Trước pháp luật cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên được hiệu như thế nào

Cha mẹ có quyền yêu thương, tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho đất nước. Cha mẹ có những quyền cơ bản đối với con như: quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con; quyền giáo dục con; quyền đại diện cho con; quyền có tài sản riêng của con; quyền quản lý tài sản riêng của con; quyền định đoạt tài sản cuart con chưa thành niên, con mất năng lực hành vi dân sự,… Mặc dù các quyền này của cha mẹ là quyền đương nhiên nhưng trên thực tế, có một số trường hợp, để bảo vệ con,  cha mẹ bị hạn chế một số quyền đối với con chưa thành niên.

Pháp Luật có những quy định về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên nhưng không phải ai cũng hiểu và biết về các quy định này. Do đó, để có cái nhìn tổng quan nhất về vấn đề này thì Luật Việt An xin tư vấn cho Quý khách hàng quan tâm đối với các quy định của pháp luật về vấn đề hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên để các quy định ày được áp dụng đúng nhất.

Các trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên

Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có liệt kê các trường hợp mà cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên, bao gồm:

  1. Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
  2. Phá tán tài sản của con;
  3. Có lối sống đồi trụy;
  4. Xíu giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Phạm vi hạn chê quyền

Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con.

Thời gian hạn chế quyền

Tòa án ra quyết định hạn chế một hoặc một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.

Người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên

  1. Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
  2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên:

– Người thân thích;

– Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

– Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

– Hội liên hiệp phụ nữ.

  1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện ra các hành vi vi phạm của cha mẹ thuộc một trong các trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức bên trên để yêu cầu Tòa án hạn ché quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

Hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên

Trong trường hợp cha hoặc mẹ bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì người kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con.

Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật này trong các trường hợp sau đây:

  • Cha và mẹ đều bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên;
  • Một bên cha, mẹ không bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên nhưng không đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với con;
  • Một bên cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên và chưa xác định được bên cha, mẹ còn lại của con chưa thành niên.

Cha, mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Ngày hỏi:12/04/2019

Một bé gái 15 tuổi sinh con. Theo các anh chị, vấn đề xác định người đại diện cho đứa con của bé gái này trong cuộc sống dân sự được giải quyết như thế nào?

  • Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau:

    1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

    2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.

    3. Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

    4. Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

    Và tại Khoản 3 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015 thì:

    Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.

    Như vậy, bản chất của đại diện là nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

    Có thể thấy, nếu người mẹ 15 tuổi thì chưa đủ điều kiện là người đại diện của con, người đại diện có thể xác định là người bố nếu người bố đủ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Còn nếu không thì người đại diện trong trường hợp này sẽ là người giám hộ của đứa bé theo quy định tại Điều 52 Bộ luật dân sự 2015.

    Theo đó, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại hoặc nếu không có thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.

    Trân trọng!

Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của LawNet . Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email:


Trước pháp luật cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên được hiệu như thế nào

Điều 73 quy định về đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên như sau:Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã...

ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CHO CON CHƯA THÀNH NIÊN

Câu hỏi của bạn:

     Chào Luật sư,

     Tôi và vợ tôi thuận tình ly hôn và đã có quyết định công nhận yêu cầu thuận tình ly hôn của Tòa án. Nội dung đơn ly hôn chúng tôi có thỏa thuận rằng: sẽ để lại toàn bộ số tài sản chung của hai vợ chồng cho con tôi (một cháu 13 tuổi và một cháu 8 tuổi). Tuy nhiên, hiện nay, do điều kiện kinh tế khó khăn, hai vợ chồng tôi muốn bán một phần số tài sản (đất ở) để có tiền nuôi các cháu ăn học. Khi vợ chồng tôi ra Sở tài nguyên và môi trường làm thủ tục sang tên thì bị từ chối. Do đã có bản án, quyết định của Tòa án công nhận số tài sản  chung của chúng tôi đã định đoạt cho các con nên không được phép bán. Tôi xin Luật sư tư vấn giúp tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn.

