. - Về khả năng chú ý: Trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế. Ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập, như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát dài. Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định. - Về trí nhớ: Ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lí tình cảm hay hứng thú của các em... - Về ngôn ngữ: Đến lớp 5, ngôn ngữ nói và viết của trẻ đã đạt mức thành thạo, dần hoàn thiện về chất lượng sử dụng ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau. [b2]. Đặc điểm đời sống tình cảm và nhân cách - Nhu cầu tự đánh giá của trẻ cuối bậc tiểu học đã phát triển rõ rệt so với học sinh đầu cấp. Tuy còn bị lệ thuộc vào nhận xét của người khác về mình (cha mẹ, thầy cô, bạn bè), chọn cách nói ra hay không nói ra, nhưng trong thâm tâm, học sinh đã biết mình thích gì, muốn gì, bước đầu nhận thức được thế mạnh và hạn chế của bản thân; biết suy nghĩ về cách thức để thực hiện được những mơ ước và hoài bão. - Tính cách của học sinh cuối bậc tiểu học, về cơ bản, vẫn là chân thật, trong sáng, ngây thơ nhưng đã sâu sắc hơn. Nhiều nét tính cách tốt đẹp tiếp tục được hình thành. Đặc biệt, trong môi trường nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn…nhưng sau 5 năm học, một số nét "tính cách học đường" đã dần ổn định và bền vững ở trẻ, như tính trách nhiệm, kỉ luật, đoàn kết, tương hỗ, cảm thông, chia sẻ, biết tôn trọng tập thể… - Tình cảm của học sinh cuối bậc tiểu học đa dạng về nội dung và sâu sắc, ổn định hơn về mức độ. Sự biểu hiện các sắc thái cảm xúc ra bên ngoài tuy vẫn hồn nhiên nhưng đã dần trở nên kín đáo và tinh tế hơn. Dù học sinh chưa có kĩ năng kiểm soát cảm xúc tốt, nhưng các em đã biết rằng xúc cảm nào nên (hay không nên) thể hiện; nên (hay không nên) thể hiện với ai, thể hiện (hay không thể hiện) trong hoàn cảnh nào. - Đến cuối bậc tiểu học, học sinh đã có khả năng tiếp nhận và chuyển hóa yêu cầu của người lớn thành mục đích hành động của mình. Tuy vậy, năng lực ý chí của các em vẫn còn thiếu bền vững, chưa thể trở thành nét tính cách ổn định. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào hứng thú nhất thời. Nhìn chung, sự phát triển thể chất và tâm lí của học sinh cuối bậc tiểu học tương đối êm ả, giúp trẻ thực hiện tốt các yêu cầu của môi trường và hoạt động học tập ở cấp tiểu học. Đồng thời, nó cũng tiềm ẩn những khả năng phát triển mới để tạo điều kiện cho trẻ thực hiện bước chuyển tiếp theo, từ trẻ em sang người lớn ở giai đoạn tuổi học sinh trung học cơ sở. * * * Trên đây là một số đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học. Trong thực tế, đặc điểm tâm sinh lí và nhân cách của cá nhân còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố, tạo ra sự khác biệt giữa họ về phương diện giới tính, dân tộc, vùng miền, khu vực, điều kiện sống và giáo dục… Do đó, khi xét theo những phương diện cụ thể này thì đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học cũng có sự khác biệt nhất định (chẳng hạn, học sinh nam có một số đặc điểm tâm lí khác học sinh nữ; học sinh dân tộc ít người có một số đặc điểm tâm lí khác với học sinh dân tộc Kinh…). Trong hoạt động giáo dục và dạy học, việc so sánh sự khác biệt (nếu có) giữa các nhóm học sinh này hoàn toàn không có ý nghĩa phân biệt đối xử vì mỗi nhóm đều có những ưu thế và hạn chế riêng trong các khía cạnh phát triển tâm lí. Đối với giáo viên tiểu học, việc nhận diện sự khác biệt giữa các nhóm học sinh này giúp họ hiểu hơn đặc điểm tâm lí riêng của học sinh, nắm được đặc thù của sự phát triển và các yếu tố ảnh hưởng để có cách thức tác động, hoặc thay đổi, điều chỉnh nội dung, hình thức, phương pháp…tư vấn, hỗ trợ sao cho linh hoạt và phù hợp nhất với các em. Ngoài ra, khả năng lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, sự thích ứng với môi trường học tập của học sinh không hoàn toàn đồng đều nhau. Bên cạnh những trẻ phát triển hài hòa, đúng tuổi cả về thể chất và tâm lí, vẫn còn những trẻ phát triển chậm hơn. Ngoài lí do khác biệt tâm lí, nhân cách một cách khách quan giữa các cá nhân, những trẻ này tuy chưa cần can thiệp sâu hay giáo dục tại các cơ sở chuyên biệt, nhưng các em thực sự gặp khó khăn với các biểu hiện như: hiếu động quá mức, kém chú ý, sợ học, hoặc không theo kịp tốc độ học tập trung bình của các bạn trong lớp…Nhìn chung, mỗi dạng khó khăn đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc học sinh nhận thức thế giới xung quanh, nhận thức người khác và bản thân mình, cũng như khả năng tự điều khiển, điều chỉnh bản thân. Ở những học sinh này, thường có xu hướng tăng cường hoạt động của các chức năng khác trong cơ thể nhằm bù đắp cho hoạt động của những cơ quan, chức năng bị thiếu hoặc bị yếu nhưng dù sao, sự phát triển tâm lí, nhân cách cũng khó đạt được mức cân đối, hài hòa và ổn định như những học sinh khác. Do đó, những học sinh này thường cần được giáo viên quan tâm nhiều hơn, đặt ra yêu cầu vừa sức và hỗ trợ các em thực hiện yêu cầu đó dần dần từng bước một. Trong một số trường hợp, bên cạnh giáo viên chủ nhiệm, còn cần đến sự hỗ trợ của các giáo viên dạy hòa nhập để đạt được sự tiến bộ tốt hơn.