Vì sao đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối

Mục lục

  • 1 Các nhân tố chính
    • 1.1 Các mặt đối lập
    • 1.2 Mâu thuẫn biện chứng
    • 1.3 Sự thống nhất
    • 1.4 Sự đấu tranh
  • 2 Nội dung quy luật
    • 2.1 Thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa
    • 2.2 Sự phát triển
    • 2.3 Tính chất
  • 3 Phân loại mâu thuẫn
  • 4 Tham khảo
  • 5 Chú thích
  • 6 Xem thêm

Một số vấn đề về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

24/03/2021

Hồ Sĩ Quý*

Tóm tắt: Là một trong ba quy luật cơ bản, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân và là thực chất của phép biện chứng duy vật. Với quy luật này, nguyên nhân, nguồn gốc và động lực của sự tự vận động và phát triển, được giải quyết triệt để trong triết học Mác. Ngày nay, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập vẫn là công cụ triết học hữu hiệu giúp con người kiểm soát được động lực của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, vận dụng đúng và có hiệu quả quy luật này vào đời sống xã hội bao giờ cũng không giản đơn. Trong khi đó, đồng thuận xã hội, ổn định xã hội, đoàn kết xã hội,... lại cũng là những động lực của sự phát triển xã hội mà từng quốc gia cũng như cộng đồng thế giới, từ lâu đã coi là hiển nhiên và vẫn đang không mệt mỏi thực hiện.

Từ khóa: Mâu thuẫn, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, đồng thuận xã hội, đoàn kết xã hội, động lực phát triển xã hội.

1. Triết học duy vật biện chứng là học thuyết kế thừa được những tinh hoa hợp lý nhất của các học thuyết triết học từ thời cổ đại đến Hêghen về mâu thuẫn

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, thường được gọi tắt là quy luật mâu thuẫn (trong Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen còn gọi là “Quy luật về sự xâm nhập lẫn nhau của các mặt đối lập”[1], là quy luật phổ quát của hiện thực, kể cả trong tư duy và sự nhận thức hiện thực đó bằng chính tư duy của con người.

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chứa đựng thực chất và hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Chính V.I.Lênin đã khẳng định như vậy. Ông viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng”[2]. Theo V.I.Lênin, “sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận đối lập của nó..., đó là thực chất... của phép biện chứng”[3]. Trong phép biện chứng, mối liên hệ giữa các mặt đối lập chính là mâu thuẫn; sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập chính là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.

Cần thiết phải nói rõ rằng, mâu thuẫn không phải là tri thức của riêng chủ nghĩa duy vật biện chứng hay của chủ nghĩa Mác. Mặc dù chủ nghĩa Mác đã có công cải tạo phép biện chứng từ duy tâm trở thành duy vật, làm cho quy luật mâu thuẫn đạt tới trình độ “mô hình tư tưởng” gần như vạn năng để con người giải thích và cải tạo thế giới, tuy nhiên việc phê phán triết học Mác - Lênin nhằm vào học thuyết mâu thuẫn là sự phê phán không đúng địa chỉ và không đúng đối tượng.

Bởi lẽ, ngay từ thời Cổ đại, bằng sự cảm nhận và “phỏng đoán thiên tài”, các nhà thông thái Hy Lạp đã xác nhận được những mối liên hệ phổ biến của mọi tồn tại, trong đó sự tác động qua lại của các mặt đối lập được xem là cái “hoàn toàn khách quan, là nguyên lý của tất cả cái gì tồn tại”[4]. Những nhà tư tưởng được biết đến trong lịch sử triết học như là những người có công đặt nền móng cho học thuyết mâu thuẫn là Heraclitus, Lão Tử, Zeno, N.Kuzansky, D.Bruno..., và Hêghen. Nhưng công bằng mà nói, công lao đặc biệt đối với học thuyết mâu thuẫn (trước C.Mác) thuộc về Hêghen. Chính là nhờ Hêghen mà lý luận triết học về mâu thuẫn và về phép biện chứng trở nên có giá trị và có sức sống mãnh liệt kể từ thế kỷ XIX đến nay.

Với G.Hêghen, “tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó”... Mâu thuẫn “là cái phủ định trong sự quy định bản chất của nó, là nguyên tắc của mọi sự tự vận động, mà sự tự vận động này không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện nào đấy của mâu thuẫn... Vận động là bản thân mâu thuẫn đang tồn tại”... “Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực (импульс) và hoạt động”[5]. Theo C.Mác, “sai lầm chủ yếu của Hêghen là ở chỗ ông hiểu mâu thuẫn của hiện tượng là sự thống nhất trong bản chất, trong ý niệm, kỳ thực bản chất của mâu thuẫn ấy cố nhiên là một cái gì đó sâu sắc hơn, cụ thể là mâu thuẫn bản chất”[6].

Cải tạo phép biện chứng Hêghen, chủ nghĩa Mác đã giải thích một cách duy vật về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như là “định luật của tri thức” và của thế giới khách quan.

2. Mâu thuẫn tồn tại khách quan với sự thống nhất tương đối và sự đấu tranh tuyệt đối của các mặt đối lập

Mặt đối lập (opposites, contraires, противоположности - thực ra không chỉ là “mặt” như trong tiếng Việt, mà là đối lập, cái đối lập, sự đối lập) là các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng, các quá trình, các sự vật, hiện tượng... vốn có trong “cái thống nhất” (đối tượng được xem xét). Chúng là “sự phân đôi của cái thống nhất” nên tồn tại và vận động trong sự phụ thuộc lẫn nhau, theo chiều hướng trái ngược nhau và loại trừ lẫn nhau, tạo thành mâu thuẫn nội tại của sự vật; nhưng đồng thời lại thống nhất với nhau. Nghĩa là, được gọi là mặt đối lập bởi vì chúng chỉ tồn tại trong sự phụ thuộc lẫn nhau (mặt đối lập này không thể tồn tại mà không có mặt kia) và loại trừ lẫn nhau (sự vận động của chúng đối lập trực tiếp với nhau).

Trong thực tế, mâu thuẫn không chỉ là mối quan hệ giữa các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập của một đối tượng hoặc giữa các đối tượng (thuộc sự vật và hiện tượng), mà còn là mối quan hệ của đối tượng với chính nó. Nghĩa là mâu thuẫn còn là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo nên sự tự vận động của một đối tượng.

Khi sự đối lập chưa vận động tới trình độ cực đoan cần phải được giải quyết (mâu thuẫn chưa chín muồi), các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau phản ánh sự đấu tranh chưa thắng thế giữa cái mới với cái cũ. Tuy thế, triết học duy vật biện chứng nhấn mạnh, sự thống nhất của các mặt đối lập chỉ là tương đối, thể hiện sự ổn định tương đối, nhất thời của sự vật và hiện tượng. Sự đấu tranh của các mặt đối lập mới là tuyệt đối, thể hiện tính vô hạn của quá trình vận động và phát triển. Ph.Ăngghen viết: “Tính đồng nhất và tính khác biệt - tính tất yếu và tính ngẫu nhiên - nguyên nhân và kết quả - đó là những đối lập chủ yếu, những đối lập, nếu xét một cách riêng rẽ, thì sẽ chuyển hoá lẫn nhau”[7]. Khi nghiên cứu vấn đề này, V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”[8]. Điều này phản ánh một thực tế là, trong thế giới này, chẳng có sự ổn định hay đứng im nào là vĩnh viễn tồn tại - “Vận động là một mâu thuẫn, là một sự thống nhất của các mâu thuẫn”[9].

Trong lôgíc hình thức cũng có quy luật mâu thuẫn, gọi đầy đủ và chính xác là “quy luật cấm mâu thuẫn”. Tuy nhiên, đây là quy luật đòi hỏi các thao tác tư duy không được phép mâu thuẫn với nhau khi đưa ra các phán đoán về cùng một đối tượng. Mâu thuẫn ở đây chỉ là mâu thuẫn lôgíc nảy sinh khi tư duy mắc sai lầm. Quy luật này dĩ nhiên cũng vô cùng quan trọng, nhưng chỉ tồn tại trong lôgíc học hình thức với chức năng là giúp cho con người tư duy đúng.

Khác với lôgíc học hình thức, quy luật mâu thuẫn trong phép biện chứng có đối tượng của nó là mâu thuẫn biện chứng. Ph.Ăngghen khẳng định, mâu thuẫn biện chứng “tồn tại một cách khách quan ở trong bản thân các sự vật và các quá trình và có thể bộc lộ ra dưới một hình thức hữu hình”[10]; “trong sinh vật học cũng như trong lịch sử xã hội loài người, quy luật ấy đều được xác nhận”[11]. Nghiên cứu vấn đề này, V.I.Lênin nhận xét: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”[12].

Triết học duy vật biện chứng khẳng định, mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan, phổ biến. Nghĩa là, mâu thuẫn biện chứng cũng tồn tại trong tư duy. Nhưng đó không phải là tư duy có mâu thuẫn hay sự ngụy biện, mà là kết quả của sự phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực, kể cả hiện thực của bản thân tư duy (tự nhận thức, phản tư). Và do vậy, mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là nguồn gốc vận động của nhận thức, của tư duy trong quá trình tìm kiếm chân lý. Ph.Ăngghen viết: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, resp (tương tự) với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”[13].

Trong đời sống xã hội, sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập là sự thống nhất và đấu tranh của các lực lượng, các nhóm, các hệ thống xã hội theo các mặt, các tính chất, các khuynh hướng xã hội đã quy định và tạo thành các thực thể xã hội đó. Toàn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh thần xã hội đều bao hàm những mặt đối lập, những mâu thuẫn như vậy. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã nhiều lần bàn đến mâu thuẫn xã hội, và thực ra toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của các ông cũng là nhằm giải quyết các vấn đề về mâu thuẫn xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Theo quan điểm của chúng tôi - tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp”[14] (“Hình thức giao tiếp” về sau được C.Mác gọi là “Quan hệ sản xuất”). Theo Ph.Ăngghen, “mâu thuẫn giữa sản xuất xã hội và sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”[15]. Với V.I.Lênin, “tính chất biện chứng của sự phát triển xã hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn”[16].

Cần lưu ý rằng, đối với mỗi con người, trạng thái đối lập, mâu thuẫn với chính mình, với những người xung quanh và với xã hội... (loại trừ trường hợp mâu thuẫn lôgíc) là trạng thái tự nhiên, vốn có, vận động theo các bước, các trình độ đối lập khác nhau đi từ đồng nhất, khác biệt đến mâu thuẫn hoặc xung đột. Những mâu thuẫn biện chứng ấy đóng vai trò là nguồn gốc và động lực để thúc đẩy phát triển con người, hình thành và phát triển nhân cách cá nhân. Con người mẫu thuẫn với chính mình, đó không phải là một căn bệnh - đối lập càng gay gắt, động lực phát triển càng mạnh.

3. Về vai trò động lực của mâu thuẫn trong sự vận động và phát triển

Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không nói mâu thuẫn là động lực của phát triển, nhưng từ tinh thần của lý thuyết C.Mác, cũng một phần là từ tư tưởng coi mâu thuẫn là xung lực (Импульс) của Hêghen, mà các nhà triết học mácxít hậu thế đều coi mâu thuẫn là động lực của sự vận động và phát triển của thế giới nói chung, đặc biệt của sự vận động và phát triển xã hội. Nội dung này của lý luận mâu thuẫn đã gây tranh cãi không có hồi kết suốt từ cuối những năm 70 thế kỷ XX đến nay. Đều thừa nhận mâu thuẫn là động lực của phát triển, nhưng ở mỗi tác giả, cách giải thích và chi tiết biện luận thì luôn có sự khác nhau. Ngay trong các tài liệu giáo khoa việc lý giải cũng không thống nhất[17].

Một số tác giả cho rằng, mâu thuẫn tự nó không phải động lực của sự phát triển, việc con người can thiệp vào mâu thuẫn, tìm cách giải quyết nó mới là cái có ý nghĩa thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển. Mâu thuẫn nói chung chỉ là nguồn gốc của sự phát triển, vì nó giải thích nguyên nhân tận gốc của sự vận động. Còn động lực của sự phát triển chỉ có thể là việc giải quyết mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn vận động đến một giai đoạn nhất định, xung lực của các mặt đối lập đạt đến trình độ “chín muồi” (Зрелости, Maturity), lúc đó mâu thuẫn mới có đủ điều kiện để được giải quyết. Giải quyết mâu thuẫn, thậm chí giải quyết mâu thuẫn theo đúng tinh thần của quy luật, nghĩa là được giải quyết kịp thời, triệt để, không khoan nhượng, mặt tích cực, đại diện cho sự tiến bộ thắng thế... khi đó mâu thuẫn mới đóng vai trò là nguồn gốc của sự phát triển. Không được giải quyết kịp thời, hay giải quyết mâu thuẫn để cho mặt tiêu cực thắng thế, mâu thuẫn sẽ gây thêm những hậu quả và hệ lụy cho sự vận động và phát triển của sự vật.

Một vài tác giả khác nữa coi mâu thuẫn có vai trò động lực của sự phát triển chỉ ở một trong những mặt, những khâu, những giai đoạn, những yếu tố... đại diện cho cái mới, cái tiến bộ của sự đấu tranh của các mặt đối lập. Chẳng hạn, động lực của sự phát triển chỉ thuộc về một trong hai mặt đối lập, hoặc chỉ ở giai đoạn mâu thuẫn chưa chín muồi, hoặc chỉ ở sự đấu tranh, chứ không phải ở sự thống nhất của các mặt đối lập...

Mặc dù việc nhận thức các mâu thuẫn biện chứng đòi hỏi phải nhận thức được quá trình và phương thức chúng vận động và được giải quyết như thế nào, tuy nhiên, chúng tôi không muốn trình bày kỹ hơn những ý kiến vừa nêu, vì thật khó biết đúng sai. Hơn thế nữa, theo chúng tôi, với một học thuyết triết học phổ quát như học thuyết mâu thuẫn, đến Hêghen còn bị phê phán suốt gần 200 năm qua, thì việc chia nhỏ các công đoạn, các nội dung, các yếu tố... của mâu thuẫn để xem xét vai trò của chúng, chưa chắc đã phải là cách tư duy hợp lý.

Bởi vậy, có thể tạm chấp nhận ý kiến của số đông các nhà triết học hậu thế rằng, mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển ở tất cả các khâu, các mặt, các giai đoạn và các phương diện của nó - thống nhất, đấu tranh và giải quyết với tính cách là những quá trình diễn ra từ khi mâu thuẫn được hình thành đến khi bị thủ tiêu để cái mới xuất hiện. Nếu thừa nhận động lực là cái có ý nghĩa kích thích, thúc đẩy, đóng vai trò là xung lực của sự vận động[18], thì khó có thể phủ nhận vai trò của các nhân tố, các mặt trong giai đoạn mâu thuẫn chưa đạt tới trình độ chín muồi. Hơn thế nữa, nếu coi động lực là cái luôn có sự tham gia của yếu tố tinh thần, ý chí thì động lực là cái chỉ có ở con người và ở một số loài động vật ít nhiều có trí khôn khi chủ thể có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn. Không thể nói đến ý chí giải quyết mâu thuẫn của bản thân thế giới vật chất ngoài con người.

Thời gian trôi đi cho thấy, tham vọng thiết kế thật chi tiết các bước, các thao tác của cơ chế giải quyết mâu thuẫn có thể khiến triết học duy vật biện chứng từ chỗ là những chỉ dẫn thế giới quan và phương pháp luận lại trở thành một thứ tri thức cứng nhắc, máy móc trong hoạt động thực tiễn.

4. Đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội là động lực của sự vận động và phát triển

Ngày nay, trong đời sống xã hội, hầu hết các mâu thuẫn xã hội và các hiện tượng có liên quan đến xung đột xã hội, dù ở phạm vi nhóm nhỏ hay cộng đồng, quốc gia cũng như quốc tế, cũng đều tiềm ẩn những nguy cơ tiêu cực, luôn có khuynh hướng dẫn tới những hậu quả nguy hiểm làm đổ vỡ xã hội, thậm chí chiến tranh. Không phải ngẫu nhiên mà các chủ đề đồng thuận xã hội, đoàn kết xã hội, giảm thiểu xung đột xã hội, chung sống hòa bình, giải quyết tranh chấp bằng phương pháp phi bạo lực, hòa giải và hoà hợp dân tộc hay mềm dẻo về sách lược... luôn luôn là chủ đề thường trực trong đời sống chính trị xã hội của các quốc gia và cộng đồng thế giới.

Vấn đề là ở chỗ, nếu chủ trương không thể sử dụng giải pháp nhân nhượng trong việc giải quyết mâu thuẫn, mọi mâu thuẫn xã hội cần phải được giải quyết triệt để, cả hai mặt đối lập đều cần phải đấu tranh đến mức tự xóa bỏ, làm cho sự vật trở thành cái mới..., như đòi hỏi của lý thuyết mâu thuẫn, thì hậu quả xã hội của điều đó rõ ràng là khôn lường. Học thuyết mâu thuẫn của triết học duy vật biện chứng trong những trường hợp rất phổ biến này, cần phải được giải thích như thế nào, liệu nó (học thuyết mâu thuẫn - quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập) có sai hay hoặc có gì bất hợp lý ở đây không?

Thực ra vấn đề này không mới. Từ lâu các nội dung có liên quan đến vấn đề đã được tranh cãi và thảo luận trong khuôn khổ các chủ đề như điều hòa mâu thuẫn, sự kết hợp giữa các mặt đối lập hay sự thỏa hiệp, liên minh nhất thời giữa các lực lượng đối lập, sự tự tiêu hủy của mâu thuẫn... Lý luận về xung đột xã hội được cho là khởi nguồn từ C.Mác, nhưng ngày nay cũng trở thành một bộ môn trong xã hội học phương Tây có mục đích là giải quyết xung đột xã hội chủ yếu bằng các công cụ pháp lý và chính trị, để tránh bạo lực xã hội.

Về phương diện triết học, những người ủng hộ phương thức triệt để trong giải quyết mâu thuẫn thường cho rằng, ở đây có sự lầm lẫn trong phân loại mâu thuẫn xã hội: Không phải tất cả, mà chỉ có số ít mâu thuẫn xã hội hay xung đột xã hội là mâu thuẫn biện chứng. Chỉ những hiện tượng nào chứa trong nó sự đối lập về một thuộc tính hoặc về một khuynh hướng đối lập nhau thì mới được xem là mâu thuẫn biện chứng. Tuy vậy, ngay cả điều này cũng đã từng tranh cãi không hồi kết. Bởi ngay cả mâu thuẫn giữa hai cá nhân, mâu thuẫn trong nội bộ dân cư, hay các xung đột ngẫu nhiên trong đời sống xã hội... cũng hoàn toàn có thể tìm thấy sự đối lập về lợi ích hoặc đối lập về một khuynh hướng, một tính chất nào đó.

Không cần thiết phải sa vào những tranh cãi khá phức tạp đó, chúng tôi muốn nói rằng những vấn đề như điều hòa mâu thuẫn, sự kết hợp giữa các mặt đối lập, đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội. (trong đa số các trường hợp) đều là những nội dung lý luận có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Không thể chỉ vì trung thành với lý luận về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập mà buộc phải xem nhẹ hay phủ nhận ý nghĩa tích cực của việc giải quyết mâu thuẫn xã hội theo các chiều hướng đó.

Trong khi thừa nhận mâu thuẫn là động lực của sự phát triển, chúng tôi cho rằng việc giải quyết mâu thuẫn xã hội bằng các biện pháp điều hòa mâu thuẫn, kết hợp giữa các mặt đối lập, đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội, thương lượng giữa các lực lượng xã hội,... cũng đều là các phương thức có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển xã hội, nếu việc giải quyết triệt để mâu thuẫn xã hội có thể gây những tổn thất lớn hơn đối với xã hội. Với những vấn đề như mâu thuẫn cá nhân, mâu thuẫn nhóm xã hội trong nội bộ dân cư, xung đột sắc tộc, mâu thuẫn quốc gia, chiến tranh và hòa bình..., thì điều hòa mâu thuẫn để đạt tới đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội, ổn định xã hội và tránh chiến tranh... gần như có nghĩa tuyệt đối. Nghĩa là không thể phủ nhận đó là những động lực thực sự của sự phát triển xã hội, có ý nghĩa tích cực cả trước mắt và lâu dài đối với tiến bộ xã hội.

Không nên coi một thái độ như trên là thiếu trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, mặc dù C.Mác đã từng viết rất rõ rằng, “cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh của hai mặt ấy là sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới. Chỉ với việc tự đề ra cho mình vấn đề loại bỏ mặt xấu, người ta cũng đã chặn đứng sự vận động biện chứng rồi”[19].

Chính V.I.Lênin lúc sinh thời cũng đã nhiều lúc sử dụng các phương thức thỏa hiệp, nhân nhượng, dung hợp để giải quyết các mâu thuẫn thời kỳ Cách mạng tháng Mười Nga mới thành công. Về sự thỏa hiệp, V.I.Lênin viết: “Thái độ của chủ nghĩa Mác đối với con đường quanh co của lịch sử, về thực chất, cũng giống như thái độ của chủ nghĩa đó đối với sự thỏa hiệp. Mọi bước chuyển biến quanh co của lịch sử đều là sự thỏa hiệp, sự thỏa hiệp giữa cái cũ không còn đủ sức để phủ định hoàn toàn cái mới, và cái mới còn chưa đủ sức để lật đổ hoàn toàn cái cũ. Chủ nghĩa Mác không khăng khăng khước từ những sự thỏa hiệp, chủ nghĩa Mác cho rằng cần phải lợi dụng những sự thỏa hiệp, nhưng tuyệt nhiên không phải vì thế mà chủ nghĩa Mác, với tư cách là một lực lượng lịch sử sinh động và hành động, lại không mang hết nghị lực của mình ra để đấu tranh chống những sự thỏa hiệp. Người nào không có khả năng lĩnh hội được cái điều tựa hồ như mâu thuẫn ấy, thì người đó không hiểu những điều sơ đẳng của chủ nghĩa Mác”[20].

Đối với Việt Nam, ngay từ khi cách mạng thành công, trong khi trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, với lý thuyết mâu thuẫn của triết học Mác, Đảng và Nhà nước Việt Nam chưa khi nào xem nhẹ vấn đề đoàn kết các dân tộc, đoàn kết trong và ngoài Đảng, đại đoàn kết toàn dân hay liên minh giai cấp công nông và đội ngũ trí thức. Tất cả các văn kiện Đảng qua các thời kỳ đều đã đề cao vai trò của đoàn kết; nhiều đại hội gần đây coi đoàn kết là động lực của sự phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội IX viết: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”[21]. Văn kiện Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lồi chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[22]. Tại Đại hội XI, Đảng ta không những khẳng định mà còn nhấn mạnh thêm vai trò động lực tầm vóc chiến lược của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[23]. Tại Đại hội XII, một lần nữa, Đảng ta khẳng định và nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[24].

Chúng tôi muốn nói rằng, đoàn kết chắc chắn là một động lực của sự phát triển xã hội. Hay nói chính xác hơn, đoàn kết đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới coi là động lực của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Không thể coi quan điểm này là trái với tư tưởng về mâu thuẫn và quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin.

Tóm lại, Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật không dễ vận dụng. Quan điểm và thái độ của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về mâu thuẫn trong các tác phẩm kinh điển đều rất triệt để. Sứ mệnh lịch sử của các ông thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là làm cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, nên tư tưởng về mâu thuẫn của các ông rất phù hợp với thái độ triệt để cách mạng, không khoan nhượng, đẩy sự vận động của mâu thuẫn đến tận cùng, xóa bỏ cái cũ đến tận gốc, xây dựng cái mới. Tuy nhiên, thái độ tuyệt đối hóa tính triệt để trong việc giải quyết các mâu thuẫn xã hội, về mặt lôgíc sẽ đương nhiên có xu hướng dẫn đến phá vỡ ổn định chính trị, xóa bỏ trật tự hiện tồn, xóa bỏ sự đồng thuận xã hội, đoàn kết xã hội..., và kết cục sẽ là xung đột xã hội gia tăng. Đó là điều có thể tránh được. □


[1] Xem: C.Mác và Ph.Ănghen (1994), Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.510.

[2] V.I.Lênin (1981), Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.240

[3] V.I.Lênin (1981), Sđd., t.29, tr.378

[4] Xem: V.I.Lênin (1981), Sđd., t.29, tr.277.

[5] V.I.Lênin (1981), Sđd., t.29, tr.148-149.

[6] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.447.

[7] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.701.

[8] V.I.Lênin (1981), Sđd., t.29, tr.379-380.

[9] V.I.Lênin (l981), Sđd., t.29, tr.207-208.

[10] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Sđd., t.20, tr.173.

[11] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Sđd., t.20, tr.517.

[12] V.I.Lênin (1981), Sđd., t.29, tr.379.

[13] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Sđd., t.20, tr.694.

[14] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Sđd., t.3, tr.107.

[15] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Sđd., t.20, tr.377.

[16] V.I.Lênin (1980), Sđd., t.20, tr.77-78.

[17] Xem: диалектическое противоречие (Mâu thuẫn biện chứng) (1979), Политиздат, Mocквa, tr.16.

[18] Xem: Lê Hữu Tầng (Chủ biên) (1997), Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

[19] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.191.

[20] V.I.Lênin (1980), Toàn tập, 1.16, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.11.

[21] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quồc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.23.

[22] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quồc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.116.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quồc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.48.

[24] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quồc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.158.


* Giáo sư, tiến sĩ, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Email: hosiquy

Nguồn: Tạp chí Triết học, số 4 (347), năm 2020

File đính kèm
  • 5 - HO SI QUY- so 4-2020.pdf
Vì sao đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối
In bài viết
Vì sao đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối
Gửi Email
Các tin đã đưa ngày:

Khái niệm về “mặt đối lập”, “mâu thuẫn biện chứng”, “sự thống nhất” và “đấu tranh” của các mặt đối lập

Trước khi đi vào nội dung về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, chúng tôi sẽ đề cập tới một số khái niệm liên quan.

Thứ nhất: Mặt đối lập

Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Sự tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật.

Thứ hai: Mâu thuẫn biện chứng

Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.

Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và nguồn gốc phát triển của nhận thức.

Chúng ta cần phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn logic hình thức. Mâu thuẫn logic hình thức chỉ tồn tại trong tư duy, xuất hiện do sai lầm trong tư duy.

Thứ ba: Sự thống nhất của các mặt đối lập

Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.

Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.

Cuối cùng: Sự đấu tranh của các mặt đối lập:

Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.

Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh.

Vì sao đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

Quảng cáo

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là "hạt nhân" của phép biện chứng. Theo V.I.Lênin. "Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm".

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng.

a) Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn

-Khái niệm mâu thuẫn

Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mật đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Đây là quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, khác căn bản với quan niệm siêu hình về mâu thuẫn. Theo quan niệm siêu hình, mâu thuẫn là cái đối lập phản lôgích, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập.

Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập. Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. Thí dụ, điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử, đồng hóa và dị hóa của một cơ thể sống, sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế của xã hội, chân lý và sai lầm trong quá trình phát triển của nhận thức, V.V..

- Các tính chất chung của mâu thuẫn

Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến. Theo Ph.Ăngghen: "Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn... sự sống truớc hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng vừa là một cái khác.

Như vậy, sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá trình, một mâu thuẫn thường xuyên nảy sinh và tự giải quyết, là mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng không còn nữa và cái chết xảy đến. Cũng như chúng ta đã thấy rằng trong lĩnh vực tư duy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn; chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của con người với sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế, trong những năng lực nhận thức, - mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối với chúng ta trên thực tiễn, cũng là vô tận, - và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô tận".

Mâu thuẫn không những có tính khách quan, tính phổ biến, mà còn có tính đa dạng, phong phú. Tính đa dạng của mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử, cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Đó là: mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, V.V.. Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.

b) Quá trình vận động của mâu thuẫn

Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau. Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng nhất của nó V.I.Lênin viết: "Sự đồng nhất của các mặt đối lập ("sự thống nhất" của chúng, nói như vậy có lẽ đúng hơn? tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ đồng nhất và thống nhất không quan trọng lắm. Theo một nghĩa nào đó, cả hai đều đúng)"'. Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hưóng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng. Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dần đến sự chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập diễn ra hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử, cụ thể.

Trong sự thống nhất và đấu tranh giũa các mặt đối lập sự đấu tranh giữa chúng là tuyệt đối, còn sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng. Theo V.I.Lênin: "Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhấttác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lặp bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối".

Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá trình. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và quá trình tác động, chuyển hóa giữa hai mặt đối lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển. Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển trong thế giới. V.I.Lênin khẳng định: "Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập".

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc. khuynh hướng của sự vận động và phát triển. V.I.Lênin đã cho rằng: "Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó... đó là thực chất... của phép biện chứng".

- Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể. Tức là biết phân tích cụ thể từng loại màu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt độne nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định: những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

Vì sao đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối

  • Quy luật phủ định của phủ định
  • Theo phép biện chứng duy vật, các mối liên hệ có những tính chất chung nào? Cho ví dụ.

    Theo phép biện chứng duy vật, các mối liên hệ đều có ba tính chất chung nhất, đó là: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

  • Mọi sự phát triển đều có những tính chất chung nào? Cho ví dụ.

    Mọi quá trình phát triển đều có ba tính chất chung là: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

  • Phát triển là gì? Cho ví dụ. Tăng trưởng và phát triển có mối quan hệ nào? Cho ví dụ

    - Khái niệm phát triển Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật: từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn.

  • Thế nào là quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể? Cho ví dụ. Các quan điểm đó được xác lập trên cơ sở lý luận nào?

    - Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, phát triển va lịch sử cụ thể: Quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể là những quan điểm cơ bản thuộc về phương pháp luận của phép biện chứng duy vật.

  • Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
  • Giá trị cũ và giá trị mới của H?
  • Con người và bản chất của con người
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Phân tích nội dung và ý nghĩa - Mẫu 1

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lậphay còn gọi làquy luật mâu thuẫnlà một trongba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vậtvà là quy luật quan trọng nhất củaphép biện chứng duy vậttrongtriết học Mác - Lênin, là hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sựvận động,phát triển, theo đó nguồn gốc của sự phát triển chính là mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng.

Khái niệm

Các mặt đối lập

Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, nhữngthuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trongtự nhiên,xã hộivà tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong thế giới. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Ví dụ như: Trongnguyên tửcóđiện tửvàhạt nhânhay trong sinh vật thì có sựđồng hoávàdị hoá, trongkinh tế thị trườngcó cung và cầu, hàng và tiền. Những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.

Mâu thuẫn biện chứng

Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau theo hướng trái ngược nhau, xung đột lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trongtư duylà phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng không phải là ngẫu nhiên, chủ quan, cũng không phải là mâu thuẫn tronglôgichình thức. Mâu thuẫn trong lôgic hình thức là sai lầm trong tư duy.

Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng sự mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt cựu sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng sự mâu thuẫn... sự sống trước hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng lại vừa là cái khác. Như vậy sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá trình, mâu thuẫn thường xuyên nảy sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng không còn nữa và cái chết xảy đến. Cũng như chúng ta đã nhận thấy rằng trong lĩnh vực tư duy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn, chăng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của con người và sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế trong những năng lực nhận thức, - mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối với chúng ta trên thực tiễn cũng là vô tận- và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô tận."

–Ph.Ăng-ghen[1]

Sự thống nhất

Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự "đồng nhất" của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó," sự thống nhất của các mặt đối lập" còn bao hàm cả sự " đồng nhất" của các mặt đó. Engels đã đưa ra ví dụ: “Giai cấp vô sản và sự giàu có là hai mặt đối lập, với tính cách như vậy chúng hợp thành một chỉnh thể hoàn chỉnh, thống nhất, chế độ tư hữu với tư cách là sự giàu có buộc phải duy trì vĩnh viễn ngay cả sự tồn tại của mặt đối lập của nó là giai cấp vô sản” - Engels[2]

Do có sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song đó chỉ làtrạng tháivận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sựcân bằngcủa các mặt đối lập.

Sự đấu tranh

Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn "đấu tranh" với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối liên hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.

Nội dung quy luật

Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi cái mới ra đời.

Các yếu tố

- Sự thống nhất: Sự thống nhất của các mặt đối lập: Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, đòi hỏi có nhau, nương tựa vào nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Là sự đồng nhất của các mặt đối lập; là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập.

-Đấu tranh: Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ và phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập có thể được biểu hiện ở sự ảnh hưởng lẫn nhau hoặc dùng bạo lực để thủ tiêu lẫn nhau giữa các mặt đối lập,

-Mối quan hệ: Mối quan hệ giũa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập thể hiện ở chỗ trong một mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, bởi vì trong sự ràng buộc, phụ thuộc quy định lẫn nhau thì hai mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh với nhau. Không có sự thống nhất sẽ không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh, còn đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.

-Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh của các mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới nên hình thức chuyển hóa cũng rất đa dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, cũng có thể cả hai chuyển thành những chất mới. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập phải có những điều kiện nhất định.

Sự phát triển

Phát triển là sự đấu tranh của các mặt đối lập: Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là 2 xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả "sự thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật.

Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Việc hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn là một quá trình đấu tranh rất phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của nó:

-Giai đoạn hình thành mâu thuẫn, biểu hiện: đồng nhất nhưng bao hàm sự khác nhau; khác nhau bề ngoài, khác nhau bản chất, mâu thuẫn được hình thành.

-Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn, biểu hiện: các mặt đối lập xung đột với nhau; các mặt đối lập xung đột gay gắt với nhau.

-Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn, biểu hiện: sự chuyển hóa của các mặt đối lập, mâu thuẫn được giải quyết.

Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mâu thuẫn mới xuất hiện mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.

Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Khi mâu thuẫn đã được giải quyết thì sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời lại bao hàm mâu thuẫn mới, mâu thuẫn mới lại được triển khai, phát triển và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế sự vật cũ. Do vậy, chính sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn đến sự chuyển hóa của các mặt đối lập (giải quyết mâu thuẫn) là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt đối lập không chuyển hóa) thì không có sự phát triển.

Tính chất

Mâu thuẫn là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau của các mặt đối lập bên trong một sự vật, một hiện tượng. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn có tính chất khách quan vì nó là cái vốn có trong sự vật, hiện tượng, là bản chất chung của mọi sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn có tính phổ biến vì nó tồn tại trong tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình, tồn tại trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

Vì mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến nên mâu thuẫn rất đa dạng và phức tạp. Trong các sự vật, hiện tượng khác nhau thì tồn tại những mâu thuẫn khác nhau, trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn khác nhau, trong mỗi giai đoạn, mỗi quá trình cũng có nhiều mâu thuẫn khác nhau. Mỗi mâu thuẫn có vị trí, vai trò và đặc điểm khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Phân loại mâu thuẫn

Mâu thuẫntồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú đa dạng được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.

Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, có thể phân biệt thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.

-Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật.

-Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ sự vật đó với các sự vật khác.

Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là sự tương đối, tuỳ theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong. Để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định phạm vi sự vật được xem xét.

Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng có tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong.

Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:

-Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi cơ bản về chất.

-Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.

TheoHồ Chí Minhthì: “Khi việc gì có mâu thuẫn, khi phải tìm cách giải quyết tức là có vấn đề. Khi đã có vấn đề, ta phải nghiên cứu cho rõ cái gốc của mâu thuẫn là vấn đề gì. Phải điều tra, phải nghiên cứu các mâu thuẫn đó. Phải phân tách rõ ràng và có hệ thống, phải biết rõ cái nào là mâu thuẫn chính, cái nào là mâu thuẫn phụ. Phải đề ra cách giải quyết” - Hồ Chí Minh[3]

Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.

-Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật và chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới.Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biển hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản.

-Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.

Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, có thể chia mâu thuẫn trongxã hộithành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.

- Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp những tập đoànngười, có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Như là: Mâu thuẫn giữanông dânvớiđịa chủ, giữavô sảnvớitư sản....

-Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác định đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối kháng.

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: Phân tích nội dung và ý nghĩa.

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn, là một trong ba quy luật cơ bản của triết học Mác – Lênin. Quy luật này làm sáng tỏ nguồn gốc sự vận động, phát triển của sự vật.