Câu trả lời của Luật sư:

     Chào bạn!

     Trước tiên, xin trân trọng cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến phòng tư vấn pháp luật qua email – Luật Toàn Quốc. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn như sau:

Cơ sở pháp lý

Nội dung tư vấn

     Khi ly hôn vợ chồng bạn đã để lại tài sản cho con. Theo như bạn trình bày thì chúng tôi không biết bạn đã làm thủ tục sang tên cho con hay chưa?

     Trong trường hợp này bạn có thể làm thủ tục tặng cho hoặc chuyển nhượng; cả hai thủ tục đều được miễn thuế thu nhập cá nhân (Khoản 1, 4 Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân) nhưng nếu muốn cho riêng con mình tài sản thì bạn nên làm hợp đồng tặng cho. Cụ thể:

Điều 4. Thu nhập được miễn thuế

1. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.

2. Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất.

3. Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được Nhà nước giao đất.

4. Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.

     Điều 141 Bộ luật Dân sự quy định: “Cha mẹ là người đại diện đương nhiên của con chưa thành niên nên có quyền thực hiện các giao dịch thay cho con”. Trường hợp của bạn, nếu làm hợp đồng tặng cho thì bạn sẽ vừa đứng bên tặng cho vừa đứng bên nhận tặng cho với tư cách là người đại diện. Như vậy là vi phạm khoản 5 Điều 144 Bộ Luật Dân sự 2005: “Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

     Thực tế, các tổ chức công chứng có thể để bạn lập văn bản (giấy) cam kết tặng cho con. Cách làm này không trái với quy định của pháp luật đồng thời đảm bảo được quyền lợi của gia đình bạn. Trong hợp đồng nêu rõ tại phần chủ thể như sau: vợ chồng bạn là người đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên …

     Khi có văn bản tặng cho công chứng, bạn nộp một bộ hồ sơ đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc phòng tài nguyên và môi trường quận, huyện trên địa bàn nơi có đất kèm theo bản sao giấy tờ tùy thân của các bên; hai bản chính văn bản tặng cho; bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

     Sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính liên quan đến việc đăng ký sang tên quyền sử dụng đất, bạn được văn phòng đăng ký cấp cho Giấy chứng nhận mang tên hai người con của bạn.

     Dù chưa đủ tuổi con bạn vẫn được quyền được nhận và đứng tên tài sản (với tư cách là bên được tặng cho nhà) đồng thời sẽ ghi tên người đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên

     Trong trường hợp vợ chồng bạn ly hôn, thông thường ai nuôi con người đó sẽ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên.

     Điều 73, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên như sau:

“ 1. Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác  làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật.

  1.  Cha hoặc mẹ có quyền tự mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
  2. Đối với giao dịch liên quan đến tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, tài sản đưa vào kinh doanh của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự thỏa thuận của cha mẹ.
  3. Cha, mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới về việc thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản của con được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này và theo quy định của Bộ luật dân sự.”

     Điều  144, Bộ luật dân sự 2005 cũng có quy định: “Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

     Theo đó, sau khi hai vợ chồng bạn tiến hành thủ tục đăng ký sang tên quyền sử dụng đất cho con thì bạn hoàn toàn có quyền tự mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên. Đồng thời vợ chồng bạn phải chịu trách nhiệm liên đới về việc thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản của con.

      Luật Toàn Quốc hy vọng những gì chúng tôi tư vấn nêu trên sẽ giúp cho quý khách có lựa chọn được phương án thích hợp nhất để giải quyết vấn đề của mình. Còn bất cứ vướng mắc gì quý khách vui lòng liên hệ tới Tổng đài tư vấn luật hôn nhân miễn phí 24/7: 1900 6178 để gặp Luật sư tư vấn trực tiếp và yêu cầu cung cấp dịch vụ hoặc gửi thư về Email: .

     Xin chân thành cảm ơn sự đồng hành của quý khách. 

     Trân trọng /./.               

Liên kết tham khảo: